• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương bảy

T

ôi có một danh sách các đồ vật mà chúng tôi tìm thấy ở hiện trường tội ác,” Amelia Sachs nói với chủ cửa hàng, “và tự hỏi liệu ông có thể đã bán chúng không.”

Ông cầm tờ giấy cô đưa và đọc khi Sachs nhìn quanh cửa hàng Smoke & Mirrors. Cửa hàng trông như một hang động sơn đen này thuộc khu Chelsea của Manhattan, bốc mùi mốc meo và hóa chất – cả mùi nhựa nữa, mùi hóa chất từ hàng trăm bộ đồ treo như một đám người không xương ở những kệ gần đó. Những quầy kính u ám, một nửa đã nứt vỡ và được dán lại bằng băng keo, đầy những bộ bài, đũa thần, đồng xu giả và những hộp đựng các trò ảo thuật đã đóng bụi. Một bản sao kích thước như thật của một sinh vật trong phim Người ngoài hành tinh đứng cạnh bộ mặt nạ và quần áo của Diana. (HÃY LÀ CÔNG NƯƠNG CỦA BUỔI TIỆC! Một tấm thẻ viết. Như thể không ai trong cửa hàng biết là bà đã chết.)

Ông gõ vào danh sách và rồi hất đầu về phía quầy. “Tôi không nghĩ là mình giúp được gì. Chúng tôi có bán một số món trong đây, chắc chắn là thế. Nhưng mọi cửa hàng đồ ảo thuật trên đất nước này đều bán. Cả nhiều cửa hàng đồ chơi nữa.”

Cô quan sát thấy ông đã không dành quá vài giây cho bản danh sách. “Những cái này thì sao?” Sachs cho ông xem bức ảnh chiếc còng tay cũ.

Ông liếc nhìn nó thật nhanh. “Tôi không biết gì về nghệ thuật thoát hiểm.”

Đó có phải là một câu trả lời không? “Vậy ý ông là ông không nhận ra chúng?”

“Không.”

“Chuyện này rất quan trọng,” Sachs khăng khăng.

Cô gái trẻ với đôi mắt xanh choáng ngợp và móng tay màu đen nhìn bức ảnh. “Chúng là còng tay kiểu Darby,” cô nói. Người đàn ông lãnh đạm liếc cô. Cô im lặng một lúc rồi nói: “Còng tay thông thường của Scotland Yard25 từ những năm 1800. Rất nhiều nghệ sĩ thoát hiểm sử dụng chúng. Chúng là món đồ ưa thích nhất của Houdini.”

25 Cách nói để chỉ Sở Cảnh sát London, Anh.

“Có thể tìm được chúng ở đâu?”

Balzac cựa quậy đầy sốt ruột trên chiếc ghế văn phòng của mình. “Chúng tôi không biết. Như tôi đã nói, đây không phải là lĩnh vực mà chúng tôi có kinh nghiệm.”

Cô gái gật đầu, nhất trí với ông. “Có lẽ là có những bảo tàng về nghệ thuật thoát hiểm ở đâu đó mà cô có thể liên lạc.”

“Và sau khi cô đã cho hàng vào lại,” Balzac nói với người trợ lý của ông, “ta cần cô xử lý những đơn hàng này. Có cả tá đơn hàng tới vào tối hôm qua sau khi cô về.” Ông đốt một điếu thuốc.

Sachs lại đưa danh sách cho ông. “Ông có nói rằng ông đã bán một số sản phẩm này. Ông có hồ sơ của khách hàng không?”

“Ý tôi là các sản phẩm giống thế. Và không, chúng tôi không có hồ sơ khách hàng.”

Thêm vài câu hỏi nữa, Sachs cuối cùng cũng buộc ông phải thừa nhận rằng có hồ sơ đặt hàng qua thư và bán trên mạng. Tuy nhiên, khi cô gái trẻ kiểm tra những thứ đó, không thấy ai mua bất cứ món gì trong danh sách bằng chứng.

“Xin lỗi,” Balzac nói. “Giá mà chúng tôi có thể giúp được nhiều hơn.”

“Các vị biết đấy, tôi cũng ước các vị có thể giúp được nhiều hơn,” Sachs nói, nghiêng người về phía trước. “Vì xem nào, gã này đã giết một phụ nữ và trốn thoát bằng cách sử dụng những trò ảo thuật. Và chúng tôi e rằng gã sẽ lại làm thế lần nữa.”

Nhíu mày lo ngại, Balzac nói, “Thật kinh khủng… Cô biết đấy, cô có thể ghé thử chỗ East Side Magic and Theatrical. Họ lớn hơn chúng tôi.”

