• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 8

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • 9
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương ba

Đ

ây là một trường học ư?

Kéo một chiếc vali phục vụ hiện trường tội ác cồng kềnh màu đen ra phía sau, Amelia Sachs bước qua hành lang mờ mịt. Cô ngửi thấy mùi rêu và gỗ cũ. Những mạng nhện bụi bặm đã cứng lại gần sàn nhà và những mảng sơn màu xanh lá cong lên trên các bức tường. Làm sao lại có người học nhạc ở đây được? Chỗ này giống hệt bối cảnh ở một trong những tiểu thuyết của Anne Rice12 mà mẹ Sachs vẫn đọc.

12 Anne Rice, sinh năm 1941, tiểu thuyết gia người Mỹ chuyên các thể loại tiểu thuyết gothic, văn học Ki-tô giáo và tiểu thuyết khiêu dâm.

“Rờn rợn,” một cảnh sát phản ứng nhanh lầm bầm, giọng nửa đùa nửa thật.

Điều đó nói lên tất cả.

Sáu cảnh sát – bốn sĩ quan tuần tra và hai người mặc quần áo thường – đứng gần chỗ cửa chính có hai cánh ở cuối hội trường. Lon Sellitto tóc tai rũ rượi, đầu cúi xuống và tay nắm chặt một tập ghi chú, đang nói chuyện với một tay bảo vệ. Giống như những bức tường và trần nhà, bộ đồ của tay bảo vệ bám bụi và ố màu.

Qua cửa chính mở rộng, cô liếc thấy một không gian u ám nữa, ở giữa là một hình người mờ nhạt. Nạn nhân.

Cô nói với kỹ thuật viên hiện trường tội phạm đứng bên cạnh, “Chúng ta sẽ cần đèn. Vài chiếc.” Chàng trai trẻ gật đầu và quay lại chiếc RRV13 – xe phản ứng nhanh với hiện trường tội phạm, một chiếc xe có đầy đủ thiết bị thu thập bằng chứng pháp y. Nó ở bên ngoài, một nửa ghếch lên vỉa hè, nơi anh ta đã đậu nó sau khi lái tới đây (có lẽ là với tốc độ dễ chịu hơn Sachs trong chiếc Camaro SS đời 1969 của cô, chiếc xe đã chạy với tốc độ hơn 112 km/h từ chỗ thực hiện bài sát hạch tới ngôi trường).

13 RRV: Viết tắt của “Rapid Response Vehicle.”

Sachs nghiên cứu người phụ nữ trẻ tóc vàng nằm ngửa cách đó khoảng ba mét, bụng cong lên vì cả hai tay bị trói ở dưới người cô ta. Ngay cả trong ánh sáng mờ mịt của sảnh này, đôi mắt nhanh nhẹn của Sachs vẫn lưu ý thấy những vết hằn trên cổ, máu trên môi và cằm nạn nhân – có lẽ vì đã cắn vào lưỡi, một điều thường thấy trong những vụ siết cổ.

Một cách tự nhiên, cô cũng quan sát được: đôi hoa tai màu ngọc lục bảo, đôi giày chạy xộc xệch. Không có dấu hiệu bị cướp, xâm hại tình dục hay cắt xẻo. Không nhẫn cưới.

“Ai là người đầu tiên tiếp cận hiện trường?”

Một phụ nữ cao với mái tóc ngắn màu nâu, bảng tên ghi D. FRANCISCOVICH, nói, “Là chúng tôi.” Một cái hất đầu về phía đồng đội tóc vàng của cô. N. AUSONIO. Ánh mắt họ có vẻ bồn chồn lo lắng và Franciscovich gõ một giai điệu ngắn lên bao đeo súng của cô. Ausonio cứ liếc mãi thi thể. Sachs đoán rằng đây là vụ giết người đầu tiên họ phát hiện ra.

Hai cảnh sát tuần tra tường thuật lại sự việc. Tìm thấy hung thủ, một quầng sáng, gã biến mất, một hàng rào. Rồi gã biến mất hoàn toàn.

“Các cô nói rằng gã tuyên bố giữ một con tin?”

“Gã nói thế,” Ausonio nói. “Nhưng đã kiểm tra tất cả mọi người trong trường. Chúng tôi chắc chắn là gã chỉ lừa.”

