• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương năm

M

ột trăm năm trước, một nhà tài chính tương đối thành công hẳn đã gọi nơi này là nhà.

Hay chủ nhân của một hiệu may ở một khu mua sắm sang trọng trên đường Mười Bốn.

Hay có thể là một chính trị gia có quan hệ với Tammany Hall17, khéo léo trong nghệ thuật muôn thuở của việc làm giàu bằng một vị trí trong chính quyền.

17 Tammany Hall, một tổ chức vận động chính trị nhiều ảnh hưởng ở Mỹ, thành lập vào năm 1786 và ngừng hoạt động từ giữa những năm 1960.

Tuy nhiên, chủ sở hữu hiện tại của căn nhà phố trên đường Central Park West này lại không biết, hoặc không quan tâm về lai lịch của nó. Những đồ đạc thời Victoria hay đồ trang trí hồi cuối thế kỷ mười chín từng một thời tô điểm cho những căn phòng này cũng không hề hấp dẫn Lincoln Rhyme. Anh đang tận hưởng những gì xung quanh mình lúc này: một đống lộn xộn những chiếc bàn chắc chắn, những chiếc ghế đẩu xoay, máy tính, các thiết bị khoa học – một chiếc kệ chất đầy đồ đạc, một máy sắc ký khí/máy đo khối phổ, các kính hiển vi, những hộp nhựa đủ màu sắc, những cốc thí nghiệm, bình lọ, nhiệt kế, bình khí gas, kính bảo hộ, vali đen hay xám với hình thù kì lạ, tưởng chừng dùng để đựng những nhạc cụ bí truyền.

Và dây rợ.

Dây điện và dây cáp ở khắp mọi nơi, phủ kín phần lớn diện tích nhỏ hẹp của căn phòng, số ít cuốn gọn gàng và kết nối những mảnh liền kề của máy móc, số khác biến mất trong những lỗ thủng không đều được đục một cách đáng xấu hổ vào những bức tường nhẵn mịn được tạo bởi thạch cao và gỗ từ hàng thế kỷ trước.

Bản thân Lincoln Rhyme lúc này không cần dây rợ gì cả. Những tiến bộ trong công nghệ hồng ngoại và vô tuyến đã kết nối chiếc micro trên xe lăn của anh – và giường ngủ của anh trên lầu – với một bộ điều khiển bởi môi trường xung quanh và máy tính. Anh lái chiếc xe lăn Storm Arrow bằng ngón đeo nhẫn tay trái trên một tấm cảm ứng MKIV, nhưng tất cả những lệnh khác, từ gọi điện thoại tới gửi thư điện tử, tới chuyển hình ảnh từ kính hiển vi kép lên màn hình máy tính đều có thể thực hiện bằng giọng nói.

Nó cũng có thể kiểm soát được máy thu vô tuyến điện Harman Kardon 8000 mới của anh, lúc này đang phát ra một bản jazz solo êm dịu khắp phòng thí nghiệm.

“Lệnh, tắt máy thu phát,” Rhyme miễn cưỡng yêu cầu khi nghe tiếng đập cửa trước.

Âm nhạc tắt, thay thế bằng tiếng bước chân không đều ở sảnh trước và phòng đợi. Một trong những vị khách là Amelia Sachs, anh nhận ra ngay; với một phụ nữ cao ráo, cô có bước đi thật nhẹ nhàng. Rồi anh nghe tiếng chân nặng nề, dễ phân biệt của đôi chân to lớn, không ai khác ngoài Lon Sellitto.

“Sachs,” anh thì thầm khi cô bước vào phòng, “hiện trường có rộng không? Có lớn quá không?”

“Không quá lớn.” Cô nhíu mày. “Sao anh lại hỏi như vậy?”

Mắt anh nhìn vào những thùng màu xám có chứa bằng chứng mà cô và vài cảnh sát khác đang mang theo. “Anh tự hỏi thế vì có vẻ mất quá nhiều thời gian để kiểm tra hiện trường và trở lại đây. Em có thể sử dụng đèn nháy trên xe em mà. Đó là lý do người ta làm ra nó, em biết mà. Còi hụ cũng được phép luôn.” Khi Rhyme thấy chán, anh trở nên xấu tính. Sự chán chường là kẻ thù lớn nhất trong cuộc đời anh.