“Chúng tôi đã cử một cảnh sát tới đó ngay lúc này rồi.”

“À, thế đấy.”

Cô im lặng một nhịp. Rồi nói: “À, nếu ông có thể nghĩ ra bất cứ điều gì, thì tôi rất mong ông sẽ gọi.” Nở nụ cười lấy lòng của một người công bộc tốt tính, một nụ cười kiểu trung sĩ NYPD (“Hãy nhớ: mối quan hệ với dân cũng quan trọng như các cuộc điều tra tội phạm.”)

“Chúc may mắn, sĩ quan,” Balzac nói.

“Cảm ơn,” cô nói.

Gã khốn vô cảm.

Cô gật đầu tạm biệt cô gái và liếc nhìn chiếc cốc giấy mà cô ấy đang nhấp từng ngụm.

“Này, có chỗ nào quanh đây có cà phê ngon không?”

“Góc đường 5 và 19,” cô đáp.

“Bánh mì vòng cũng ngon,” Balzac nói, giờ tỏ ra có ích khi không có rủi ro gì, hay không cần nỗ lực.

Khi đã ra ngoài, Sachs rẽ về phía đại lộ Năm và tìm thấy quán cà phê được gợi ý. Cô bước vào trong và mua một ly cappuccino. Cô tựa vào quầy bar hẹp bằng gỗ gụ phía trước cửa sổ lốm đốm, nhấp từng ngụm đồ uống nóng và dõi theo mọi người ở khu Chelsea trong một sáng thứ Bảy – những người bán hàng ở các cửa hàng quần áo trong khu vực, những thợ chụp ảnh quảng cáo và trợ lý của họ, những người trẻ tuổi giàu có sống trong các căn nhà áp mái khổng lồ, những nghệ sĩ nghèo khó, những cặp đôi trẻ và già, một, hai kẻ kỳ lạ đang cắm cúi ghi chép.

Và một nhân viên bán hàng của cửa hàng ảo thuật, lúc này đang bước vào quán cà phê.

“Chào,” cô gái với mái tóc ngắn màu đỏ - tím nói, đeo một chiếc xắc giả lông ngựa vằn ngang vai. Cô gọi một ly cà phê lớn, đổ đường rồi đến ngồi cạnh Sachs ở quầy bar.

Ở tiệm Smoke & Mirrors, viên nữ cảnh sát đã hỏi về tiệm cà phê vì cái liếc mắt đầy ẩn ý của người trợ lý đã đánh động Sachs; có vẻ như cô muốn nói gì đó khi không có mặt Balzac.

Uống cốc cà phê như thể đang khát lắm, cô gái nói, “Vấn đề của David là…”

“Việc ông ta không hợp tác hả?”

Một cái nhíu mày cân nhắc. “Phải. Nói thế cũng khá đúng. Ông ấy không tin tưởng và không muốn tham gia vào bất cứ chuyện gì bên ngoài thế giới của ông ấy. Ông ấy sợ là chúng tôi phải làm nhân chứng hay sao đấy. Tôi thì không được phân tâm.”

“Khỏi chuyện gì?”

“Nghề nghiệp chuyên môn.”

“Ảo thuật hả?”

“Phải. Cô thấy đấy, ông ấy đại khái là người hướng dẫn hơn là sếp của tôi.”

“Tên cô là gì?”

“Kara. Đó là nghệ danh nhưng tôi cũng chủ yếu dùng tên đó.”

Một nụ cười đau đớn. “Hay hơn tên mà cha mẹ đã tử tế đặt cho tôi.”

Sachs nhướng mày tò mò.

“Chúng ta sẽ coi đó là một bí mật.”

“Vậy,” Sachs nói, “tại sao cô lại nhìn tôi như thế lúc nãy khi ở cửa hàng?”

“David có lý về danh sách đó. Cô có thể mua những thứ đó ở bất kỳ đâu, bất kỳ cửa hàng nào. Trên Internet có hàng trăm chỗ bán. Nhưng còng tay kiểu Darby ư? Thứ đó hiếm có. Cô nên gọi cho Bảo tàng Houdini và Nghệ thuật Thoát hiểm ở New Orleans. Đó là nơi tuyệt nhất trên thế giới. Tôi có biểu diễn nghệ thuật thoát hiểm. Dù tôi không nói với ông ấy.” Sự nhấn mạnh đầy kính trọng với đại từ chỉ người thứ ba. “David có phần bảo thủ… Cô có thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra không? Vụ giết người ấy?”

Thường thận trọng về những gì mình nói liên quan tới vụ án đang điều tra, nhưng Sachs biết họ cần sự giúp đỡ nên đã nói sơ qua về vụ giết người và trốn thoát với Kara.