“Nạn nhân?”

“Svetlana Rasnikov,” Ausonio nói. “Hai tư tuổi. Sinh viên.” Sellitto quay ra khỏi tay bảo vệ. Anh nói với Sachs, “Bedding và Saul đang thẩm vấn mọi người có mặt trong tòa nhà này vào sáng hôm nay.”

Cô hất đầu về phía hiện trường. “Có những ai ở trong đây?”

Sellitto nói, “Hai sĩ quan đầu tiên đây.” Hất đầu về phía hai phụ nữ. “Rồi hai nhân viên y tế và hai người của Đội Khẩn cấp. Họ rời khỏi ngay khi dọn dẹp xong. Hiện trường vẫn còn khá sạch sẽ.”

“Tay bảo vệ cũng ở trong tòa nhà,” Ausonio nói.

“Nhưng chỉ một phút. Chúng tôi đưa anh ta ra ngay khi có thể.”

“Tốt,” Sachs nói. “Có nhân chứng không?”

Ausonio nói, “Có một người gác cổng ở bên ngoài phòng khi chúng tôi vào đây.”

“Ông ta không nhìn thấy gì,” Franciscovich bổ sung.

Sachs nói, “Tôi vẫn cần dấu giày của ông ta để so sánh. Một trong hai người tìm ông ta cho tôi được không?”

“Chắc chắn rồi.” Ausonio bước đi.

Từ một trong những chiếc vali đen, Sachs lấy ra một túi nhựa trong có khóa kéo. Cô mở túi và lấy ra một bộ áo liền quần Tyvek màu trắng. Mặc nó vào, cô kéo mũ trùm qua đầu. Rồi tới găng tay. Bộ đồ giờ là tiêu chuẩn với mọi kỹ thuật viên pháp y ở NYPD; nó ngăn những dị vật – bằng chứng tiếp xúc, tóc, tế bào da biểu mô và các ngoại vật – rơi ra từ cơ thể cô và làm ô nhiễm hiện trường. Bộ đồ có cả ủng, nhưng cô vẫn làm điều Rhyme luôn khăng khăng là bắt buộc – quấn dây cao su vào chân để phân biệt dấu chân của cô với nạn nhân và hung thủ.

Đeo tai nghe lên và chỉnh lại loa nói, cô kết nối chiếc bộ đàm Motorola của mình. Cô gọi cho một số cố định và lát sau, một hệ thống sắp xếp liên lạc phức tạp đưa giọng trầm trầm của Lincoln Rhyme tới tai cô.

“Sachs, em có đó không?”

“Có. Đúng như anh nói, họ đã dồn gã vào góc và gã biến mất ở đó.”

Anh cười khúc khích. “Và giờ họ muốn chúng ta tìm gã. Chúng ta có phải dọn dẹp sai lầm của tất cả mọi người không? Đợi một phút nào. Lệnh, âm lượng nhỏ hơn… nhỏ hơn.” Tiếng nhạc nền tắt dần.

Người kỹ thuật viên đã đi cùng Sachs xuống hành lang tối om trở lại với những ngọn đèn cao trên giá ba chân. Cô dựng nó ở sảnh và nhấn nút bật.

Có rất nhiều cuộc tranh luận về cách thức đúng nhất để xử lý một hiện trường. Nhìn chung các điều tra viên nhất trí rằng càng ít người càng tốt, dù hầu hết các phòng ban vẫn sử dụng những đội lục soát hiện trường vụ án. Tuy nhiên, vì vụ tai nạn, Lincoln Rhyme đã tìm hiểu hầu hết các hiện trường một mình và anh khăng khăng Amelia Sachs cũng nên làm thế. Có những người khác xung quanh, ta có xu hướng bị phân tâm và thường kém cảnh giác hơn vì ta cảm thấy – ngay cả chỉ là vô thức – rằng đồng đội của ta sẽ tìm ra điều mà ta bỏ lỡ.

Nhưng còn một lý do khác cho việc nên kiểm tra hiện trường một mình. Rhyme nhận ra rằng có một sự gần gũi đáng sợ với tội ác. Người kiểm tra hiện trường làm việc một mình có thể xây dựng mối quan hệ tâm lý với nạn nhân và thủ phạm tốt hơn, thu thập những tri kiến về các bằng chứng liên quan và nơi tìm thấy chúng tốt hơn.

