L
incoln, đây là Kara.”
Cô ta đã được cảnh báo trước, Rhyme có thể thấy điều đó, nhưng cô gái trẻ vẫn ngạc nhiên trong chớp mắt và liếc qua anh với Cái nhìn đấy. Thứ mà anh biết quá rõ. Đi kèm là Nụ cười đấy.
Đó là kiểu đừng-nhìn-chằm-chằm-vào-cơ-thể-anh-ta lừng danh, đi kèm là nụ cười gượng gạo à-tôi-thấy-rồi-anh-bị-khuyết-tật.
Và Rhyme biết cô đang đếm ngược tới khi có thể thoát khỏi sự hiện diện của anh.
Cô gái trẻ hoạt bát tiến sâu hơn vào phòng chờ của phòng thí nghiệm trong căn nhà phố của Rhyme. “Chào. Hân hạnh được gặp anh.” Đôi mắt vẫn nhìn thẳng vào mắt anh. Ít ra cô ấy không bắt đầu với việc hơi cúi người về phía trước, một cử chỉ nói với anh rằng cô đang kiềm lại một đề nghị bắt tay rồi rúm ró lại kinh hoàng vì hành động lỡ làng đấy.
Được rồi, Kara. Đừng lo. Cô có thể trao cho kẻ tật nguyền này hiểu biết của cô rồi thoát ra khỏi đây.
Anh nở một nụ cười lấy lòng, hợp với nụ cười của cô và nói anh cũng rất vui được gặp mặt.
Ở phương diện chuyên môn thì ít ra điều này không phải là giễu cợt – hóa ra Kara là ảo thuật gia duy nhất họ mời được. Không nhân viên nào ở các cửa hàng khác trong thành phố giúp được gì – và tất cả đều có bằng chứng ngoại phạm vào thời gian xảy ra vụ giết người.
Cô được giới thiệu với Lon Sellitto và Mel Cooper. Thom gật đầu chào và làm điều anh vẫn làm, dù Rhyme có muốn anh làm hay không: mời nước.
“Chúng ta không phải đang ở sự kiện xã hội tại nhà thờ, Thom,” Rhyme lẩm bẩm.
Kara nói không, mọi thứ ổn, nhưng Thom vẫn khăng khăng.
“Cà phê được không?” Cô hỏi.
“Có ngay.”
“Đen. Đường. Gấp đôi đường nhé?”
“Chúng tôi thực ra…” Rhyme bắt đầu.
“Cho cả phòng,” người trợ lý tuyên bố. “Tôi sẽ pha một bình. Lấy thêm một ít bánh mì vòng nữa.”
“Bánh mì vòng hả?” Sellitto hỏi.
“Anh có thể mở nhà hàng trong lúc rảnh đấy,” Rhyme quát người trợ lý. “Đưa nó ra khỏi chế độ của anh đi.”
“Lúc nào mới rảnh hả?” Anh chàng tóc vàng độp lại. Anh đi về phía nhà bếp.
“Cảnh sát Sachs,” anh nói tiếp với Kara, “cho chúng tôi biết rằng cô có một số thông tin mà cô nghĩ có thể có ích.”
“Tôi hy vọng thế.” Một cái nhìn đầy tò mò khác hướng về phía Rhyme. Cái nhìn đấy. Lần này gần hơn. Ôi vì Chúa, cứ nói ra đi. Hỏi tôi xem đã có chuyện gì xảy ra. Hỏi tôi xem nó có đau không. Hỏi tôi xem việc đi tiểu vào ống thì như thế nào.
“Này, chúng ta gọi gã là gì nhỉ?” Sellitto gõ lên trên tấm bảng trắng tập hợp các bằng chứng. Cho tới khi nhân thân của đối tượng – hay “đối tượng chưa biết” – được sáng tỏ, nhiều nhân viên công vụ đặt cho hung thủ biệt danh. “‘Nhà ảo thuật’ thì sao?”
