• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 11

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 10
  • 11
  • 12
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương sáu

T

rên màn hình hiện ra mã vùng 703, Virginia, rồi số được bấm gọi.

Một tiếng chuông reo. Giọng bé gái, “Nhà Kincaid đây ạ.” “Ừm, ờ. Parker có đó không? Ý chú là cha cháu ấy.”

“Ai gọi vậy?”

“Lincoln Rhyme. Ở New York.” “Xin đợi máy.”

Một lát sau, giọng uể oải của người kiểm tra tài liệu hàng đầu đất nước phát ra trên đường dây. “Chào, Lincoln. Đã một, hai tháng rồi đúng không?”

“Bận quá,” Rhyme giải thích. “Anh sao rồi, Parker?”

“Ôi, đang gặp rắc rối. Suýt thì gây ra một sự cố quốc tế. Hội Văn hóa Anh trong vùng muốn tôi chứng thực một cuốn sổ tay của Vua Edward mà họ đã mua từ một nhà sưu tầm tư nhân. Lưu ý là đã nhé, Lincoln.”

“Họ trả tiền rồi.”

“Sáu trăm ngàn.”

“Đắt đó. Họ muốn có nó đến thế sao?”

“Ôi, nó liên quan đến vài câu chuyện phiếm về Churchill và Chamberlain21. Tất nhiên, không phải theo nghĩa ngồi lê đôi mách.”

21 Các Thủ tướng Anh: Winston Churchill (1874 - 1965), làm thủ tướng hai nhiệm kỳ, 1940 - 1945 và 1951 - 1955; Neville Chamberlain (1869 - 1940), làm thủ tướng 1937 - 1940. Từ chi tiết này, có thể xác định Vua Edward ở trên là Edward VIII của Anh (1894 - 1972, làm vua từ tháng 1 tới tháng 12 - 1936).

“Tất nhiên là không.” Như thường lệ, Rhyme cố gắng kiên nhẫn với những người mà anh đang tìm kiếm sự giúp đỡ miễn phí.

“Tôi đã xem qua nó và tôi có thể làm gì đây? Tôi buộc phải nghi ngờ nó.”

Động từ vô hại đó, từ một chuyên gia về tài liệu được trọng vọng như Kincaid, đồng nghĩa với việc dán nhãn cho cuốn nhật ký đó là đồ giả.

“A, họ sẽ vượt qua chuyện đó thôi,” anh ta nói tiếp. “Dù giờ nghĩ lại, họ vẫn chưa trả tiền cho tôi… Không con yêu, chúng ta sẽ không làm kem phủ tới khi cái bánh nguội… Vì bố nói thế.”

Là một ông bố đơn thân, Kincaid là nguyên cục trưởng Cục Lưu trữ hồ sơ của FBI ở tổng hành dinh. Anh rời Cục để lập và điều hành công ty dịch vụ giám định tài liệu, để có thêm thời gian với các con, Robby và Stephanie.

“Margaret sao rồi?” Sachs nói vào loa. “Cô hả, Amelia?”

“Phải.”

“Cô ấy ổn. Đã không gặp cô ấy vài ngày rồi. Chúng tôi đưa bọn trẻ tới Planet Play hôm thứ Tư và tôi đang định đánh bại cô ấy ở trò bắn súng laser thì máy nhắn tin reo. Cô ấy phải đi bắt vài người. Panama hay Ecuador hay nơi nào đấy đại loại thế. Cô ấy không nói chi tiết với tôi. Vậy có chuyện gì đấy?”

“Chúng tôi đang có một vụ và tôi cần sự giúp đỡ. Tình hình là thế này: hung thủ có viết tên của gã trong một cuốn sổ đăng ký an ninh. Hiểu không?”

“Hiểu rồi. Và anh cần phân tích chữ viết tay?”

“Vấn đề là chúng tôi không có chữ viết tay nào hết.”

“Nó biến mất sao?”

“Phải.”

“Và anh chắc chắn là người viết không giả mạo?”