Đó là một trạng thái tâm lý khó khăn mà Amelia Sachs đang rơi vào khi cô nhìn trừng trừng thi thể của người phụ nữ trẻ, nằm trên sàn nhà, gần chiếc bàn bằng sợi ép.

Gần thi thể có một ly cà phê đã đổ, giấy chép nhạc, hộp đựng sáo và một mảnh cây sáo bạc của người phụ nữ, có vẻ cô đang lắp nó vào thì bị kẻ sát nhân tròng sợi thừng qua cổ. Trong lúc giãy giụa trước khi chết, cô đã túm chặt một ống hình trụ khác của nhạc cụ. Phải chăng cô định dùng thứ đó làm vũ khí?

Hay người phụ nữ trẻ tuyệt vọng ấy chỉ muốn cảm nhận thứ gì đó quen thuộc và có thể an ủi trong tay khi cô chết?

“Em đang ở chỗ thi thể, Rhyme,” cô nói khi chụp những bức ảnh xác chết.

“Tiếp đi.”

“Cô ấy nằm ngửa – nhưng những cảnh sát có mặt đầu tiên ở hiện trường tìm thấy cô ấy trong tư thế nằm sấp. Họ xoay cô ấy lại để tiến hành hô hấp nhân tạo. Các vết thương phù hợp với việc bị siết cổ.” Sachs giờ đang nhẹ nhàng lật người phụ nữ lại trong tư thế nằm sấp. “Tay bị trói theo kiểu còng tay cổ điển. Em không nhận ra chúng. Đồng hồ bị vỡ. Ngừng chạy ở chính xác tám giờ sáng. Không có vẻ là tình cờ.” Cô nắm bàn tay đeo găng của mình quanh cổ tay nhỏ bé của người phụ nữ. Nó vỡ tan. “Phải, Rhyme, gã đã giẫm lên đó. Và đó là một cái đồng hồ đẹp. Hiệu Seiko. Tại sao lại giẫm vỡ nó? Sao không lấy nó đi?”

“Câu hỏi hay đấy, Sachs… Có thể là một đầu mối, có thể chẳng là gì cả.”

Một câu khẩu hiệu thật hay ho cho khoa học pháp y, cô nghĩ. “Một trong các cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường đã cắt sợi thừng quanh cổ nạn nhân. Cô ấy đã bỏ qua chỗ nút thắt.” Cảnh sát không bao giờ được cắt nút thắt để gỡ dây khỏi một nạn nhân bị siết cổ; nó có thể tiết lộ rất nhiều thông tin về kẻ đã cột nút đó.

Sachs sau đó sử dụng một cuộn băng keo để thu thập bằng chứng tiếp xúc – tư duy pháp y gần đây cho rằng máy hút bụi xách tay, vốn giống một chiếc Dustbuster, thu mất quá nhiều bằng chứng tiếp xúc. Hầu hết các đội điều tra hiện trường đã chuyển sang dùng những máy nhỏ hơn giống các máy hút lông chó. Cô bỏ bằng chứng tiếp xúc vào túi và sử dụng một dụng cụ lấy các mẫu tóc, móng tay từ cơ thể người phụ nữ.

Sachs nói, “Em sẽ dò từng ô một.”

Cách nói đó – do chính Lincoln Rhyme nghĩ ra – xuất phát từ cách làm ưa thích của anh khi kiểm tra một hiện trường tội ác. Mô thức phân ô là phương pháp toàn diện nhất: đi tới và đi lui theo một hướng, rồi rẽ vuông góc và lại đi tới đi lui cùng một diện tích như thế, luôn nhớ kiểm tra trần nhà và tường cũng như mặt đất hay sàn.

Giờ cô bắt đầu cuộc tìm kiếm, tìm những món đồ vật bị bỏ lại hay đánh rơi, bằng chứng tiếp xúc, chụp ảnh tĩnh điện các dấu chân và ảnh kỹ thuật số. Nhóm chụp ảnh thường sẽ chụp ảnh tĩnh và ghi hình toàn bộ hiện trường, nhưng để có được những hình ảnh đó mất nhiều thời gian và Rhyme luôn khăng khăng là phải ghi lại một số bằng chứng hình ảnh ngay lập tức.

