V
à giờ, quý khán giả thân mến, chúng ta sẽ giải lao trong chốc lát. Hãy tận hưởng ký ức về Kẻ lười bị treo cổ… và chờ đợi những gì sắp tới.
Hãy thư giãn.
Màn tiếp theo của chúng tôi sẽ bắt đầu không lâu nữa…
Gã đi dọc theo đường Broadway ở khu Upper West Side của Manhattan. Khi tới một góc phố, gã dừng lại, như thể quên điều gì đấy, và bước vào bóng râm một tòa nhà. Gã rút điện thoại khỏi thắt lưng và nâng nó lên tai. Khi gã nói, thỉnh thoảng lại mỉm cười, cách người ta vẫn làm với điện thoại di động, gã nhìn quanh thoải mái, cũng là điều hay thấy ở người dùng điện thoại di động.
Tuy nhiên, thực ra gã không phải đang gọi điện. Gã đang tìm kiếm xem có dấu hiệu nào cho thấy mình bị theo dõi từ lúc rời trường Âm nhạc không.
Vẻ ngoài của Malerick rất khác với khi gã thoát khỏi ngôi trường sáng nay. Gã giờ là một người tóc vàng, không để râu và mặc đồ chạy bộ cùng một cái áo phông thể thao cao cổ. Nếu người qua đường quan sát, họ có thể đã lưu ý tới vài điểm lạ lùng trong ngoại hình của gã: một vết sẹo ngoằn ngoèo phía trên cổ áo chạy dọc theo cổ, và hai ngón tay – ngón út và ngón đeo nhẫn – bên bàn tay trái dính lại với nhau.
Nhưng chẳng ai nhìn cả. Vì cử chỉ và biểu cảm của gã thật tự nhiên, và – như mọi ảo thuật gia đều biết – hành xử tự nhiên khiến bạn vô hình.
Rốt cuộc khi đã hài lòng rằng mình không bị theo đuôi, gã tiếp tục cuộc tản bộ thoải mái, rẽ ở góc đường tại một ngã tư, rồi tiếp tục đi dọc vỉa hè rợp bóng cây về căn hộ của gã. Xung quanh gã chỉ có vài người chạy bộ và hai hoặc ba người dân sống trong khu đó đang trở về nhà với những tờ Times15 và túi Zabar, sẽ uống cà phê, có một quãng thời gian thoải mái với tờ báo trên tay và có thể là chút vui vẻ trên giường vào sáng cuối tuần không vội vã.
15 Tức tờ The New York Times, một nhật báo được xuất bản tại thành phố New York và được phát hành khắp Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới.
Malerick đi lên cầu thang tới căn hộ gã đã thuê vài tháng trước, một tòa nhà u ám, lặng lẽ, rất khác với căn nhà và xưởng của gã ở sa mạc ngoại ô Las Vegas. Gã đi đường cửa sau lên căn hộ.
Như tôi đã nói, màn biểu diễn thứ hai của chúng ta sẽ bắt đầu trong giây lát.
Còn lúc này, quý khán giả thân mến, hãy bình luận về màn ảo thuật quý vị vừa xem, hãy trao đổi với những người xung quanh quý vị, hãy cố gắng đoán xem tiết mục tiếp theo sẽ là gì.
Màn biểu diễn sắp tới của chúng tôi sẽ bao gồm những kỹ năng rất khác để thử thách nghệ sĩ trình diễn, nhưng tôi cam đoan với quý vị, nó cũng sẽ hấp dẫn không kém màn Kẻ lười bị treo cổ chút nào.
Những từ đó và hàng chục từ nữa tuôn trào tự động qua tâm trí Malerick. Quý khán giả thân mến… Gã liên tục nói chuyện với một đám đông tưởng tượng. (Gã đôi khi nghe thấy tiếng vỗ tay và tiếng khúc khích của họ và thỉnh thoảng là những tiếng kêu lên kinh hoàng.) Một mớ hỗn độn những từ ngữ, trong tiếng ngân nga đầy điệu bộ của một người chủ trò phủ phấn đầy mặt hay một nhà ảo thuật thời Victoria. Hồ ngôn loạn ngữ, người ta gọi những lời đó như thế – một màn độc thoại nhắm vào khán giả để cho họ thông tin cần thiết khiến màn trình diễn hiệu quả, để xây dựng quan hệ với họ. Để khiến họ mất cảnh giác và phân tâm nữa.