“Đúng vậy. Có một tay bảo vệ đã nhìn thấy chữ viết trên giấy, chắc chắn thế.”

“Giờ có nhìn thấy gì không?”

“Không có gì cả.”

Kincaid cười ranh mãnh. “Thông minh đấy. Vậy là không có bằng chứng gì ghi lại việc gã đã vào trong tòa nhà. Và rồi một người khác viết tên họ lên chỗ trống và phá hỏng bất kỳ dấu vết nào trên đó, có thể là chữ ký của hắn.”

“Đúng.”

“Có gì trên tờ giấy phía dưới tờ đầu tiên không?”

Rhyme liếc nhìn Cooper, người đang chiếu đèn pin thành hình góc nhọn lên tờ giấy thứ hai trong cuốn sổ – cách này được ưa chuộng hơn việc dùng chì của bút chì phủ lên trang để thu thập bằng chứng lực tiếp xúc. Anh lắc đầu.

“Không có gì hết,” Rhyme nói với người kiểm tra tài liệu. Rồi hỏi, “Vậy làm sao gã làm được thế?”

“Gã làm nó vô hình,” Kincaid tuyên bố. “Như thế nào?” Sellitto hỏi.

“Dùng mực tự mờ. Trong nghề chúng tôi gọi đó là làm cho vô hình. Phương pháp cũ dùng phenolphthalein. Trước khi nó bị FDA22 cấm. Anh cho một viên thuốc tan ra trong cồn và tạo thành mực xanh. Nó có alkaline pH. Rồi anh viết thứ gì đấy. Sau một lúc, việc tiếp xúc với không khí sẽ làm màu xanh biến mất.”

22 FDA: viết tắt của “Food and Drug Administration,” Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ.

“Chắc chắn rồi,” Rhyme nói, nhớ lại kiến thức hóa học cơ bản.

“CO2 trong không khí biến mực thành a-xít và trung hòa màu.”

“Chính xác. Ta không còn thấy phenolphthalein nhiều nữa. Nhưng anh có thể làm tương tự với thymolphthalein và sodium hydroxide23.”

23 Sodium hydroxide: tức dung dịch kiềm (xút), công thức hóa học là NaOH.

“Có thể mua được thứ này ở một nơi cụ thể nào không?”

“Hừm,” Kincaid cân nhắc. “À… Đợi một chút, con yêu. Cha đang nghe điện thoại… Không, nó vẫn ổn. Mọi cái bánh đều có vẻ bị móp xuống so với khi còn ở trong lò. Cha sẽ ra ngay… Lincoln? Điều tôi định nói là đây là một ý tưởng rất hay ho trên lý thuyết, nhưng khi tôi còn ở Cục, chưa bao giờ có hung thủ hay gián điệp nào thực sự dùng mực biến mất. Nó nghe giống một món hàng lạ hơn, anh hiểu ý tôi chứ. Dân ảo thuật mới dùng.”

Ảo thuật, Rhyme nghĩ thật u ám, nhìn lên tấm bảng có dán những bức hình Svetlana Rasnikov tội nghiệp. “Hung thủ của chúng tôi sẽ tìm được thứ mực đó ở đâu?”

“Nhiều khả năng là ở các cửa hàng bán đồ ảo thuật.”

Thú vị đấy…

“Được rồi, thông tin đó rất có ích, Parker.”

“Thỉnh thoảng lên đây thăm bọn tôi,” Sachs nói. “Và mang lũ trẻ theo.”

Rhyme nhăn mặt khi nghe lời mời. Anh thì thầm với Sachs, “Sao em không mời tất cả bạn bè của chúng đi. Cả trường luôn…”

Cô cười lớn rồi suỵt im lặng với anh.

Sau khi ngắt cuộc gọi, Rhyme nói một cách cáu bẳn, “Chúng ta càng học nhiều, chúng ta càng biết ít.”