Tuy nhiên, Sachs cứ trơ ra với sự chua chát đó – cô có vẻ đang có tâm trạng đặc biệt tốt – và chỉ nói, “Chúng ta có một vài bí ẩn ở đây, Rhyme.”

Anh nhớ lại rằng Sellitto đã dùng từ “lạ lùng” để chỉ vụ giết người này.

“Nói cho anh diễn biến vụ này đi. Chuyện gì đã xảy ra?”

Sachs kể lại đại khái các sự kiện, kết thúc bằng việc kẻ thủ ác thoát ra khỏi hội trường.

“Những cảnh sát tới hiện trường nghe có tiếng súng bên trong hội trường rồi họ phá cửa vào. Cùng lúc đi qua hai cánh cửa duy nhất của căn phòng. Gã đã biến mất.”

Sellitto nhìn vào những ghi chú của anh. “Các cảnh sát tuần tra nói gã khoảng ngoài năm mươi, chiều cao trung bình, tầm vóc trung bình, không có gì khác thường ngoài râu và tóc màu nâu. Có một người gác cổng nói ông ta không thấy ai đi vào hay ra căn phòng đó cả. Nhưng có thể ông ta bị hội chứng nhân chứng, anh biết đấy. Bên trường sẽ gọi lại báo tên và số điện thoại của ông ta. Tôi sẽ xem xem liệu có thể giúp ông ta nhớ lại không.”

“Còn nạn nhân thì sao? Động cơ thì thế nào?”

Sachs nói, “Không có xâm hại tình dục, không cướp bóc.”

Sellitto bổ sung, “Vừa nói chuyện với Cặp song sinh. Cô ấy không có bạn trai trước đây hay bây giờ. Không có vấn đề gì với ai trong quá khứ.”

“Cô ta là sinh viên thôi hả?” Rhyme hỏi. “Hay có đi làm nữa?”

“Sinh viên thôi. Nhưng có vẻ cô ấy có đi diễn để kiếm tiền. Họ sẽ tìm ra là nơi nào.”

Rhyme nhờ trợ lý của mình, Thom, làm người ghi chép, như thường lệ, ghi lại bằng chứng bằng chữ viết tay thanh mảnh lên những tấm bảng trắng lớn trong phòng thí nghiệm. Người trợ lý lấy bút ra và bắt đầu viết.

Có tiếng gõ cửa và Thom biến mất chốc lát khỏi phòng.

“Có khách thăm!” Anh nói với ra từ hành lang.

“Khách thăm sao?”

Rhyme hỏi, không hứng thú lắm với vị khách lúc này. Tuy nhiên, người trợ lý có vẻ rất vui. Bước vào phòng là Mel Cooper, người kỹ thuật viên mảnh khảnh, đầu hói mà Rhyme, lúc còn là người đứng đầu bộ phận pháp y của NYPD, đã gặp vài năm trước trong một vụ hợp tác phá án cướp của/bắt cóc với một sở cảnh sát vùng Thượng New York. Cooper không đồng tình với phân tích của Rhyme về một loại đất cụ thể và hóa ra anh ta đã đúng. Bị ấn tượng, Rhyme đã đào xới quá khứ của tay kỹ thuật viên và phát hiện ra rằng, giống Rhyme, anh ta là một thành viên tích cực và rất được tôn trọng của Hiệp hội Nhân thân Quốc tế – các chuyên gia chuyên xác định nhân thân từ những mảnh bằng chứng nhỏ bé, DNA, tái dựng pháp y và dấu răng. Có bằng toán, vật lý học và hóa học hữu cơ, Cooper cũng là bậc thầy trong phân tích bằng chứng vật chất.

Rhyme lập một kế hoạch để đưa anh ta trở lại thành phố quê hương và anh ta cuối cùng đã đồng ý. Người kỹ thuật viên pháp y ăn nói nhỏ nhẹ kiêm nhà vô địch khiêu vũ làm việc ở phòng thí nghiệm tội phạm của NYPD thuộc khu Queens, nhưng anh thường xuyên hợp tác với Rhyme khi nhà tội phạm học cần tư vấn trong một vụ án đang diễn ra.