Sau vụ cháy, Malerick đã cắt đứt hầu hết liên lạc với đồng loại, và quý khán giả thân mến tưởng tượng dần thay thế họ, trở thành những người bạn đồng hành thường trực của gã. Những lời lộn xộn nhanh chóng lấp đầy suy nghĩ cả lúc thức lẫn lúc ngủ và gã đôi khi cảm thấy những thứ đó đe dọa khiến gã trở nên hoàn toàn điên loạn. Tuy nhiên, đồng thời, nó cũng mang tới cho gã sự an ủi ghê gớm khi biết rằng gã không hoàn toàn bị bỏ mặc một mình trên đời sau tấn thảm kịch ba năm trước. Quý khán giả thân mến của gã luôn ở bên.
Căn hộ bốc mùi sơn véc-ni rẻ tiền và mùi thịt kì dị từ giấy dán tường và sàn nhà. Nơi này hầu như không bài trí gì: những chiếc trường kỷ và ghế bành giá rẻ, một bàn ăn đủ để dùng được, hiện chỉ dành cho một người. Trong khi đó, các phòng ngủ chật kín – đầy những dụng cụ của nghề ảo thuật: những cột, những dàn, những dây thừng, những trang phục, thiết bị tạo khuôn cao su, tóc giả, những mảnh vải, một cái máy khâu, sơn, pháo, đồ hóa trang, bảng điện tử, dây rợ, pin, bông và giấy cháy nhanh, các cuộn dây chì, các thiết bị khắc gỗ… hàng trăm thứ khác nhau.
Gã pha trà thảo mộc và ngồi ở bàn ăn, nhấp từng ngụm thứ đồ uống nhạt nhẽo đó rồi ăn trái cây và một thanh lương khô ít béo. Ảo thuật là một môn nghệ thuật phải dùng sức và một màn diễn chỉ tốt đẹp nếu cơ thể khỏe mạnh. Ăn uống lành mạnh và tập thể dục là tối quan trọng với thành công.
Gã hài lòng với màn diễn sáng nay. Gã đã giết người trình diễn đầu tiên dễ dàng – gã nhớ lại với sự hài lòng tới độ run người về cách cô ta tê liệt vì sốc khi gã xuất hiện ngay đằng sau và tròng sợi thừng quanh cổ cô ta. Cô ta không thể nào biết được gã đang đợi trong góc phòng, dưới tấm màn lụa đen, đã nửa tiếng đồng hồ. Việc cảnh sát bất ngờ xông vào – chà, việc đó làm gã run sợ. Nhưng giống như mọi nhà ảo thuật tài ba, Malerick đã chuẩn bị phương án thoát thân và gã đã thực hiện một cách hoàn hảo.
Gã ăn nốt bữa sáng và cầm chiếc tách vào trong bếp, rửa cẩn thận rồi để lên giá cho khô. Gã làm gì cũng tỉ mỉ; thầy dạy của gã, một nhà ảo thuật dữ tợn, bị ám ảnh, không biết đùa, đã truyền sự kỷ luật đó cho gã.
Gã bước vào căn phòng ngủ lớn và bật đoạn video gã đã quay về địa điểm màn trình diễn tiếp theo. Gã đã xem đoạn băng này vài chục lần và dù gần như đã thuộc lòng, giờ gã vẫn sẽ nghiên cứu nó lần nữa. (Thầy dạy của gã cũng đã truyền cho gã – đôi khi theo nghĩa đen – tầm quan trọng của quy tắc 100:1. Ta phải diễn tập một trăm phút cho một phút trên sân khấu.)
Lúc xem băng, gã kéo một chiếc bàn phủ vải nhung dùng để trình diễn về phía mình. Không nhìn vào tay, Malerick thực hành một số trò đơn giản với các lá bài: trò giả vờ tráo bài, trò giả vờ cắt làm ba chồng bài; rồi một số trò khó hơn: tráo bài ngược, trượt và chia búng bài. Rồi gã làm một số trò ảo thuật thực sự, phức tạp như trò bài ma của Stanley Palm, trò ảo thuật sáu lá bí ẩn nổi tiếng của Maldo, vài trò khác của bậc thầy ảo thuật với bài và cũng là diễn viên nổi tiếng Ricky Jay, các trò khác nữa của Cardini.