“Không, nghe hiền quá,” Rhyme nói, nhìn vào những bức ảnh nạn nhân. “‘Gã phù thủy’ thì sao?” Tự anh cũng thấy ngạc nhiên vì đã đưa ra một đề nghị đậm chất ngẫu hứng như thế.
“Ổn với tôi.”
Bằng chữ viết tay kém thanh thoát hơn hẳn so với Thom, tay thanh tra viết những từ đó lên trên cùng của biểu đồ.
Gã phù thủy…
“Giờ cùng xem xem chúng ta có thể làm gã xuất hiện không nào,” Rhyme nói.
Sachs nói, “Nói với họ về Người biến mất đi.”
Cô gái trẻ vuốt tay lên mái tóc ngắn như con trai của mình khi cô mô tả lại trò biểu diễn ảo thuật nghe gần giống với những gì Gã phù thủy đã làm ở trường dạy nhạc.
Tuy nhiên, cô bổ sung một tin xấu là hầu hết các ảo thuật gia đều biết trò đó.
Rhyme hỏi, “Cho chúng tôi vài ý tưởng về việc gã có thể làm trò đó như thế nào. Các kỹ thuật ấy. Để chúng tôi biết cần phải chờ đợi gì nếu gã nhắm tới một người khác.”
“Anh muốn tôi bật mí hả?” “Bật gì…?”
“Bật mí,” Kara nói, rồi giải thích: “Là thế này, mọi trò ảo thuật đều bao gồm một hiệu ứng và một phương pháp. Hiệu ứng là những gì khán giả thấy. Anh biết đấy: cô gái lơ lửng trong không trung, những đồng xu rơi xuyên qua một chiếc bàn cứng. Phương pháp là cơ chế về cách thức ảo thuật gia làm điều đó – các sợi dây để giữ cô gái, nắm chặt đồng xu trong tay rồi làm rơi những đồng xu khác từ một hộp bí mật dưới bàn.”
Hiệu ứng và phương pháp, Rhyme suy nghĩ. Khá giống với những gì tôi làm: hiệu ứng là bắt được hung thủ khi điều đó có vẻ là không thể. Phương pháp là khoa học và logic cho phép chúng tôi làm điều đó.
Kara nói tiếp, “Bật mí có nghĩa là tiết lộ phương pháp của một trò biểu diễn. Như việc tôi vừa làm – giải thích cách thức trò Người biến mất diễn ra. Đó là một chuyện nhạy cảm – ông Balzac, thầy tôi, rất ghét những ảo thuật gia bật mí cho công chúng và tiết lộ phương pháp của người khác.”
Thom bê một chiếc khay vào phòng. Anh rót cà phê cho những người muốn uống. Kara đổ đường vào ly của cô rồi uống rất nhanh, dù Rhyme thấy nó còn nóng bỏng miệng. Anh liếc nhìn chai Macallan Single Malt 18 ở kệ sách bên kia phòng. Thom để ý thấy ánh mắt anh và nói, “Mới là giữa buổi sáng thôi. Đừng hòng nghĩ tới chuyện đó.”
Sellitto cũng thèm thuồng nhìn những chiếc bánh mì vòng. Anh chỉ dám ăn nửa cái. Không có phô mai kem. Anh trông thật đau đớn với mỗi miếng cắn.
Họ điểm lại từng bằng chứng một với Kara, cô nghiên cứu chúng cẩn thận và đưa ra thêm một tin xấu là có hàng trăm nguồn cho hầu hết các món đồ này. Sợi thừng dùng trong một trò đổi màu dây thừng, có bán ở FAO Schwarz cũng như các cửa hàng đồ ảo thuật trên cả nước. Nút thắt là kiểu Houdini từng dùng trong những tiết mục của ông khi ông sắp sửa cắt dây để trốn thoát; nó khiến nghệ sĩ trình diễn đã bị trói gần như không thể cởi ra được.
“Ngay cả khi không có còng tay,” Kara nhẹ nhàng nói, “cô gái đó cũng không có cơ hội thoát ra được.”