“Sĩ quan này?”

Sellitto gọi. Cô liếc lại.

“Tôi chỉ muốn nói là… Do chúng ta không biết gã khốn này đang ở đâu, cô có muốn thêm người hỗ trợ ở đây không?”

“Không,” cô nói, lặng lẽ cảm ơn anh vì đã nhắc nhở cô rằng có một kẻ giết người tẩu thoát được nhìn thấy lần gần nhất ở đây. Một châm ngôn ở hiện trường tội ác nữa của Lincoln Rhyme: tìm kiếm cho kỹ nhưng hãy cảnh giác cho bản thân. Cô gõ vào báng khẩu Glock của mình để nhắc nhở bản thân chính xác nó ở đâu trong trường hợp cô cần rút súng ra thật nhanh – bao súng đã trượt lên cao hơn một chút khi cô mặc bộ áo liền quần Tyvek vào – và tiếp tục cuộc tìm kiếm.

“Được rồi, đã tìm thấy một thứ,” một lát sau cô nói với Rhyme. “Trong sảnh. Cách nạn nhân khoảng ba mét. Một mảnh vải đen. Lụa. Ý em là có vẻ là lụa. Nó phủ trên một phần cây sáo của nạn nhân nên nó hẳn phải là của hắn ta hay cô ta.”

“Thú vị đấy,” Rhyme nói. “Không biết thứ đó là gì.”

Trong sảnh không còn gì nữa và cô bước vào khu vực biểu diễn, tay cô tiếp tục mò mẫm báng khẩu Glock. Cô thư giãn một chút, thấy rằng thật ra không thể có chỗ nào mà hung thủ có thể trốn được, không có lối vào hay lối thoát bí mật nào. Nhưng khi cô bắt đầu dò từng ô ở đây, cô nhận thấy cảm giác khó chịu ngày càng tăng lên.

Rờn rợn…

“Rhyme, lạ thật…”

“Anh không nghe được em, Sachs.”

Cô nhận ra trong sự khó chịu rằng mình đang thì thầm.

“Có một sợi dây cột quanh những chiếc ghế nằm trên sàn nhà đã bị đốt. Có vẻ có cả dây dẫn cháy nữa. Em ngửi thấy mùi nitrat và lưu huỳnh còn sót lại. Báo cáo nói hắn nổ một phát súng. Nhưng đây không phải là mùi của thuốc súng. Là thứ gì đó khác. À, được rồi… Đó là một bánh pháo màu xám. Có lẽ đó là tiếng súng mà họ nghe thấy… Đợi đã. Còn một thứ khác – ở dưới cái ghế. Đó là một bảng mạch nhỏ màu xanh lá cây có gắn loa.”

“‘Nhỏ’ ư?” Rhyme hỏi châm chọc. “Một xen-ti-mét là nhỏ so với một mét. Một mét là nhỏ so với một trăm mét, Sachs.”

“Xin lỗi. Kích cỡ vào khoảng năm nhân mười ba xen-ti-mét.”

“Như thế là lớn so với một đồng xu, đúng không?”

Đã hiểu thông điệp rồi, cảm ơn rất nhiều, cô âm thầm đáp lại.

Cô bỏ tất cả mọi thứ vào túi, rồi đi ra bằng cửa thứ hai – cửa thoát hiểm – và chụp ảnh tĩnh điện cùng ảnh chụp những dấu chân cô tìm thấy ở đó. Cuối cùng, cô lấy các mẫu kiểm soát để so sánh với các bằng chứng tiếp xúc tìm được ở nạn nhân và ở nơi đối tượng đã đi qua.

“Đã có mọi thứ rồi, Rhyme. Em sẽ về trong nửa giờ nữa.”

“Còn cánh cửa sập, lối vào bí mật mà ai cũng nói tới thì sao?”

“Em không tìm thấy.”

“Được rồi, về nhà đi, Sachs.”