Malerick cũng làm một số trò với lá bài có trong những tiết mục biểu diễn thời kỳ đầu của Harry Houdini. Hầu hết mọi người nghĩ Houdini là một người chuyên thoát hiểm, nhưng người nghệ sĩ ấy thực ra là một ảo thuật gia toàn diện, người trình diễn các ảo giác – những trò trên sân khấu với quy mô lớn như làm biến mất các trợ lý và những con voi – lẫn những trò ảo thuật giản dị hơn. Houdini có ảnh hưởng lớn tới cuộc đời gã. Vào lần đầu tiên biểu diễn, lúc còn là thiếu niên, Malerick dùng nghệ danh “Houdini Trẻ.” Phần “erick” trong tên hiện giờ của gã vừa là một phần sót lại của cuộc đời trước – cuộc đời gã trước vụ hỏa hoạn – vừa là một sự tưởng nhớ dành cho chính Houdini, vốn tên khai sinh là Ehrich Weisz. Còn về tiền tố “Mal,” một ảo thuật gia có thể ngờ rằng nó lấy từ tên của nghệ sĩ nổi tiếng thế giới, Max Breit, người trình diễn với nghệ danh Malini. Nhưng thật ra, Malerick đã chọn ba chữ cái đó vì chúng là gốc tiếng Latinh của từ “quỷ dữ,” điều phản ánh bản chất đen tối trong thương hiệu ảo thuật của gã.
Giờ gã nghiên cứu đoạn băng, đo các góc, ghi chú các cửa sổ và nơi có thể có nhân chứng, tìm cách che chắn những vị trí của gã như tất cả những nghệ sĩ trình diễn giỏi vẫn làm. Trong lúc gã xem, những lá bài trong tay gã lao vào nhau trong những cú xáo bài nhanh như chớp, tiếng rít lên như rắn kêu. Các lá K, J, Q và joker cùng tất cả chỗ bài còn lại trượt lên trên tấm vải nhung đen và rồi có vẻ phản trọng lực khi chúng nhảy trở lại vào đôi tay mạnh mẽ của gã – nơi chúng biến mất. Chứng kiến màn trình diễn bột phát đó, đám đông khán giả hẳn sẽ lắc đầu, nửa tin rằng thực tế đã nhường chỗ cho ảo giác, rằng một con người không thể nào làm được điều họ vừa thấy.
Nhưng sự thật thì ngược lại: trò làm biến mất những lá bài vào trong tấm vải đen mà Malerick đang biểu diễn không hề là một phép lạ; chúng chỉ đơn giản là những bài tập được tập luyện một cách khéo léo và có hiểu biết, do những quy tắc vật lý bình thường quy định.
Ồ, phải, quý khán giả thân mến, những gì quý vị đã thấy và sắp sửa thấy là rất thật.
Thật như lửa đốt cháy thịt da vậy.
Thật như một sợi thừng siết chặt quanh cái cổ trắng ngần của một cô gái trẻ vậy.
Thật như vòng xoay của những chiếc kim đồng hồ đang dần tiến về phía kinh hoàng mà nghệ sĩ trình diễn tiếp theo của chúng tôi sẽ trải qua.
***
“Này.”
Người phụ nữ trẻ ngồi xuống cạnh chiếc giường mà mẹ cô đang nằm. Bên ngoài cửa sổ, trong một cái sân được chăm sóc kỹ lưỡng, cô nhìn thấy cây sồi cao, ở trên thân có mọc một dây tường vi tạo thành hình thù mà cô đã cố diễn giải theo nhiều cách trong mấy tháng qua. Hôm nay sợi dây ẻo lả đó không phải là một con rồng hay một bầy chim hay một người lính. Nó chỉ đơn giản là một loại thực vật trong thành phố đang gắng sức sống sót.
“Vậy. Mẹ cảm thấy sao, mẹ?” Kara hỏi.
Cái tên đó xuất phát từ một trong nhiều kỳ nghỉ của gia đình – lần này là đi Anh. Kara đã đặt đủ thứ biệt danh cho mọi người: “Điện hạ” và “Bà má nữ hoàng” với cha mẹ cô. Bản thân cô là “Nhóc hoàng gia.”