“Thứ đó có hiếm không? Nút thắt ấy?”
Cô giải thích rằng bất kỳ ai có kiến thức cơ bản về màn biểu diễn của Houdini đều sẽ biết nút thắt đó.
Dầu thầu dầu trong đồ trang điểm, Kara nói tiếp, có nghĩa là gã đã sử dụng những đồ mỹ phẩm sân khấu rất thật và bền, và nhựa cao su, đúng như Rhyme đã nghi ngờ, là từ những chiếc bọc ngón tay giả, vốn cũng là một dụng cụ phổ biến của ảo thuật gia. Chất alginate, Kara nói, không phải là từ dụng cụ nha sĩ mà được sử dụng để tạo khuôn cho việc đổ cao su, có thể là cho những chiếc bọc ngón tay hay mũ chụp giả hói đầu mà gã đội để đóng làm người gác cổng. Mực vô hình thì có hơi lạ hơn, dù một số ảo thuật gia thỉnh thoảng có sử dụng nó trong các buổi biểu diễn của họ.
Cô giải thích rằng chỉ có vài thứ là độc nhất: bảng mạch điện tử (mà cô gọi là một “mánh,” một đạo cụ mà khán giả không thể nhìn thấy được) chẳng hạn. Nhưng gã đã tự làm ra cái đó. Chiếc còng tay Darby cũng là đồ hiếm. Rhyme đã nhờ một người kiểm tra tại Bảo tàng Nghệ thuật Thoát hiểm ở New Orleans mà Kara từng nhắc đến. Sachs đề nghị họ đưa các cảnh sát đã phản ứng ở hiện trường, Franciscovich và Ausonio nhập cuộc theo đề xuất hỗ trợ của chính họ. Đây sẽ là kiểu nhiệm vụ hoàn hảo cho một cặp sĩ quan trẻ háo hức. Rhyme đồng ý và Sellitto sắp xếp chuyện đó qua người đứng đầu Đơn vị Tuần tra.
“Còn việc gã trốn thoát thì sao?” Sellitto nói. “Gã làm thế nào mà thay sang bộ đồ gác cổng nhanh như thế.”
“Cái đó gọi là ‘ảo thuật biến y,’” Kara nói. “Thay đồ thật nhanh. Đó là vấn đề mà tôi đã nghiên cứu nhiều năm. Tôi chỉ sử dụng nó như một phần kỹ thuật trong các buổi biểu diễn, nhưng có một số người chuyên làm việc đó. Nó rất kỳ diệu. Tôi đã xem Arturo Brachetti vài năm trước. Ông ấy có thể thay ba bốn chục bộ khác nhau trong một buổi diễn – một số trong chưa tới ba giây.”
“Ba giây sao?”
“Phải. Và quý vị biết đấy, những nghệ sĩ biến y đích thực không chỉ thay đồ. Họ còn là những diễn viên nữa. Cách họ đi lại, tư thế khác, nói năng đều khác. Gã sẽ chuẩn bị mọi thứ từ trước. Quần áo là đồ tách ra được – chúng được đính với nhau bằng các khóa kéo hay khóa dán Velcro. Việc thay quần áo nhanh thực sự là lột đồ nhanh. Và chúng được làm bằng lụa hay ni-lông, rất mỏng, để người biểu diễn có thể mặc nhiều lớp. Tôi đôi khi mặc năm lớp đồ dưới lớp quần áo ngoài cùng.”
“Lụa à?” Rhyme hỏi. “Chúng tôi tìm thấy những sợi lụa màu xám này,” anh giải thích. “Các cảnh sát ở hiện trường báo rằng người gác cổng mặc đồng phục xám. Những sợi này đã sờn – kiểu như được đánh bóng để tạo bề mặt xỉn màu.”
Kara gật đầu. “Để chúng nhìn như sợi bông hay lanh, không lấp lánh. Chúng tôi cũng sử dụng mũ và valy gấp lại được, đồ che giày, ô có thể gập gọn được, đủ thứ đạo cụ mà chúng tôi giấu trên người. Tóc giả nữa, tất nhiên.”