Những lời chào vang lên rồi Cooper đẩy cặp kính dày kiểu Harry Potter của anh trên mũi và liếc nhìn một cách không hài lòng những thùng bằng chứng như một kỳ thủ đang dò xét đối thủ của mình. “Chúng ta có gì ở đây?”

“‘Những bí ẩn,’” Rhyme nói. “Theo đánh giá của Sachs. Những bí ẩn.”

“Để xem liệu chúng ta có thể khiến chúng ít bí ẩn hơn không.”

Sellitto kể qua hiện trường vụ giết người cho Cooper trong khi anh đeo găng tay cao su vào và bắt đầu xem xét các túi và chai lọ.

Rhyme đẩy xe lăn lại gần. “Cái này.” Anh hất đầu. “Cái này là gì?” Anh đang nhìn vào một tấm bảng mạch màu xanh lá cây có gắn loa.

“Tấm bảng mạch em tìm thấy trong hội trường,” Sachs nói. “Không biết nó là gì. Chỉ có điều đối tượng để lại ở đó – em chắc chắn thế vì có dấu tay.”

Có vẻ như nó được lấy ra từ một chiếc máy tính, điều không khiến Rhyme ngạc nhiên; bọn tội phạm luôn đi trước trong việc nắm bắt công nghệ. Bọn cướp nhà băng vũ trang khét tiếng hồi năm 1911 đã trang bị súng ngắn bán tự động Colt.45 chỉ vài ngày sau khi mẫu súng này ra mắt, bất chấp việc sở hữu nó là bất hợp pháp, trừ khi cho lực lượng quân đội. Bộ đàm, điện thoại đổi tần số, súng máy, ống ngắm laser, GPS, công nghệ di động, thiết bị giám sát và mã hóa máy tính đều đã được bọn tội phạm sử dụng trước khi các nhân viên chấp pháp dùng tới.

Rhyme là người đầu tiên thừa nhận rằng một số đề tài nằm ngoài chuyên môn của anh. Những đầu mối như máy tính, điện thoại di động và thứ thiết bị đáng tò mò này – tất cả anh đều gọi là “bằng chứng NASDAQ18” – anh chuyển nó lại cho các chuyên gia.

18 NASDAQ: Sàn giao dịch chứng khoán chuyên cho các cổ phiếu mảng công nghệ ở Mỹ.

“Gửi nó đi. Tới chỗ Tobe Geller,” anh chỉ thị.

FBI có một tay tuổi trẻ tài cao ở văn phòng tội phạm máy tính New York của họ. Geller từng giúp anh trong quá khứ và Rhyme biết rằng nếu có ai nói cho họ biết thiết bị này là gì và nó có thể tới từ đâu, thì đó là Geller.

Sachs đưa chiếc túi cho Sellitto, anh giao nó lại cho một cảnh sát mặc đồng phục mang đi. Nhưng người đang muốn thành trung sĩ cảnh sát là Amelia Sachs đã ngăn anh ta lại. Cô muốn đảm bảo rằng anh đã điền vào một phiếu chứng nhận chuỗi hành trình tang chứng, vốn ghi lại tất cả những ai đã chạm vào một mảnh bằng chứng từ hiện trường tới tòa án. Cô kiểm tra tấm phiếu cẩn thận rồi để anh ta đi.

“Còn bài tập đánh giá thì sao, Sachs?” Rhyme hỏi.

“À,” cô nói. Hơi lưỡng lự. “Em nghĩ em làm rất tốt.”

Rhyme ngạc nhiên trước câu trả lời đó. Amelia Sachs thường không thích được người khác khen và hiếm khi nào tự khen mình.

“Anh không hề nghi ngờ việc em sẽ làm được thế,” anh nói.

“Trung sĩ Sachs,” Lon Sellitto trầm tư. “Nghe hay đấy.”

Họ chuyển sang những đồ vật khác dùng cho trò pháo hoa tìm thấy trong trường dạy nhạc: dây dẫn cháy và pháo hoa.