“Ổn thôi, con yêu. Và cuộc đời đối xử với con ra sao?”
“Tốt hơn một số người, không bằng một số người khác. Này, mẹ có thích không?” Kara chìa tay ra để khoe bộ móng cắt ngắn, đều đặn của cô, với màu sơn đen như của một chiếc đại dương cầm.
“Đáng yêu lắm, con gái. Ta có hơi mệt mỏi với màu hồng rồi. Ngày nay ở đâu cũng thấy màu đó. Tầm thường kinh khủng.”
Kara đứng lên và chỉnh lại cái gối dưới đầu mẹ. Rồi lại ngồi xuống và nhấp từng ngụm trong ly Starbucks lớn của cô; cà phê là thứ duy nhất cô nghiện, và nghiện cũng khá nặng, chưa kể nó khá đắt, và đây đã là cốc thứ ba của cô trong sáng nay.
Tóc cô cắt kiểu con trai, hiện nhuộm màu tím nâu, nhưng đã từng được nhuộm gần như mọi màu trong phổ màu trong những năm tháng cô sống ở New York. Tinh quái, một số người nói về mái tóc như vậy, sự miêu tả mà cô rất ghét; bản thân Kara đơn giản cho rằng kiểu tóc này “thuận tiện.” Cô có thể ra khỏi nhà chỉ vài phút sau khi bước ra khỏi phòng tắm – một lợi thế thật sự với người thường không lên giường trước ba giờ sáng, và chắc chắn không phải là kiểu chim sâu.
Hôm nay cô mặc quần tây dài màu đen và dù chỉ cao hơn mét rưỡi một chút, cô vẫn mang giày đế bằng. Cái áo phông màu tím đậm của cô không có tay, để lộ những cơ bắp căng, gọn ghẽ. Kara học đại học ở Sarah Lawrence, một trường mà nghệ thuật và chính trị được ưu tiên hơn so với các trò thể dục thể thao, nhưng sau khi tốt nghiệp, cô gia nhập phòng thể hình Gold’s Gym và giờ là một người nâng tạ và chạy máy thường xuyên ở đó. Người ta hẳn nghĩ một cư dân đã sống tám năm ở khu phóng túng Greenwich Village, vào cuối độ tuổi hai mươi, sẽ đầy hình xăm nghệ thuật trên cơ thể hay ít ra là có một chiếc khuyên hay khuy bấm trên người, nhưng Kara không xăm hình và cũng không đeo khuyên.
“Coi thử thứ này đi, mẹ. Con có một buổi diễn ngày mai. Của ông Balzac. Mẹ biết mà.”
“Ta nhớ.”
“Nhưng lần này khác. Lần này ông ấy sẽ để con diễn một mình. Con là người diễn màn khởi động và sau đó là màn chính.”
“Thật sao, con yêu?”
“Thật.”
Bên ngoài lối vào, ông Geldter chen qua.
“Xin chào.”
Kara gật đầu với ông. Cô nhớ lại khi mẹ cô lần đầu tới Stuyvesant Manor, một trong những cơ sở dành cho người cao tuổi tốt nhất thành phố, bà góa phụ đã gây ra kha khá ồn ào.
“Họ nghĩ là chúng ta có quan hệ với nhau,” bà thì thầm với con gái.
“Có không?” Kara hỏi, nghĩ rằng đã tới lúc mẹ nên có quan hệ yêu đương nghiêm túc với một người đàn ông sau năm năm góa bụa.
“Tất nhiên là không!” Mẹ cô rít lên, thật sự giận dữ. “Sao lại đồn thế.” (Biến cố đó định nghĩa người phụ nữ này một cách hoàn hảo: dăm tin đồn bậy bạ thì không sao, nhưng ranh giới là rất rõ ràng – được thiết lập một cách độc đoán – vượt qua làn ranh đó và bạn sẽ trở thành kẻ thù của bà, kể cả bạn có là người ruột thịt.)