Bedding và Saul gọi báo rằng Svetlana có vẻ được mến mộ ở trường Âm nhạc và không có kẻ thù nào. Công việc bán thời gian của cô, người hướng dẫn hát bè ở các bữa tiệc sinh nhật cho trẻ con cũng không có khả năng đưa cô vào tầm ngắm.

Một gói hàng được chuyển tới từ văn phòng kiểm tra y khoa. Bên trong là một túi nhựa đựng bằng chứng: chiếc còng tay cũ dùng để còng tay nạn nhân. Chúng chưa được mở ra, theo lệnh của Rhyme. Anh yêu cầu viên kiểm tra y khoa ép tay nạn nhân để lấy chiếc còng tay ra bởi việc phá khóa nó có thể hủy đi đầu mối giá trị.

“Chưa bao giờ thấy thứ gì thế này,” Cooper nói, giơ nó lên, “mới thấy trên phim thôi.”

Rhyme đồng ý. Chiếc còng là loại cổ, nặng nề và làm bằng sắt tán không đều.

Cooper vuốt nhẹ và chạm xung quanh ổ khóa nhưng không tìm thấy đầu mối nào đáng kể. Chi tiết nó là đồ cổ xưa cũng là điểm thuận lợi cho việc điều tra vì sẽ giúp khoanh vùng thông tin về nguồn gốc của nó. Rhyme nói Cooper chụp ảnh chiếc còng và in những bức hình đó ra cho những người bán xem.

Sellitto nhận được một cuộc gọi khác. Anh nghe một chút, nhìn có vẻ bối rối, rồi nói, “Không thể nào… Ông chắc chứ?… Được, được rồi. Cảm ơn.” Gác máy, viên thanh tra liếc nhìn Rhyme. “Tôi không hiểu.”

“Có chuyện gì vậy?” Rhyme hỏi, không có tâm trạng cho những bí ẩn nào nữa.

“Đó là người quản lý trường Âm nhạc. Không có người gác cổng nào cả.”

“Nhưng mấy viên cảnh sát tuần tra đã nhìn thấy ông ta,” Sachs chỉ ra.

“Nhân viên làm vệ sinh không làm việc vào thứ Bảy. Chỉ tới vào buổi tối các ngày trong tuần. Và không có ai giống như người mà cảnh sát đã thấy.”

Không có người gác cổng ư?

Sellitto nhìn qua những ghi chú của mình. “Ông ta ở ngay ngoài cửa thứ hai, đang quét dọn. Ông ta...”

“Ôi mẹ kiếp,” Rhyme quát. “Là gã!” Rồi liếc tay thanh tra. “Người gác cổng nhìn hoàn toàn khác với hung thủ, đúng không?”

Sellitto xem lại sổ tay. “Ông ta khoảng sáu mươi, hói đầu, không có râu, mặc áo liền quần màu xám.”

“Áo liền quần màu xám!” Rhyme hét lên.

“Phải.”

“Đó là sợi tơ. Đó là từ quần áo.”

“Anh đang nói về cái gì thế?” Cooper hỏi.

“Đối tượng đã giết cô sinh viên. Lúc bị cảnh sát làm cho bất ngờ, gã đã dùng cách lóe đèn lên để khiến họ không nhìn thấy gì, rồi chạy vào nơi trình diễn, bày đặt những dây dẫn cháy và máy ghi âm kỹ thuật số để khiến họ nghĩ rằng gã vẫn còn ở trong đó rồi đổi sang bộ đồ người gác cổng và chạy ra cửa thứ hai.”

“Nhưng gã không thể nào chỉ đơn giản là cởi sạch quần áo ra như những kẻ cướp giật trên tàu hỏa được, Linc,” viên thanh tra mập mạp chỉ ra. “Làm thế quái nào mà gã làm được như thế chứ? Người ta không nhìn thấy gã trong bao lâu chứ, sáu mươi giây?”

“Được rồi. Nếu anh có lời giải thích nào khác không liên quan tới phép màu thì tôi sẵn sàng lắng nghe.”

“Coi nào. Không thể nào vậy được.”