Sachs ít ra đã hiểu được một bí ẩn. Cô giải thích rằng kẻ sát nhân đã lật những chiếc ghế lại để chúng đứng trên hai chân, làm chúng cân bằng bằng những mảnh dây vải. Hắn cột dây dẫn cháy vào giữa những sợi dây vải đó và đốt chúng. Sau khoảng một phút, ngọn lửa trên dây dẫn cháy tới chỗ sợi dây vải và khiến chúng đứt ra. Những chiếc ghế sau đó đổ xuống sàn, tạo ra âm thanh như thể kẻ sát nhân vẫn còn bên trong. Hắn cũng đốt sợi dây dẫn cháy cuối cùng để làm nổ quả pháo mà cảnh sát tưởng nhầm là một phát súng.

“Anh có thể truy ra nguồn gốc thứ nào trong đây không?” Sellitto hỏi.

“Dây dẫn cháy loại bình thường – không thể truy nguồn gốc – và quả pháo đã nổ tan. Không nhà sản xuất, không có gì cả.” Cooper lắc đầu. Rhyme có thể thấy tất cả những gì còn lại là mấy mảnh giấy nhỏ xíu với một lõi kim loại đã cháy của dây dẫn cháy gắn vào đó. Những sợi dây vải hóa ra là 100% cotton khổ hẹp, loại thường, bởi thế không thể truy ra nguồn gốc.

“Có cả ánh đèn chớp nữa,” Sachs nói, nhìn qua những ghi chú của cô. “Khi mấy cảnh sát thấy gã cùng nạn nhân, gã giơ tay lên và có ánh sáng chói lòa. Như pháo sáng. Nó khiến hai người họ không nhìn thấy gì.”

“Có dấu vết nào không?”

“Em không tìm thấy. Họ nói nó chỉ đơn giản là biến mất trong không trung.”

Được rồi, Lon, đúng như anh nói: lạ kỳ.

“Tiếp theo. Dấu giày thì sao?”

Cooper lôi bộ dữ liệu của NYPD về dấu giày ra, một phiên bản kỹ thuật số của hồ sơ bằng giấy mà Rhyme đã thu thập được khi anh còn là trưởng bộ phận pháp y của NYPD. Sau vài phút xem kỹ, anh nói, “Mấy đôi giày là loại giày lười hiệu Ecco. Có vẻ là cỡ mười.”

“Có bằng chứng tiếp xúc nào không?” Rhyme hỏi.

Sachs nhặt vài chiếc túi nhựa ra khỏi một thùng sữa. Bên trong là những dải băng dính lớn được lột ra để lấy bằng chứng tiếp xúc. “Những thứ này là ở nơi hắn đã đi qua, và ở cạnh thi thể.”

Cooper cầm những chiếc túi nhựa và lấy từng tấm băng dính hình chữ nhật ra, trải lên những chiếc khay riêng biệt để kiểm tra, nhằm tránh làm ô nhiễm chéo bằng chứng. Phần lớn bằng chứng tiếp xúc trên băng dính là bụi, khớp với các mẫu kiểm soát của Sachs, có nghĩa là nguồn gốc của nó không phải từ hung thủ hay nạn nhân, mà được tìm thấy tự nhiên ở hiện trường tội ác. Nhưng trên một số mảnh băng dính có những sợi mà Sachs chỉ tìm thấy ở những nơi hung thủ đã đi qua hay trên những đồ vật mà gã đã đụng vào.

“Xem kỹ chúng đi.”

Kỹ thuật viên dùng nhíp gắp chúng ra và đặt lên bệ trượt. Sau đó anh ta đặt nó dưới ống kính hiển vi hai mắt – loại thiết bị được ưa thích để phân tích các đồ vật dạng sợi – rồi nhấn nút. Hình ảnh anh đang nhìn qua thị kính hiện lên trên màn hình phẳng cỡ lớn của chiếc máy tính để tất cả mọi người đều có thể thấy. Những sợi đó có vẻ là sợi dày, màu xám.

Các đồ vật dạng sợi là đầu mối pháp y quan trọng vì chúng phổ biến, chỉ bao gồm hai loại: tự nhiên và nhân tạo và có thể dễ dàng phân biệt. Rhyme ngay lập tức để ý rằng đây không phải là vật liệu sợi nhân tạo hay polymer, do đó nó phải có nguồn gốc tự nhiên.