Kara tiếp tục, đầy phấn khích cho mẹ cô hay với giọng điệu diễn cảm về những gì cô dự định làm ngày mai. Trong lúc nói, cô quan sát thật kỹ mẹ mình, làn da tươi tắn kỳ lạ với một phụ nữ đã ở tuổi giữa bảy mươi, hồng hào khỏe mạnh như của một đứa trẻ, tóc gần như bạc trắng, nhưng vẫn còn nhiều lọn màu đen ngang ngược lác đác đó đây. Người chuyên chăm sóc sắc đẹp của cơ sở này đã búi nó lên thành một búi thật sành điệu. “Dù sao đi nữa, mẹ, vài người bạn của con sẽ có mặt ở đó và sẽ rất tuyệt nếu mẹ cũng có thể tới.”
“Ta sẽ cố.”
Kara, giờ đang ngồi ở cạnh ghế bành, bỗng nhiên nhận ra rằng tay cô đang nắm chặt lại, cơ thể cũng trở nên căng thẳng hơn hẳn. Hơi thở của cô trở thành những cơn tức ngực ngắn ngủi.
Ta sẽ cố…
Kara nhắm mắt lại, giấu những giọt nước mắt. Mẹ kiếp!
Ta sẽ cố…
Không, không, không, sai hết cả rồi, cô nghĩ đầy giận dữ. Mẹ cô sẽ không nói, “Ta sẽ cố.” Đó không phải là cách nói chuyện của bà. Có thể là: “Ta sẽ tới, con yêu. Ngay hàng đầu.” Hay bà sẽ nói lạnh lùng, “À, mai ta không đi được. Lẽ ra con phải báo sớm hơn.”
Dù mẹ cô có nói gì, thì bà không bao giờ kiểu “Ta sẽ cố.” Ủng hộ hết mình hoặc căm ghét hết sức.
Trừ lúc này – khi bà gần như không còn là một người toàn vẹn nữa. Nhiều lắm cũng chỉ là một đứa trẻ khi ngủ vẫn mở to mắt.
Cuộc nói chuyện vừa rồi của Kara với bà chỉ diễn ra trong trí tưởng tượng đầy hy vọng của cô gái. Về phần Kara thì đúng. Nhưng phần của mẹ cô, từ chỗ “Ổn thôi, con yêu. Và cuộc đời đối xử với con ra sao?” tới câu mấp máy “Ta sẽ cố,” đều do Kara tự nghĩ ra.
Không, mẹ cô cả ngày hôm nay đã không nói một lời nào. Cả trong chuyến thăm hôm qua. Cả trước đó nữa. Bà chỉ nằm cạnh cửa sổ với dây tường vi trong trạng thái hôn mê dù đã tỉnh giấc. Có những ngày bà như thế. Vào những ngày khác, bà tỉnh hoàn toàn nhưng lại lắp bắp những điều vô nghĩa đáng sợ, vốn chỉ xác nhận cho sự thành công của đạo quân vô hình di chuyển không ngừng trong não bà, đốt cháy những ký ức và tư duy duy lý.
Nhưng còn một phần tệ hại hơn trong thảm kịch đó. Thỉnh thoảng trong khoảnh khắc hiếm hoi, sẽ có một thời khắc mong manh của sự sáng tỏ, dù ngắn ngủi nhưng nó đã phủ nhận hoàn toàn nỗi tuyệt vọng của cô. Đúng vào lúc Kara đã đi tới chỗ chấp nhận điều tồi tệ nhất – rằng người mẹ mà cô biết đã biến mất mãi mãi – bà sẽ trở lại, đúng như trước khi xảy ra sự cố xuất huyết não. Và những sự phòng vệ của Kara biến mất, giống như cách một người vợ bị bạo hành tha thứ cho tay chồng vũ phu ngay khi có dấu hiệu ăn năn nhỏ nhất của gã. Trong những khoảnh khắc như thế, cô tự thuyết phục rằng mẹ mình đang khá hơn.
Tất nhiên, các bác sĩ nói gần như không còn hy vọng nữa. Dẫu vậy, họ đã không ở cạnh mẹ cô khi mà vài tháng trước, bà thức dậy và bỗng nhiên quay sang Kara. “Chào con, con yêu. Ta đã ăn những cái bánh quy con mang tới hôm qua. Con đã bỏ thêm hạt hồ đào như ta thích. Mặc kệ calo.” Một nụ cười như bé gái. “À, ta mừng là con ở đây. Ta muốn kể với con những gì bà Brandon đã làm tối qua. Với cái điều khiển từ xa.”