Cô nói tiếp, “Để thay đổi một khuôn mặt, điều quan trọng nhất là lông mày. Thay đổi nó thì khuôn mặt sẽ khác đi sáu mươi, bảy mươi phần trăm. Rồi gắn thêm vài bộ phận giả – chúng tôi gọi đó là ‘thiết bị’: những dải và miếng đệm cao su dán bằng keo. Những người trình diễn thay đồ nhanh nghiên cứu cấu trúc khuôn mặt cơ bản của các chủng tộc và giới tính. Một nghệ sĩ biến y giỏi biết những tỉ lệ của khuôn mặt phụ nữ so với khuôn mặt đàn ông và có thể thay đổi giới tính chỉ trong vài giây. Chúng tôi nghiên cứu phản ứng tâm lý với những khuôn mặt và tư thế – để có thể trở nên xinh đẹp, xấu xí, đáng sợ, dễ thương hay khốn khổ. Đủ mọi kiểu.”
Các bí quyết ảo thuật thật thú vị, nhưng Rhyme muốn những đề xuất cụ thể. “Có thứ gì chắc chắn cô có thể nói với chúng tôi để giúp tìm ra gã không?”
Cô lắc đầu. “Tôi không thể nghĩ được gì có thể dẫn quý vị tới một cửa hàng hay nơi chốn cụ thể. Nhưng tôi có một vài suy nghĩ.”
“Nói đi.”
“À, việc gã sử dụng dây thừng màu và bọc ngón tay khiến tôi nghĩ gã quen thuộc với những trò nhanh tay lẹ mắt. Điều đó có nghĩa là gã sẽ giỏi móc túi, giấu súng hay dao hay những thứ tương tự. Trộm chìa khóa và giấy tờ tùy thân của mọi người. Gã cũng biết thay đồ nhanh và rõ ràng đó là một rắc rối với quý vị. Nhưng quan trọng hơn – trò Người biến mất, dây dẫn cháy và pháo ném, mực vô hình, lụa đen, ánh đèn chớp… tất cả có nghĩa gã là một ảo thuật gia được đào tạo theo kiểu cổ điển.”
Cô giải thích sự khác biệt giữa một nghệ sĩ nhanh tay lẹ mắt và một ảo thuật gia đích thực, với những màn trình diễn có con người và các vật thể lớn.
“Tại sao điều này lại quan trọng với chúng tôi?”
Kara gật đầu. “Vì ảo thuật không chỉ là những kỹ xảo bên ngoài. Nhà ảo thuật nghiên cứu tâm lý của khán giả và tạo ra những tiết mục để đánh lừa họ – không chỉ đôi mắt mà cả tâm trí họ nữa. Cái ảo thuật gia muốn không phải là làm quý vị cười vì một đồng xu biến mất; họ muốn khiến quý vị tin từ trong thâm tâm rằng mọi thứ quý vị thấy và tin là thế này trong khi thực ra là ngược lại. Có một điều quý vị luôn phải lưu ý. Không bao giờ được quên.”
“Điều gì?” Rhyme hỏi.
“Sự đánh lạc hướng… Ông Balzac nói đó là trái tim và linh hồn của ảo thuật. Quý vị chắc đã nghe câu tay nhanh hơn mắt? Thực ra không phải như thế. Mắt luôn luôn nhanh hơn. Vậy nên nhà ảo thuật đánh lừa cặp mắt không để nó chú ý tới những gì bàn tay đang làm.”
“Ý cô là giống đánh lạc hướng, sự phân tâm hả?” Sellitto hỏi.