“Nhưng cụ thể là gì mới được?” Mel Cooper hỏi thành tiếng.

“Hãy nhìn vào cấu trúc tế bào xem. Tôi cá nó là chất thải.”

“Cái gì cơ?” Sellitto hỏi. “Chất thải hả? Như là phân ấy hả?”

“Phân, như tơ. Nó được thải ra từ hệ tiêu hóa của con tằm. Nhuộm màu xám. Được gia công thành màu xỉn. Bên kia có gì, Mel?”

Anh chĩa kính hiển vi sang đó và thấy chúng là những sợi giống nhau.

“Hung thủ có mặc đồ màu xám không?”

“Không,” Sellitto thông báo.

“Nạn nhân cũng không,” Sachs nói. Lại thêm những bí ẩn nữa.

“A,” Cooper nói, nhìn vào thị kính, “có thể có tóc ở đây.”

Trên màn hình hiện ra một sợi tóc dài màu nâu.

“Tóc người,” Rhyme nói, lưu ý thấy hàng trăm vảy tóc. Lông động vật chỉ có tối đa vài chục vảy. “Nhưng là tóc giả.”

“Giả sao?” Sellitto hỏi.

“À,” anh nói một cách sốt ruột, “nó là tóc thật nhưng từ một bộ tóc giả. Rõ ràng là thế. Nhìn đi, ở phía cuối đấy. Đó không phải là nang tóc. Là keo dán. Tất nhiên, có thể không phải là tóc giả của gã, nhưng vẫn đáng để đưa vào sơ đồ đấy.”

“Như thế tóc gã không phải là màu nâu?” Thom hỏi.

“Dữ kiện,” Rhyme nói cộc lốc, “là tất cả những gì chúng ta quan tâm. Hãy ghi rằng đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.”

“Rõ, thưa sếp.”

Cooper tiếp tục kiểm tra và thấy rằng trên hai mảnh băng keo có một chút bụi nhỏ xíu và một thứ gì đó từ thực vật.

“Xem mẩu thực vật trước, Mel.”

Khi phân tích những hiện trường tội ác ở New York, Lincoln Rhyme luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của hệ sinh thái, bằng chứng thực vật và động vật; vì thực ra chỉ một phần tám thành phố là nằm trên lục địa Bắc Mỹ, phần còn lại là các hòn đảo. Điều đó có nghĩa là khoáng chất, hệ thực vật và động vật ít nhiều tương đồng ở những khu cụ thể và thậm chí giữa các tiểu khu trong đó, khiến việc truy tìm nguồn gốc bằng chứng tiếp xúc gắn với địa điểm cụ thể dễ dàng hơn.

Một lát sau, một hình ảnh khá đẹp mắt của một nhánh cây màu đo đỏ và một mẩu lá hiện lên trên màn hình.

“Tốt,” Rhyme tuyên bố.

“Sao lại tốt?” Thom hỏi.

“Tốt vì nó hiếm. Đây là cây hồ đào gỗ đỏ. Ta hầu như không thấy chúng trong thành phố. Nơi duy nhất tôi biết có chúng là ở các công viên Trung Tâm và Riverside. Và… Ồ, nhìn này. Mảng màu lục - lam nhỏ đó là gì vậy?”

“Đâu?” Sachs hỏi.

“Em không thấy sao? Ngay đó!” Rhyme cảm thấy hết sức bực bội vì không thể nhảy khỏi chiếc ghế của mình để chỉ vào màn hình. “Góc dưới bên phải. Nếu nhánh cây là nước Ý thì mảng đó là Sicily.”

“Thấy rồi.”

“Anh nghĩ sao, Mel? Địa y đúng không? Và tôi sẽ nói đó là địa y Parmelia.”

“Có thể,” người kỹ thuật viên nói thận trọng. “Nhưng có rất nhiều loại địa y.”

“Nhưng không nhiều loại có màu lục-lam và xám,” Rhyme đáp ráo hoảnh. “Thật ra, hầu như không còn loại nào khác. Và loại này mọc rất nhiều ở công viên Trung Tâm… Chúng ta có hai liên hệ với công viên đó. Tốt. Giờ xem đám bụi đất nào.”