“Không thể nào sao?” Rhyme tự nói một cách bỉ bôi khi anh lăn chiếc xe tới gần tấm bảng trắng, trên đó Thom đã dán bản in của những bức ảnh kỹ thuật số mà Sachs chụp dấu chân. “Vậy còn các bằng chứng thì sao?” Anh xem xét dấu chân của hung thủ và những dấu chân mà cô đã lấy ở chỗ hành lang gần nơi tay gác cổng có mặt.

“Đôi giày,” anh tuyên bố.

“Chúng có giống nhau không?” Viên thanh tra hỏi.

“Giống,” Sachs nói và bước về phía tấm bảng. “Hiệu Ecco, cỡ số mười.”

“Chúa ơi,” Sellitto lầm bầm.

Rhyme hỏi, “Được rồi, chúng ta có gì nào? Hung thủ ngoài năm mươi tuổi, vóc dáng trung bình, chiều cao trung bình và không có râu, hai ngón tay dị dạng, có lẽ là có tiền án bởi lẽ gã giấu vân tay. Đó là tất cả những điều chết tiệt mà chúng ta biết.” Nhưng rồi Rhyme nhíu mày. “Không,” anh mơ hồ thì thầm, “đó không phải là tất cả những gì chúng ta biết. Còn một thứ khác. Gã mang theo quần áo để thay, mang cả vũ khí giết người… Gã là một tên tội phạm có chủ đích.” Anh liếc nhìn Sellitto và nói thêm, “Gã sẽ còn tiếp tục hành động nữa.”

Sachs gật đầu tỏ ý đồng tình.

Rhyme nhìn chằm chằm vào những chữ viết bay bướm của Thom trên tấm bảng trắng liệt kê bằng chứng và tự hỏi: Điều gì kết nối tất cả những chuyện này với nhau đây?

Lụa màu đen, đồ trang điểm, thay đổi quần áo, ngụy trang, ánh sáng lóe lên kiểu flash và mực vô hình.

Rhyme nói chậm rãi, “Tôi nghĩ rằng hung thủ được đào tạo về ảo thuật.”

Sachs gật đầu. “Hợp lý.”

Sellitto gật đầu. “Được rồi. Có thể. Giờ chúng ta làm gì đây?” “Còn chưa rõ ràng sao?” Rhyme nói. “Tự tìm lấy người của chúng ta.”

“Người gì?” Sellitto hỏi.

“Tất nhiên là ảo thuật gia rồi.”

***

“Làm lại đi.”

Tới giờ cô đã làm tám lần rồi.

“Lại nữa sao?”

Người đàn ông gật đầu. Và Kara lại làm lại.

Trò bung khăn tay ba lần – do thầy giáo, ảo thuật gia nổi tiếng Harlan Tarbell nghĩ ra – là trò chắc chắn sẽ làm khán giả hài lòng. Ba mảnh lụa có màu khác nhau được buộc lại thật chặt và có vẻ không gỡ ra nổi. Đó là một trò khó mà trình diễn trơn tru, nhưng Kara cảm thấy hài lòng với những gì đã diễn ra.

Tuy nhiên, David Balzac thì không. “Những đồng xu của cô đang lên tiếng đấy.” Ông thở dài – đó là một sự phê bình gay gắt, có nghĩa là một trò ảo thuật hay màn trình diễn rõ ràng là quá vụng về. Người đàn ông đã lớn tuổi, cơ thể vạm vỡ với mái tóc bờm màu trắng và hàm râu dê đã lốm đốm lắc đầu tức giận. Ông gỡ cặp kính dày ra, dụi mắt rồi đeo vào lại.

“Tôi nghĩ là trơn tru mà,” cô phản đối. “Có vẻ trơn tru với tôi.”

“Nhưng cô không phải là khán giả. Ta mới là khán giả. Làm lại đi.”