“Một phần là thế. Đánh lạc hướng là hướng sự chú ý của khán giả tới nơi mà ta muốn và ra khỏi nơi mà ta không muốn. Có rất nhiều quy tắc ông ấy buộc tôi phải thuộc – như việc khán giả không để ý tới sự quen thuộc, nhưng lại bị thu hút bởi sự mới lạ. Họ không chú ý tới hàng loạt những thứ giống nhau, mà tập trung vào một thứ khác biệt. Họ bỏ qua những đồ vật hay con người đứng yên nhưng lại bị thu hút bởi sự chuyển động. Ta muốn làm một thứ vô hình ư? Hãy lặp lại thứ đó bốn hay năm lần và rất nhanh thôi, khán giả sẽ thấy chán và sự chú ý của họ sẽ tản mát dần. Họ có thể đang nhìn chằm chằm vào tay ta đấy nhưng không thấy được ta đang làm gì. Đó là lúc ta ra tay.
“Được rồi, có hai loại đánh lạc hướng mà gã có thể sử dụng: trước hết, đánh lạc hướng vật lý. Xem nhé.” Kara bước lại gần Sachs và nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của mình khi cô nâng nó lên từ từ và chỉ vào tường, rồi liếc nhìn. Rồi cô hạ bàn tay xuống. “Thấy không, quý vị nhìn vào cánh tay tôi và nơi tôi chỉ. Phản ứng hoàn toàn tự nhiên. Nên quý vị có vẻ không để ý rằng tay trái của tôi đã lấy được khẩu súng của Amelia.”
Sachs hơi nhảy lên khi cô liếc xuống và thấy, quả thật, những ngón tay của Kara đã nâng khẩu Glock ra khỏi bao.
“Cẩn thận đấy,” Sachs nói, cho lại khẩu súng vào bao.
“Giờ hãy nhìn vào góc đó.” Cô lại chỉ bằng tay phải. Tuy nhiên, lần này thật tự nhiên, Rhyme và những người khác trong phòng lại nhìn vào tay trái của Kara.
“Để ý tay trái của tôi, đúng không?” Cô cười lớn. “Nhưng quý vị lại không để ý chân tôi, đang đẩy thứ màu trắng này ra đằng sau bàn.”
“Một cái bô,” Rhyme nói chua chát, bực tức vì mình lại bị lừa, nhưng cảm thấy anh đã ghi được vài điểm khi nhắc tới bản chất không lấy làm tinh tế của thứ đồ vật mà cô đã di chuyển.
“Thật sao?” Cô hỏi, không hề lúng túng. “Nó không chỉ là một cái bô; nó còn là sự đánh lạc hướng. Vì ngay lúc này khi quý vị đang nhìn nó, tôi đã lấy được thứ này bằng tay mình. Đây này,” cô nói. “Thứ này có quan trọng không?” Cô trả lại quả lựu đạn hơi cay cho Sachs.
Nữ cảnh sát nhíu mày, nhìn xuống thắt lưng chuyên dụng của cô để xem còn mất thứ gì không và lắp quả lựu đạn vào.
“Vậy đó là sự đánh lạc hướng vật lý. Tương đối dễ. Loại thứ hai là đánh lạc hướng tâm lý. Loại này khó hơn. Khán giả không ngốc. Họ biết ta sẽ đánh lừa họ. Ý tôi là đấy là lý do tại sao họ tới xem trình diễn mà, đúng không? Vì thế ta phải cố gắng giảm hay loại bỏ sự nghi ngờ của khán giả. Điều quan trọng nhất trong đánh lạc hướng tâm lý là hành động một cách tự nhiên. Ta cư xử và nói những điều nhất quán với những gì khán giả chờ đợi. Nhưng phía dưới bề mặt đó, ta sẽ diễn trò…” Giọng cô yếu dần khi cô nhận ra mình đang sắp sửa sử dụng từ đó để mô tả cái chết của nữ sinh viên trẻ sáng nay.
Kara nói tiếp, “Ngay khi ta làm điều gì đó không tự nhiên, khán giả sẽ để ý. Được rồi, tôi nói là tôi sẽ đọc tâm trí cô và tôi làm thế này.” Kara đặt tay lên thái dương của Sachs và nhắm mắt lại trong giây lát.