“Ôi, thật kinh khủng,” cô gái trẻ thì thầm.

“Phải,” Sachs nhẹ nhàng đáp lại. “Quả là thế.”

“Cái cách gã biến mất? Có điều này cô phải biết, sĩ quan – Đợi đã, tôi phải gọi cô là ‘sĩ quan’? Hay cô là thanh tra cảnh sát?”

“Amelia là được rồi.” Cô tận hưởng kỷ niệm ngắn ngủi về việc cô đã tạo được ấn tượng thế nào trong bài sát hạch.

Pằng, pằng…

Kara uống thêm cà phê, thấy rằng nó không đủ ngọt và mở nắp lọ đường đổ thêm vào. Sachs theo dõi đôi tay khéo léo của người phụ nữ trẻ rồi liếc nhìn xuống móng tay của mình, hai móng đã rách, lớp biểu bì rướm máu. Móng tay của cô gái kia được giũa hoàn hảo và lớp sơn đen bóng phản xạ lại ánh đèn trên đầu như một bức tiểu họa. Chút nhói đau vì ghen tị – với bộ móng và sự tự kiểm soát khiến chúng hoàn hảo như thế – bùng lên trong chốc lát rồi nhanh chóng bị Amelia Sachs dập tắt.

Kara hỏi, “Cô có biết ảo thuật là gì không?”

“David Copperfield26,” Sachs đáp, nhún vai. “Houdini.”

26 David Copperfield, tên thật là David Seth Kotkin, sinh năm 1956, ảo thuật gia người Mỹ thành công về mặt thương mại nhất trong lịch sử.

“Copperfield, phải. Houdini, không – ông ấy là nghệ sĩ thoát hiểm. Ảo thuật khác với các trò nhanh tay lẹ mắt hay các trò làm ở khoảng cách gần, chúng tôi gọi chúng thế. Thế này này…” Kara giơ một đồng hai mươi lăm xu lên, tiền thừa khi mua cà phê. Cô nắm bàn tay lại và khi cô mở ra đồng xu đã biến mất.

Sachs cười lớn. Nó đã biến đi chỗ quái nào nhỉ?

“Đấy là nhanh tay lẹ mắt. Ảo thuật là những trò bao gồm các vật thể lớn, con người hay động vật. Những gì cô vừa mô tả, điều mà kẻ sát nhân làm, là một trò ảo thuật kinh điển. Nó được gọi là Người biến mất.”

“Người vô hình sao?”

“Không, Người biến mất. Trong ảo thuật, chúng tôi dùng chữ ‘biến mất’ để chỉ việc ‘làm cho không còn ở đó nữa.’ Giống như, ‘Tôi vừa làm biến mất đồng xu.’”

“Nói tiếp đi.”

“Cách trình diễn thường hơi khác so với những gì cô đã mô tả, nhưng về cơ bản nó là việc ảo thuật gia ra khỏi một căn phòng bị khóa. Khán giả thấy anh ta bước vào căn phòng nhỏ trên sân khấu – họ có thể thấy được phía sau vì có một tấm gương lớn ở đằng sau. Họ nghe tiếng anh ta đập tay vào tường. Những người trợ lý kéo bức tường xuống và anh ta đã biến mất. Rồi một người trợ lý quay lại và hóa ra đó là ảo thuật gia.”

“Thực hiện thế nào?”

“Có một cánh cửa ở sau căn phòng. Ảo thuật gia trùm lên người một mảnh lụa lớn màu đen để khán giả không thể thấy anh ta trong gương rồi thoát ra qua cửa sau ngay khi anh ta vừa bước vào phòng. Có một cái loa ở trong tường để tạo ra âm thanh như thể anh ta ở trong đó suốt và một thiết bị đập vào tường để nghe như thể anh ta đang đập tay vào. Một khi ảo thuật gia đã thoát ra ngoài, anh ta nhanh chóng thay đồ đằng sau tấm vải thành quần áo giống của một người trợ lý.”

Sachs gật đầu. “Ra là thế, được rồi. Liệu chúng tôi có thể có một danh sách rút gọn những người biết tiết mục đó không?”

“Không, xin lỗi. Nó khá là phổ biến.”

Người biến mất…

Sachs nhớ lại rằng kẻ sát nhân đã thay đổi vẻ ngoài rất nhanh để trở thành một người đàn ông lớn tuổi hơn, nhớ lại cả việc Balzac không hợp tác và cái nhìn lạnh lùng trong mắt ông – gần như là thích thú một cách độc ác – khi ông nói chuyện với Kara. Cô hỏi, “Tôi cần hỏi câu này. Ông ấy ở đâu vào sáng nay?”