Cô trở lại sảnh và để nhóm Ảnh và Dấu tay của cảnh sát tiếp quản hiện trường. Cô gặp Franciscovich và Ausonio ở lối vào. “Cô tìm thấy người gác cổng chưa?” Cô hỏi. “Tôi cần phải xem giày của ông ta.”

Ausonio lắc đầu. “Ông ta nói với tay bảo vệ là ông ta phải đưa vợ đi làm. Tôi đã để lại lời nhắn yêu cầu ông ta gọi lại.”

Đồng đội của cô cũng nói nghiêm trang, “Này, sĩ quan, chúng tôi đã nói hết mọi chuyện đúng không, Nancy và tôi? Và chúng tôi không hề muốn gã khốn này chạy thoát. Nếu chúng tôi có thể làm thêm điều gì, thì cô biết đấy, xin cứ báo với chúng tôi.”

Sachs hiểu chính xác họ cảm thấy thế nào. “Tôi sẽ xem mình có thể làm được gì,” cô nói với họ.

Bộ đàm của Sellitto réo và anh nhận cuộc gọi. Anh lắng nghe một lát. “Là hai tay thám tử. Họ đã thẩm vấn xong nhân chứng và đang ở sảnh chính.”

Sachs, Sellitto và hai nữ cảnh sát tuần tra trở lại phía trước trường. Họ gặp Bedding và Saul ở đó, một người cao, một người thấp, một người có tàn nhang, một người da sáng. Đây là các thám tử ở trụ sở chuyên về thẩm vấn – thẩm vấn nhân chứng sau vụ án.

“Chúng tôi đã nói chuyện với bảy người có mặt ở đây vào buổi sáng.”

“Cộng thêm tay bảo vệ.”

“Không có thầy cô giáo nào…”

“… Chỉ có học trò.”

Đó là lý do họ được gọi là Cặp song sinh. Dù ngoại hình rất khác nhau, bộ đôi này lại khéo léo trong việc đồng thời thẩm vấn cả nghi phạm lẫn nhân chứng. Sẽ rất rối trí nếu ta tìm cách phân biệt họ. Gom họ lại và coi họ như một người, thì dễ hiểu họ hơn.

“Thông tin không sáng tỏ lắm.”

“Chắc chắn một điều là ai cũng sợ hết.”

“Địa điểm này cũng không tốt.” Một cái hất đầu về phía đống mạng nhện treo trên trần nhà tối đen, vấy bẩn.

“Không ai biết rõ nạn nhân. Khi cô ấy tới đây sáng nay, vào hội trường với một người bạn. Cô ấy…”

“Người bạn.”

“… Không thấy ai trong này cả. Họ đứng ở sảnh năm, mười phút, nói chuyện. Người bạn rời đi lúc khoảng tám giờ.”

“Vậy,” Rhyme, đã nghe được qua bộ đàm, nói, “hắn ở trong hành lang đợi cô ấy.”

“Nạn nhân,” người thấp hơn trong hai viên thám tử tóc màu cát nói, “tới đây từ Georgia…”

“Đó là Georgia gần Nga, không phải Georgia có cây đào14.”

“… Khoảng hai tháng trước. Cô ấy có phần cô đơn.”

14 Georgia gần Nga là nước Gruzia. Georgia có cây đào là bang Georgia ở Mỹ, quả đào là một đặc sản lâu đời ở bang này.

“Lãnh sự quán đã liên lạc với gia đình nạn nhân.”

“Hôm nay tất cả các sinh viên khác tập ở những phòng khác và không ai nghe thấy gì hay nhìn thấy ai mà họ không biết.”

“Tại sao Svetlana không ở trong phòng tập nhạc?”

Sachs hỏi. “Bạn cô ấy nói Svetlana thích âm thanh trong hội trường hơn.” “Có chồng, bạn trai hay bạn gái gì không?” Sachs hỏi, nghĩ tới quy tắc số một trong điều tra án mạng: kẻ thủ ác thường biết nạn nhân.

“Không có người nào mà các sinh viên khác biết.”

“Nghi phạm đã lọt vào tòa nhà thế nào?” Rhyme hỏi và Sachs truyền đạt lại.

Tay bảo vệ nói, “Chỉ có cửa trước là mở. Tất nhiên là chúng tôi có cửa thoát hiểm. Nhưng không thể mở được nó từ bên ngoài.”