Cô bước ra xa và đưa lại cho Sachs chiếc hoa tai cô vừa lấy từ tai trái của viên nữ cảnh sát.
“Tôi chẳng cảm thấy gì cả.”
“Nhưng khán giả sẽ biết ngay lập tức cách tôi làm – vì chạm vào một người trong khi cố tình đọc tâm trí, điều mà hầu hết mọi người không tin, vì nó không tự nhiên. Nhưng nếu tôi nói một phần của trò diễn là tôi sẽ thầm thì một từ sao cho không ai khác nghe được…” Cô nghiêng người gần lại tai của Sachs, tay phải che miệng. “Thấy không, đó là một cử chỉ tự nhiên.”
“Cô đã không lấy được cái hoa tai kia,” Sachs nói, cười lớn; cô đã giơ tay lên che tai lại khi Kara bước tới gần.
“Nhưng tôi đã làm biến mất vòng đeo cổ của cô.”
Ngay cả Rhyme cũng không khỏi ấn tượng và thích thú, chứng kiến Sachs chạm tay vào cổ rồi ngực cô, miệng mỉm cười nhưng trong lòng lo lắng vì cứ mất đồ mãi. Sellitto cười lớn như một đứa trẻ và Mel Cooper bỏ hết đống bằng chứng để xem màn trình diễn. Viên nữ cảnh sát nhìn quanh tìm trang sức rồi lại nhìn Kara, người chìa bàn tay phải trống không ra. “Mất rồi,” cô lặp lại.
“Nhưng,” Rhyme nói đầy ngờ vực, “Tôi có để ý là tay trái cô nắm lại đằng sau lưng. Đây là một cử chỉ không tự nhiên. Nên tôi cho rằng chiếc dây chuyền đang ở trong đó.”
“A, anh giỏi đấy,” Kara nói. Rồi cô cười lớn. “Nhưng không giỏi trong việc bắt bài, tôi e là thế.” Cô mở bàn tay trái ra và nó cũng trống không.
Rhyme cau có bực tức.
“Nắm bàn tay trái lại và không để mọi người nhìn thấy ư? Chà, đó là sự đánh lạc hướng quan trọng nhất. Tôi làm thế vì tôi biết anh đã để ý nó và sẽ tập trung sự chú ý vào bàn tay trái của tôi. Chúng tôi gọi đấy là “ép nhìn.” Tôi ép anh nghĩ rằng anh đã nhận ra phương pháp của tôi. Và ngay khi anh làm thế, tư duy của anh dừng lại và anh thôi cân nhắc bất kỳ lời giải thích nào khác với những gì diễn ra. Và khi anh – và tất cả mọi người khác – nhìn chằm chằm vào tay trái tôi, tôi có cơ hội bỏ sợi dây chuyền vào túi của Amelia.”
Sachs thò tay vào túi và lấy sợi dây chuyền ra.
Cooper vỗ tay. Rhyme càu nhàu bực bội nhưng bị ấn tượng. Kara hất đầu về phía bảng bằng chứng. “Vậy nên, đó là những gì gã sẽ làm, kẻ sát nhân ấy. Đánh lạc hướng. Quý vị nghĩ mình đã hiểu gã định làm gì, nhưng đó lại là một phần kế hoạch của gã. Giống như tôi, gã sẽ sử dụng sự nghi ngờ của quý vị – và sự thông minh của quý vị – để chống lại chính quý vị. Thật ra, gã cần sự nghi ngờ và thông minh đó để trò diễn của gã có hiệu quả. Ông Balzac nói những nhà ảo thuật giỏi nhất thao túng màn trình diễn của họ giỏi tới mức họ sẽ chỉ thẳng ra phương pháp của mình, chỉ thẳng những điều họ sẽ thực sự làm. Nhưng quý vị sẽ không tin. Quý vị sẽ nhìn về hướng ngược lại. Khi điều đó xảy ra, quý vị bị mắc lừa. Quý vị đã thua và họ đã thắng.”