“Ai cơ?”

“Ông Balzac.”

“Ở đây. Ý tôi là trong tòa nhà này. Ông ấy sống ở đây, phía trên cửa hàng… Đợi đã, cô không nghĩ là ông ấy có liên quan chứ?”

“Đó là những câu mà chúng tôi phải hỏi,” Sachs nói mà không khẳng định gì cả. Tuy nhiên, người phụ nữ trẻ có vẻ buồn cười hơn là tức giận vì câu hỏi đó. Cô cười lớn. “Nghe này, tôi biết ông ấy càu nhàu và khó chịu… Tôi đoán rằng cô sẽ thấy bực, cô biết đấy. Xấu tính. Nhưng ông ấy không bao giờ làm hại ai hết.”

Sachs gật đầu nhưng rồi vẫn hỏi, “Dẫu vậy, cô biết ông ấy ở đâu lúc tám giờ sáng nay chứ?”

Kara gật đầu. “Có, ông ấy ở trong cửa hàng. Ông ấy tới sớm vì vài người bạn trong thành phố đang thực hiện một buổi trình diễn và cần mượn một số thiết bị. Tôi đã gọi cho ông ấy để báo rằng tôi tới muộn một chút.”

Sachs gật đầu. Rồi một lát sau lại hỏi, “Cô có thể nghỉ thêm chút nữa không?”

“Tôi hả? Ôi, không đời nào.” Một tiếng cười lớn xấu hổ. “Tôi lẻn ra lúc này là may mắn lắm rồi. Có cả nghìn thứ phải làm ở cửa hàng. Rồi tôi phải diễn thử ba hoặc bốn tiếng với David cho một buổi tôi sẽ diễn vào ngày mai. Ông ấy không để tôi nghỉ ngơi vào ngày trước khi trình diễn. Tôi…”

Sachs nhìn thẳng vào đôi mắt xanh thẳm của người phụ nữ. “Chúng tôi thực sự lo ngại rằng kẻ này sẽ lại giết người nữa.”

Mắt Kara lướt qua quầy bar bằng gỗ gụ nhớp nháp.

“Làm ơn. Chỉ vài tiếng thôi. Xem qua bằng chứng với chúng tôi. Hãy cân nhắc.”

“Ông ấy sẽ không cho đâu. Cô không biết David rồi.”

“Tôi chỉ biết là tôi sẽ không để ai khác tiếp tục bị thương nếu tôi có bất cứ cách nào ngăn chặn điều đó.”

Kara uống nốt ly cà phê của cô và nghịch chiếc cốc một cách lơ đễnh. “Dùng việc trình diễn để giết người,” cô thì thầm với giọng khó chịu.

Sachs không nói gì và để sự im lặng lên tiếng thay cho mình. Cuối cùng cô gái trẻ nhăn nhó. “Mẹ tôi đang ở nhà dưỡng lão. Bà cứ ra vào bệnh viện liên tục. Ông Balzac biết điều đó. Tôi nghĩ tôi có thể nói với ông ấy là phải vào xem bà thế nào.”

“Chúng tôi thực sự cần cô giúp.”

“Ôi, ôi. Lấy cớ mẹ ốm… Chúa sẽ không thứ lỗi cho tôi vì chuyện này đâu.”

Sachs liếc xuống những chiếc móng tay màu đen hoàn hảo của Kara. “Này, có một chuyện: Điều gì đã xảy ra với đồng hai mươi lăm xu đó vậy?”

“Nhìn dưới ly cà phê của cô đi,” cô gái đáp.

Không thể nào. “Vô lý.”

Sachs nhấc chiếc ly lên. Đồng xu nằm ở đó.

Nữ cảnh sát bối rối hỏi, “Làm sao cô làm được thế?”

Câu trả lời của Kara là một nụ cười bí ẩn. Cô hất đầu về phía dãy cốc. “Gọi hai ly mang đi đi.” Cô nhặt đồng xu lên. “Ngửa thì cô mua, sấp thì tôi trả. Ba đồng xem ai thắng hai.” Cô tung đồng xu lên không trung.

Sachs gật đầu. “Chơi.”

Cô gái trẻ bắt lấy đồng xu và liếc nhìn vào bàn tay nắm lại của mình. Cô ngước lên. “Chúng ta đã nói là ba thắng hai đúng không?”

Sachs gật đầu.

Kara mở các ngón tay ra. Bên trong là hai đồng mười xu và một đồng năm xu. Các đồng mười xu ngửa. Không thấy đồng hai mươi lăm xu đâu. “Tôi đoán là cô phải trả rồi.”