Cooper để bệ trượt kia vào. Hình ảnh trong kính hiển vi – những hạt bụi nhìn như các thiên thạch – không gợi mở lắm về mặt pháp y và Rhyme nói, “Chạy thử một mẫu qua GC/MS đi.”

Máy sắc ký khí/đo khối phổ19 là sự kết hợp của hai thiết bị phân tích hóa học, cái đầu tiên tách một hợp chất chưa biết ra những đơn vị thành phần và cái thứ hai xác định xem mỗi thành phần đó là gì. Lấy ví dụ, một chất bột trắng trông có vẻ đồng nhất lại có thể bao gồm vài chục loại hóa chất khác nhau: muối nở, a-sen, phấn thơm trẻ em, phenol và cocaine. Sắc ký khí được so sánh với một cuộc đua ngựa: các hợp chất di chuyển qua thiết bị cùng lúc nhưng với tốc độ khác nhau, và nhờ thế có thể phân tách được. Ở “vạch đích,” máy đo khối phổ so sánh mỗi chất đó với một bộ dữ liệu cực lớn những chất đã biết để xác định nó là loại gì.

19 Tức GC/MS, viết tắt của: “gas chromatograph/mass spectrometer.”

Kết quả phân tích của Cooper cho thấy bụi mà Sachs thu về được tẩm một loại dầu. Tuy nhiên, bộ dữ liệu chỉ cho biết rằng nó có nền khoáng chất – không phải thực vật hay động vật – và không thể xác định cụ thể là gì.

Rhyme ra lệnh, “Gửi cái đó cho FBI. Xem liệu người ở phòng thí nghiệm của họ từng gặp nó chưa.” Rồi anh nheo mắt nhìn vào một cái túi nhựa. “Đây là mảnh vải đen em tìm thấy đúng không?”

Có thể là một đầu mối, có thể chẳng là gì cả…

Cô gật đầu. “Nó ở góc hành lang nơi nạn nhân bị siết cổ.” “Liệu có phải của cô ấy không nhỉ?” Cooper tự nhủ.

“Có thể,” Rhyme nói, “nhưng lúc này hãy giả sử rằng đó là của tên sát nhân.”

Cooper thận trọng nhấc thứ đó lên. Anh xem xét nó. “Lụa. Viền bằng tay.”

Rhyme thấy rằng dù nó có thể được gấp lại thành một cuộn nhỏ xíu nhưng khi mở ra nó khá lớn, khoảng 1,8 x 1,2 mét.

“Qua mốc thời gian, chúng ta biết là gã đợi cô ấy trong sảnh,” Rhyme nói. “Tôi cá là gã đã làm thế này: trốn trong một góc với mảnh vải đó quấn trên người. Gã sẽ trở nên vô hình. Gã có lẽ đã mang nó theo nếu những sĩ quan cảnh sát không xuất hiện và khiến gã phải bỏ chạy.”

Cô gái tội nghiệp hẳn phải cảm thấy kinh hoàng lắm khi kẻ sát nhân hiện ra như trong một trò ảo thuật, còng tay cô và tròng sợi thừng quanh cổ cô.

Cooper tìm thấy vài mảnh gàu dính trên tấm vải đen. Anh đưa nó vào bệ kính hiển vi. Một hình ảnh nhanh chóng hiện lên trên màn hình. Khi phóng đại lên, những mảnh đó nhìn giống những mảnh rời rạc của một lá rau diếp héo. Anh dùng một chiếc que thí nghiệm để chạm vào nó. Thứ đó đàn hồi.

“Cái quái gì đấy?” Sellitto hỏi.

Rhyme gợi ý, “Một kiểu cao su gì đấy. Mảnh vụn của bóng – không, quá dày. Và nhìn kìa, Mel. Có thứ gì đó bị nhòe ra. Màu da người nữa. Cho qua máy GC đi.”

Trong khi họ đợi kết quả thì chuông cửa reo.

Thom ra mở cửa và quay lại với một chiếc phong bì.

“Dấu vân tay,” anh tuyên bố.

“Tốt,” Rhyme nói. “Vân tay đã trở lại. Cho qua AFIS20 đi, Mel.”