Họ đứng trên một sân khấu nhỏ đằng sau Smoke & Mirrors, cửa hàng mà Balzac đã mua sau khi ông về hưu, từ giã giới ảo thuật và xiếc quốc tế mười năm trước. Nơi bẩn thỉu này bán đồ dùng làm ảo thuật, cho thuê trang phục, thiết bị và trình diễn các buổi ảo thuật miễn phí, nghiệp dư, cho khách hàng và dân địa phương. Một năm rưỡi trước, Kara, khi ấy đang làm biên tập viên tự do cho tạp chí Self, cuối cùng đã đủ can đảm đứng lên sân khấu – danh tiếng của Balzac đã khiến cô hoảng sợ trong nhiều tháng trời. Tay ảo thuật gia già xem cô trình diễn và gọi cô vào văn phòng của ông sau đó. Đích thân Balzac vĩ đại đã nói với cô bằng giọng cộc cằn nhưng êm ái rằng cô có triển vọng. Cô có thể trở thành một nhà ảo thuật lớn – nếu được đào tạo đúng cách – và đề xuất cô tới làm việc ở cửa hàng; ông sẽ là người chỉ dạy và làm thầy giáo của cô.

Kara chuyển từ vùng Trung Tây tới New York nhiều năm trước và hiểu biết về cuộc sống ở thành phố; cô biết ngay lập tức “người chỉ dạy” có nghĩa là gì, nhất là khi ông đã bốn lần ly dị và cô là một phụ nữ hấp dẫn, trẻ hơn ông đến bốn mươi tuổi. Nhưng Balzac là một ảo thuật gia danh tiếng – ông đã trình diễn thường xuyên trong chương trình của Johnny Carson và là ngôi sao tại Las Vegas nhiều năm trời. Ông đã lưu diễn vòng quanh thế giới vài chục lần và biết gần như mọi nhà ảo thuật lớn còn sống. Ảo thuật là đam mê của cô và đây là cơ hội cả đời. Cô đồng ý ngay lập tức.

Ở buổi học đầu tiên, cô rất cảnh giác và sẵn sàng phản ứng lại những trò lố. Bài học hóa ra lại rất đáng buồn với cô – dù vì một lý do hoàn toàn khác.

Ông đã mắng nhiếc cô không thương tiếc.

Sau khi dành một giờ đồng hồ chỉ để chỉ trích gần như mọi khía cạnh trong kỹ thuật của cô, Balzac nhìn vào khuôn mặt nhợt nhạt, đẫm nước mắt của cô và quát, “Tôi nói là cô có triển vọng. Tôi không bảo là cô đã giỏi rồi. Nếu cô muốn có một người ve vuốt cái tôi của cô thì cô đã tới nhầm chỗ rồi. Giờ thì cô sẽ chạy về nhà khóc với mẹ hay quay lại làm việc đây?”

Họ quay lại làm việc.

Và thế là mười tám tháng của mối quan hệ vừa yêu vừa ghét giữa người thầy và kẻ tập sự bắt đầu. Cô phải thức tới qua nửa đêm sáu hoặc bảy ngày một tuần để tập luyện, tập luyện và tập luyện. Balzac từng có nhiều trợ lý trong những năm tháng còn trình diễn, nhưng ông chỉ làm thầy của hai người tập sự và có vẻ những thanh niên đó hóa ra lại là những nỗi thất vọng. Ông sẽ không để chuyện như vậy xảy ra với Kara.

Bạn bè đôi khi hỏi cô rằng tình yêu của cô – và nỗi ám ảnh của cô – với ảo thuật từ đâu mà tới. Họ hẳn trông đợi một thời thơ ấu bị dày vò như trong phim ảnh bé gái bị cha mẹ hay thầy cô giáo bạo hành, hay ít ra là chút hé lộ từ bé gái nhút nhát muốn trốn chạy khỏi đám bắt nạt độc ác ở trường học để sống trong thế giới ảo mộng của mình. Nhưng thay vào đó, câu trả lời họ nhận được là một cô gái bình thường – một học sinh vui vẻ, dân thể dục dụng cụ, khoái làm bánh quy và tham gia dàn hợp xướng của trường. Cô bắt đầu hành trình theo đuổi nghề diễn một cách không lấy gì làm kịch tính chỉ bằng việc tham dự một màn trình diễn của Penn và Teller ở Cleveland cùng ông bà mình, rồi một tháng sau đó là chuyến đi tình cờ của gia đình tới Vegas để dự một hội nghị về sản xuất tua- bin của cha cô. Chuyến đi đã làm bùng lên sự hồ hởi với ảo thuật, niềm đam mê của cô với những con cọp biết bay và những màn ảo thuật với lửa.