“Vậy là gã phải đi qua anh, đúng không?”

“Và đăng ký nữa. Và được ghi hình.”

Sachs liếc lên. “Có máy quay an ninh, Rhyme, nhưng có vẻ ống kính đã không được lau chùi nhiều tháng rồi.”

Họ tập hợp lại đằng sau chiếc bàn. Tay bảo vệ nhấn nút và bật đoạn băng. Bedding và Saul đã hỏi chuyện bảy người. Nhưng họ nhất trí rằng một người – gã tóc nâu, có râu, lớn tuổi, mặc quần bò và áo khoác phồng – không có trong số đó.

“Là gã,” Franciscovich nói. “Đó là kẻ sát nhân.” Nancy Ausonio gật đầu.

Trong đoạn băng mờ ảo, gã đang ký sổ đăng ký rồi bước vào trong. Tay bảo vệ nhìn vào cuốn sổ, chứ không nhìn mặt gã.

“Anh có nhìn được gã không?” Sachs hỏi.

“Không để ý,” anh ta nói vẻ đề phòng. “Nếu họ ký thì tôi để họ vào. Tất cả những gì tôi phải làm là thế. Việc của tôi là thế. Tôi ở đây chủ yếu là để ngăn không cho người ta vào mang đồ ra.”

“Ít ra chúng ta có chữ ký của gã, Rhyme. Và một cái tên. Đó sẽ là đồ giả nhưng ít ra là một mẫu chữ viết tay. Gã ký dòng nào?” Sachs hỏi, cầm cuốn sổ đăng ký bằng mấy ngón tay có đeo găng.

Họ chiếu lại cuốn băng, tua nhanh về đầu. Kẻ sát nhân là người thứ tư ký vào cuốn sổ. Nhưng ở dòng thứ tư là một tên phụ nữ.

Rhyme lên tiếng, “Đếm tất cả những người đã ký.”

Sachs yêu cầu tay bảo vệ làm thế và họ thấy chín người điền tên – tám sinh viên, bao gồm nạn nhân, và kẻ giết cô ấy.

“Chín người đã ký, Rhyme. Nhưng chỉ có tám cái tên trong danh sách.”

“Sao lại thế được?” Sellitto hỏi.

Rhyme: “Hãy hỏi tay bảo vệ xem anh ta có chắc chắn là nghi phạm đã ký không. Có thể là gã giả vờ.”

Cô nêu câu hỏi với người đàn ông đang lặng yên.

“Có, gã có ký. Tôi nhìn thấy. Không phải lúc nào tôi cũng nhìn mặt họ, nhưng tôi đảm bảo chắc chắn là họ có ký.”

Tất cả những gì tôi phải làm là thế. Việc của tôi là thế.

Sachs lắc đầu và bấm vào ngón tay cái của cô.

“Rồi, mang cho anh cuốn sổ đăng ký cùng mọi thứ khác và chúng ta sẽ xem xét ở đây,” Rhyme nói.

Ở góc phòng, một phụ nữ gốc Á đang đứng khoanh tay và nhìn ra ngoài lớp kính pha chì lồi lõm. Cô quay lại và nhìn Sachs. “Tôi nghe thấy cô nói chuyện. Ý tôi là, cô nói nghe như thể cô không biết liệu gã có ra khỏi tòa nhà sau khi gã… sau đó. Cô nghĩ là gã vẫn còn ở đây hả?”

“Không, không phải,” Sachs nói. “Ý tôi chỉ là chúng ta không biết chắc gã đã thoát ra thế nào.”

“Nhưng nếu cô không biết điều đó, thì nó có nghĩa là gã có thể vẫn còn lẩn trốn đâu đó quanh đây. Đợi một người nào đó. Và cô không hề biết gã ở đâu.”

Sachs nở một nụ cười trấn an cô. “Sẽ có rất nhiều cảnh sát ở xung quanh đây tới khi chúng tôi hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Cô không phải lo đâu.”

Dù cô đang nghĩ: Cô gái này hoàn toàn có lý. Phải, gã có thể ở đây, đang đợi một ai đó khác.

Và, đúng, chúng tôi không có bất cứ đầu mối nào về việc gã là ai hay đang ở đâu.