20 AFIS: viết tắt của “automated fingerprint identification system,” hệ thống nhận dạng vân tay tự động.

Những máy chủ cực mạnh thuộc hệ thống nhận dạng vân tay tự động của FBI, đặt ở West Virginia, sẽ tìm kiếm hình ảnh số hóa của những mảnh vân tay – và cả nguyên vân tay – trên khắp đất nước và trả lại kết quả trong vài tiếng, thậm chí có thể chỉ vài phút nếu nhóm vân tay được tìm thấy trong tình trạng tốt, rõ ràng.

“Nhìn thế nào?” Rhyme hỏi.

“Khá rõ.” Sachs giơ những bức ảnh ra cho anh xem. Rất nhiều trong số đó chỉ là một phần vân tay. Nhưng họ có hình vân tay còn tốt của toàn bộ bàn tay trái của gã. Điều đầu tiên Rhyme chú ý là kẻ sát nhân có hai ngón tay dị dạng – ngón đeo nhẫn và ngón út. Chúng dính lại, có vẻ thế, và da ở đầu ngón tay trơn láng, không có vân tay. Rhyme có tri thức khá ổn về bệnh học pháp y, nhưng không thể khẳng định đây là tình trạng bẩm sinh hay là kết quả của một thương tật.

Khi nhìn trừng trừng vào bức ảnh, Rhyme thấy thật trớ trêu, ngón đeo nhẫn bàn tay trái của đối tượng bị tật; trong khi ngón đó của anh là thứ duy nhất ở dưới cổ còn nhúc nhích.

Rồi anh nhíu mày. “Để yên hình đấy một chút đã, Mel… Gần hơn, Sachs. Anh muốn thấy chúng gần hơn.”

Cô bước lại cạnh Rhyme và anh kiểm tra các vân tay lần nữa. “Có để ý thấy điều gì khác thường về chúng không?”

Cô nói, “Không hẳn… Đợi đã.” Cô cười lớn. “Chúng giống nhau.” Lật qua những bức hình. “Tất cả các ngón tay của gã đều giống nhau.

Vết sẹo nhỏ đó, nó ở cùng vị trí trong từng vân tay một.”

“Gã hẳn phải đeo một kiểu găng tay nào đấy,” Cooper nói, “với những vân tay giả. Tôi chưa bao giờ thấy điều đó.”

Tay hung thủ này là người kiểu quái gì vậy?

Kết quả từ máy sắc ký khí/đo khối phổ hiện lên trên màn hình máy tính. “Được rồi, tôi có cao su thuần chất… và cái gì đây?” Anh tự hỏi. “Thứ gì đó mà máy tính xác định là một chất alginate. Chưa bao giờ nghe nói tới…”

“Răng.”

“Cái gì cơ?” Cooper hỏi Rhyme.

“Đó là một loại bột anh trộn với nước để làm khuôn. Nha sĩ sử dụng nó làm chụp răng và các công việc nha khoa khác. Có lẽ hung thủ của chúng ta từng là nha sĩ.”

Cooper tiếp tục nhìn màn hình máy tính. “Vậy thì chúng ta có những bằng chứng tiếp xúc rất nhỏ bao gồm dầu thầu dầu, propylene glycol, cồn cetyl, mica, ô-xít sắt, titanium dioxide, nhựa than đá và một số chất màu tự nhiên.”

“Một số chất được tìm thấy trong mỹ phẩm,” Rhyme nói, nhớ lại một vụ mà anh xác định được hung thủ ở hiện trường sau khi hắn viết những thông điệp tục tĩu lên gương của nạn nhân bằng bút trang điểm, rồi anh tìm thấy những vết mỹ phẩm đó trên tay áo hắn. Khi điều tra vụ đó, anh đã nghiên cứu các loại mỹ phẩm.

“Của cô ấy hả?” Cooper hỏi Sachs.

“Không,” nữ cảnh sát trả lời. “Tôi đã lấy gạc thấm lên da cô ấy. Cô ấy không dùng mỹ phẩm.”

“Ghi lên bảng đi. Chúng ta sẽ xem nó có ý nghĩa gì không.”