Tất cả chỉ có thế. Năm mười ba tuổi, cô thành lập câu lạc bộ ảo thuật ở trường cấp ba JFK và nhanh chóng dành mọi đồng tiền đi trông trẻ để mua tạp chí ảo thuật, băng video dạy làm trò ảo thuật ; cô còn làm các trò ảo thuật đóng gói sẵn. Sau này cô còn nhận thêm công việc làm vườn và xúc tuyết để đổi lấy những chuyến đi tới Big Apple Circus và Cirque du Soleil bất cứ khi nào chúng xuất hiện trong phạm vi bán kính tám mươi cây số quanh nhà cô.

Nói thế không có nghĩa là không có một động cơ quan trọng nào khiến cô khởi đầu – và tiếp tục hành trình này. Không, điều thúc đẩy Kara là có thể dễ dàng tìm thấy những khoảnh khắc ngạc nhiên thích thú trên khuôn mặt khán giả – dù họ là hai chục người bà con của cô trong bữa tối lễ Tạ ơn (một màn trình diễn với các tiết mục thay đồ nhanh và làm con mèo lơ lửng, dù không có cánh cửa sập, bởi cha cô sẽ không để cô hạ sàn phòng khách) hay là những học sinh và phụ huynh ở buổi biểu diễn tài năng của trường cấp ba, nơi cô có hai màn trình diễn khiến cả hội trường đứng lên vỗ tay.

Tuy nhiên, cuộc sống với David Balzac có hơi khác với màn trình diễn thắng lợi đó; trong một năm rưỡi qua, cô đôi khi cảm thấy mình đã mất hết tài năng vốn có.

Nhưng cứ vào lúc cô sắp sửa bỏ cuộc thì ông lại ném cho cô một cái gật đầu cùng nụ cười yếu ớt. Vài lần ông còn nói, “Màn đó hay đấy.”

Trong những khoảnh khắc như thế, thế giới của cô lại thật viên mãn.

Tuy nhiên, phần lớn thời gian cô dành ở cửa hàng, xử lý sổ sách và hàng hóa cho ông, rồi việc lương thưởng, chủ trì trang web cho cửa hàng. Balzac chẳng trả cho cô nhiều nhặn gì nên cô phải làm thêm nhiều công việc khác và nhận những việc ít ra là phù hợp phần nào với bằng ngôn ngữ Anh của cô – viết nội dung cho các trang web ảo thuật và sân khấu chẳng hạn. Rồi khoảng một năm trước, tình trạng của mẹ cô trở nên tệ hơn và cô con gái duy nhất phải dành chút thời gian rảnh rỗi còn lại với bà.

Một cuộc sống thật mệt mỏi.

Nhưng lúc này cô có thể xử lý được. Trong vài năm nữa, Balzac sẽ tuyên bố là cô đã có thể trình diễn và cô sẽ rời đi với lời chúc phúc của ông và những mối liên hệ của ông với các nhà sản xuất trên toàn thế giới.

Hãy vững lòng, cô gái, Jaynene hẳn sẽ nói vậy và hãy ngồi vững trên lưng con ngựa đang phi nước đại.

Kara đã hoàn thành màn biểu diễn ba tấm khăn lụa của Tarbell một lần nữa. Gạt tàn thuốc xuống sàn, Balzac nhíu mày. “Ngón trỏ tay trái cao hơn một chút.”

“Ông nhìn thấy chỗ cột hả?”

“Nếu ta không nhìn thấy,” ông quát lên giận dữ, “thì sao ta lại yêu cầu cô nâng ngón tay lên cao hơn? Làm lại đi.”