Kara chớp mắt kinh ngạc. Vì, quỷ tha ma bắt, cô đã mang cho mẹ bánh quy hạt hồ đào hôm trước và đã bỏ thêm hạt vào đó. Và đúng, bà Brandon điên khùng ở tầng năm đã ôm chặt cái điều khiển ti-vi và bấm tín hiệu lung tung từ cửa sổ nhà bên sang phòng đợi của nhà dưỡng lão, gây bối rối cho những cư dân ở đó nửa tiếng liền bằng cách cứ chuyển kênh và bật tiếng lên xuống như một con ma phá phách.
Đây rồi! Ai cần bằng chứng tốt hơn về bà mẹ đầy sinh lực của cô, bà mẹ thật sự của cô vẫn còn ở lại trong cái vỏ của cơ thể đã tổn thương và có thể một ngày nào đó sẽ thoát ra được.
Nhưng ngày hôm sau, Kara đã lại thấy bà nhìn trừng trừng con gái mình đầy nghi hoặc, hỏi tại sao cô lại ở đó và cô muốn gì. Nếu là vì hóa đơn tiền điện hai mươi hai đô và năm mươi xu, thì bà đã trả rồi và có séc làm bằng chứng. Kể từ màn trình diễn bánh quy hạt hồ đào và điều khiển ti-vi, không có thêm những buổi diễn tương tự.
Kara chạm vào cánh tay bà, ấm áp, không nếp nhăn, hồng hào như da trẻ em. Cảm nhận điều cô luôn cảm nhận được ở đó trong những chuyến thăm mỗi ngày: bộ ba ước muốn câm lặng rằng bà sẽ qua đời thật thanh thản, rằng bà sẽ trở lại với cuộc đời sôi động – và rằng chính Kara có thể thoát khỏi gánh nặng khủng khiếp của việc mong muốn cả hai lựa chọn không thể hòa hợp với nhau đó.
Cô liếc đồng hồ. Trễ giờ làm rồi, lúc nào cũng vậy. Ông Balzac sẽ không vui. Thứ Bảy là ngày bận rộn nhất của họ. Cô uống hết ly cà phê, ném nó đi và ra ngoài hành lang.
Một người phụ nữ da đen cao lớn mặc đồng phục trắng giơ tay chào. “Kara! Cô tới lâu chưa?” Một nụ cười rộng trên khuôn mặt tròn trĩnh.
“Hai mươi phút.”
“Tôi định ghé qua xem,” Jaynene nói. “Bà ấy còn thức không?” “Không. Bà ấy vừa thiếp đi khi tôi tới đây.”
“Ôi, xin lỗi.”
“Trước đấy bà ấy có nói gì không?” Kara hỏi.
“Có. Chỉ những chuyện lặt vặt thôi. Không thể biết được liệu bà ấy có tỉnh không. Có vẻ thế… Hôm nay là một ngày thật đẹp nhỉ? Sephie và tôi, lát nữa chúng tôi sẽ đưa bà ấy đi dạo ngoài sân nếu bà còn thức. Bà ấy thích điều đó. Bà ấy luôn khá hơn sau những cuộc đi dạo.”
“Tôi phải đi làm bây giờ,” Kara nói với cô y tá. “Này, tôi có một buổi diễn ngày mai. Ở cửa hàng. Chị còn nhớ chỗ đó không?”
“Nhớ chứ. Mấy giờ?”
“Bốn giờ. Ghé qua nhé.”
“Mai tôi nghỉ sớm. Tôi sẽ tới. Sau đó chúng ta sẽ uống thêm món margarita đào. Như lần trước nhé.”
“Ổn đấy,” Kara đáp. “Này, hãy rủ Pete đi luôn.”
Người phụ nữ cau có. “Này cô gái, không có ý gì đâu, nhưng cách duy nhất để gã đó gặp cô vào Chủ nhật là nếu cô có buổi trình diễn giữa hiệp cho đội Knicks hay đội Lakers16 và nó có trên truyền hình cáp.”
16 Các đội bóng rổ chuyên nghiệp của Mỹ New York Knickerbockers và Los Angeles Lakers.