Việc nhắc tới ông thầy dạy có vẻ làm cô khó chịu và cô liếc mắt nhìn chiếc đồng hồ rồi hơi nhăn mặt. “Tôi thực sự phải quay về rồi. Tôi đã đi lâu quá.”
Sachs cảm ơn Kara, và Sellitto nói, “Tôi sẽ lấy xe chở cô về lại cửa hàng.”
“À, gần cửa hàng thôi. Tôi không muốn ông ấy biết tôi đã ở đâu… À, còn một việc nữa các vị có thể muốn làm. Có một gánh xiếc đang ở trong thành phố. Gánh Cirque Fantastique. Tôi biết là họ có màn thay đồ nhanh. Quý vị có thể muốn tới xem thử.”
Sachs gật đầu. “Họ đang dựng rạp ngay bên kia đường trong công viên Trung Tâm.”
Công viên thường là nơi diễn ra các nhạc hội ngoài trời quy mô lớn và các chương trình biểu diễn khác vào mùa xuân và mùa hè. Rhyme và Sachs từng có lần “tham dự” một buổi hòa nhạc của Paul Simon27 bằng cách ngồi trước cửa sổ phòng ngủ căn nhà của nhà tội phạm học.
27 Paul Simon, sinh năm 1941, là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng người Mỹ. Ông thành danh từ những năm 1965 với tư cách thành viên của nhóm nhạc hai người huyền thoại Simon & Garfunkel, cùng người bạn lâu năm Art Garfunkel.
Rhyme chế giễu. “Ồ, hóa ra đó là những người đã phát đi phát lại thứ nhạc kinh khủng đấy cả đêm.”
“Anh không thích xiếc sao?” Sellitto hỏi.
“Tất nhiên là tôi không thích xiếc,” anh quát. “Ai mà thích được chứ? Đồ ăn dở tệ, những tên hề điên khùng, những kẻ nhào lộn có nguy cơ rơi xuống chết ngay trước mặt trẻ em… Nhưng” – anh quay sang Kara – “đó là một đề xuất hay. Cảm ơn… Mặc dù một người trong chúng tôi lẽ ra phải nghĩ tới chuyện đấy trước rồi,” anh nói cay nghiệt, nhìn qua những người khác trong nhóm.
Rhyme nhìn cô đeo chiếc xắc màu trắng - đen xấu xí qua vai. Thoát khỏi anh, chạy ra ngoài thế giới không có kẻ tật nguyền, mang theo Cái nhìn và Nụ cười đó với cô.
Đừng lo. Cô có thể trao cho kẻ tật nguyền này những hiểu biết của cô rồi thoát khỏi đây.
Cô dừng lại và nhìn vào bảng bằng chứng thêm một lần nữa. Một đám mây mờ che phủ đôi mắt xanh choáng ngợp của cô. Cô bắt đầu bước về phía cửa.
“Đợi đã,” Rhyme nói. Cô quay lại.
“Tôi muốn cô ở lại.”
“Sao cơ?”
“Hợp tác với chúng tôi trong vụ này. Ít ra là hôm nay. Cô có thể đi với Lon hay Amelia để nói chuyện với những người ở rạp xiếc. Và có thể có thêm bằng chứng liên quan tới ảo thuật mà chúng tôi không tìm thấy.”
“Ồ, không. Tôi thực sự không thể. Tôi khó mà nghỉ được lúc này. Tôi không còn nhiều thời gian.”
Rhyme nói, “Chúng tôi cần sự giúp đỡ của cô. Chúng tôi mới chỉ biết sơ qua về gã này.”
“Cô đã gặp ông Balzac rồi đấy,” cô nói với Sachs.
In nomine patri28…
28 Tiếng Latinh trong nguyên bản, nghĩa là “Nhân danh Cha…,” là đoạn đầu trong câu nguyện “Nhân danh Cha, Con và Thánh thần” của Thiên Chúa giáo. Ở đây ý nói ông Balzac rất khó tính nên có Chúa chứng giám, ông sẽ không tha cho Kara.