Chuyển sang sợi thừng, vũ khí của kẻ giết người, Mel Cooper nhổm khỏi chỗ ngồi để nhìn tấm bảng ghi chép bằng sứ. “Đó là một sợi thừng với lớp vỏ trắng quanh lõi màu đen. Chúng đều là lụa tết – rất nhẹ và mỏng – điều đó giải thích tại sao nhìn nó không dày hơn một sợi thừng bình thường dù thật ra là hai sợi hợp lại.”

“Làm thế để làm gì? Phải chăng phần lõi giúp sợi thừng chắc hơn?” Rhyme hỏi. “Dễ cởi ra hơn? Hay khó cởi ra hơn? Để làm gì?”

“Không biết.”

“Chuyện này ngày càng bí hiểm,” Sachs nói với sự nhạy bén đầy kịch tính mà Rhyme hẳn sẽ thấy khó chịu nếu anh không đồng tình với cô.

“Phải,” anh xác nhận, hơi bối rối. “Chuyện này mới với anh. Hãy tiếp tục nào. Tôi muốn thấy thứ gì đó quen thuộc, thứ gì đó chúng ta có thể sử dụng.”

“Và nút thắt?”

“Là của một chuyên gia, nhưng tôi không xác định được,” Cooper nói.

“Chụp một bức hình của nó và gửi tới Cục. Và… Chúng ta có biết ai ở Bảo tàng Hải dương học không?”

“Họ đã giúp chúng ta vài lần về các nút thắt,” Sachs nói. “Em sẽ gửi một bức ảnh cho cả họ nữa.”

Một cuộc gọi từ Tobe Geller ở phòng Tội phạm Máy tính tại tổng hành dinh FBI ở New York. “Chuyện này vui đây, Lincoln.”

“Mừng là bọn tôi vẫn làm anh vui,” Rhyme lầm bầm. “Anh có thể nói điều gì hữu ích về món đồ chơi đó không?”

Geller, chàng trai trẻ tóc xoăn, không để ý tới sự khó chịu của Rhyme, nhất là khi có một thứ gì đó liên quan đến máy tính. “Đó là một thiết bị ghi âm kỹ thuật số. Một thứ nhỏ bé hấp dẫn. Đối tượng của anh đã ghi âm điều gì đó, lưu âm thanh lại trong ổ cứng rồi lập trình để nó bật lên sau một quãng thời gian. Chúng tôi không biết âm thanh đó là gì – gã đã viết một chương trình để hủy dữ liệu.”

“Đó là giọng của gã,” Rhyme lầm bầm. “Khi gã nói mình có con tin, đó chỉ là một băng ghi âm. Giống như những chiếc ghế. Là để chúng ta nghĩ gã vẫn ở trong phòng.”

“Hợp lý. Nó có một cái loa đặc biệt, loại nhỏ nhưng có tiếng bass và âm vực trung tuyệt vời. Nó giả tiếng người rất giống.”

“Không còn gì trên chiếc đĩa hả?”

“Không. Đã xóa sạch.”

“Mẹ kiếp. Tôi muốn có dấu vết giọng nói.” “Rất tiếc. Mất rồi.”

Rhyme thở dài thất vọng và quay lại với những khay chứng cứ; việc nói với Geller lời cảm ơn về sự giúp đỡ là của Sachs.

Cả nhóm sau đó xem xét chiếc đồng hồ đeo tay của nạn nhân, nó bị đập vỡ tan vì lý do gì đó mà họ không hiểu. Nó không có bằng chứng gì khác ngoài thời gian gây án. Hung thủ thường đập vỡ đồng hồ đeo tay hay đồng hồ treo tường ở các hiện trường tội ác sau khi đã chỉnh chúng sai giờ để đánh lừa các điều tra viên. Nhưng chiếc đồng hồ này dừng gần với thời gian thật của vụ án mạng. Tại sao lại như thế?

Càng thêm bí ẩn…

Khi người trợ lý viết những quan sát của họ lên chiếc bảng trắng, Rhyme nhìn qua chiếc túi đựng cuốn sổ ký tên. “Cái tên biến mất trong cuốn sổ này.” Anh nói, “Chín người ký vào nhưng chỉ có tám cái tên trong danh sách… Tôi nghĩ chúng ta cần một chuyên gia ở đây.” Rhyme ra lệnh vào trong micro, “Lệnh, gọi điện thoại. Gọi cho Kincaid phẩy Parker.”