Một lần nữa.

Ngón tay trỏ chó chết phải cao hơn một chút nữa.

Roẹt… Những tấm lụa cột vào nhau tách rời ra và tung vào không khí như những lá cờ chiến thắng.

“À,” Balzac nói. Một cái gật đầu lạnh nhạt.

Không hẳn là kiểu tán dương truyền thống. Nhưng Kara đã học được cách bằng lòng với những lần “À” đó.

Cô dẹp trò đó sang một bên và bước ra đằng sau quầy trong khu vực lộn xộn của cửa hàng để ghi sổ đống hàng mới được chuyển tới vào chiều thứ Sáu.

Balzac quay lại với chiếc máy tính. Ông đang viết một bài cho trang web của cửa hàng về Jasper Maskelyne, ảo thuật gia người Anh đã tạo ra một đơn vị quân đội đặc biệt trong Thế chiến II, sử dụng các kỹ thuật của ảo thuật để chống lại quân Đức ở Bắc Phi. Ông viết bằng trí nhớ, không có ghi chú hay tra cứu gì; David Balzac là thế – kiến thức của ông về ảo thuật cũng sâu sắc như tính khí thất thường và dễ nổi nóng của ông.

“Ông có nghe nói Cirque Fantastique đang ở trong thành phố không?” Cô hỏi. “Tối nay mở màn.”

Ảo thuật gia càu nhàu. Ông đang thay kính đeo bằng kính áp tròng; Balzac ý thức cao độ về tầm quan trọng của hình ảnh với một nghệ sĩ trình diễn và luôn xuất hiện đẹp đẽ nhất trước bất kỳ khán giả nào, ngay cả đó là khách ở cửa hàng.

“Ông đi không?” Cô năn nỉ. “Tôi nghĩ chúng ta nên đi.”

Gánh Cirque Fantastique – đối thủ của Cirque du Soleil, lớn hơn và lâu đời hơn – thuộc về thế hệ các gánh xiếc mới. Nó kết hợp các tiết mục xiếc truyền thống, hài kịch cổ trên sân khấu, âm nhạc và khiêu vũ đương đại, nghệ thuật trình diễn tiền phong24 và ảo thuật đường phố.

24 Nguyên văn: avant-garde.

Nhưng David Balzac là người của trường phái cũ: Vegas, Atlantic City, The Late Show. “Tại sao lại phải thay đổi một thứ đang hiệu quả?” Ông càu nhàu.

Tuy nhiên, Kara yêu Cirque Fantastique, và quyết tâm bắt ông tới xem. Nhưng trước khi cô có thể chèo kéo để thuyết phục ông đi cùng thì cửa trước cửa hàng bỗng mở ra và một nữ cảnh sát tóc đỏ hấp dẫn bước vào hỏi thăm chủ cửa hàng.

“Là tôi đây. Tôi là David Balzac. Tôi có thể giúp gì cho cô?” Viên cảnh sát nói, “Chúng tôi đang điều tra một vụ liên quan tới người có thể được đào tạo về ảo thuật. Chúng tôi đang trao đổi với các cửa hàng cung cấp thiết bị ảo thuật trong thành phố, hy vọng ông có thể giúp đỡ.”

“Ý cô là có người đang lừa đảo hay sao?” Balzac hỏi. Ông có vẻ phòng thủ, một cảm giác mà Kara có thể chia sẻ. Trong quá khứ, ảo thuật thường liên quan tới những kẻ lừa gạt – những nghệ sĩ nhanh tay lẹ mắt làm nghề móc túi chẳng hạn, và những kẻ lừa đảo dùng các kỹ thuật ảo thuật để thuyết phục những người bị mất người thân rằng họ có thể gọi hồn.

Nhưng hóa ra chuyến thăm của nữ cảnh sát lại là vì một chuyện khác.

“Thực ra,” cô nói, liếc nhìn Kara rồi nhìn lại Balzac. “Đó là một vụ giết người.”