“Anh biết đấy, Linc,” Sellitto nói không thoải mái, “tốt hơn là không để quá nhiều người bên dân sự tham gia vào vụ án. Có quy định về chuyện đó.”
“Không phải cũng có lần anh nhờ một bác sĩ tâm lý đó sao?” Rhyme hỏi ráo hoảnh.
“Tôi không hề thuê cô ấy. Ai đấy ở tổng hành dinh đã làm việc đó.”
“Và rồi anh còn có tay săn chó và...”
“Anh cứ nói là anh này anh kia. Không, tôi không thuê người bên dân sự. Trừ anh. Điều đó đã khiến tôi gặp đủ rắc rối rồi.”
“A, anh không bao giờ gặp đủ rắc rối trong nghề cảnh sát đâu, Lon.” Anh liếc sang Kara. “Làm ơn. Chuyện này vô cùng quan trọng.”
Cô gái trẻ lưỡng lự. “Anh thực sự nghĩ rằng gã sẽ lại tiếp tục giết người?”
“Phải,” anh đáp. “Chúng tôi tin thế.”
Cuối cùng cô cũng gật đầu. “Nếu tôi bị sa thải, thì ít ra cũng là vì một lý do chính đáng.” Rồi cô cười lớn. “Quý vị biết đấy, Robert- Houdin cũng làm chuyện tương tự.”
“Là ai vậy?”
“Một nghệ sĩ ảo giác và ảo thuật gia nổi tiếng người Pháp. Ông ấy cũng giúp bên cảnh sát, quân đội Pháp. Một thời gian, tôi không rõ, vào những năm 1800, có những kẻ cực đoan người Algeria, những tay Marabout29. Chúng tìm cách khiến các bộ lạc địa phương nổi dậy chống người Pháp và chúng nói mình có phép màu nhiệm. Chính quyền Pháp cử Robert-Houdin sang Algeria để có một màn đấu tay đôi về pháp thuật. Để cho các bộ lạc thấy rằng người Pháp có ma thuật giỏi hơn – quý vị biết đấy, nghĩa là quyền lực hơn. Nó có tác dụng. Robert-Houdin có những trò giỏi hơn những người Marabout.” Rồi cô nhíu mày. “Dù tôi nghĩ chúng suýt nữa đã giết ông ấy.”
29 Marabout: tức lãnh đạo Hồi giáo ở vùng Tây Phi.
“Đừng lo,” Sachs trấn an. “Tôi sẽ đảm bảo rằng chuyện đó không xảy ra với cô.”
Rồi Kara nhìn qua biểu đồ bằng chứng. “Quý vị làm chuyện này trong tất cả các vụ hả? Viết ra hết những đầu mối và những điều quý vị đã biết?”
“Đúng vậy,” Sachs xác nhận.
“Tôi có một ý – hầu hết các ảo thuật gia đều chuyên môn hóa. Còn Gã phù thủy này đã làm cả trò thay đồ nhanh và ảo ảnh quy mô lớn. Thật khác thường. Hãy viết ra những kỹ thuật của gã. Điều đó có thể giúp thu hẹp số lượng nghi phạm.”
“Phải,” Sellitto nói, “một hồ sơ. Tốt.”
Cô gái trẻ nhăn mặt. “Và tôi sẽ phải tìm một người thay mình ở cửa hàng. Ông Balzac sẽ đi gặp bạn ông ấy… Ôi trời, ông ấy sẽ không thích chuyện này đâu.” Cô nhìn quanh căn phòng. “Có chiếc điện thoại nào mà tôi dùng được không? Quý vị biết đấy, một trong những chiếc điện thoại đặc biệt ấy?”
“Điện thoại đặc biệt gì cơ?” Thom hỏi.
“À, điện thoại riêng. Để không có ai xung quanh nghe được là ta đang nói dối sếp mình.”
“A, những chiếc điện thoại đó,” người trợ lý nói, quàng tay qua vai cô và chỉ về phía cửa. “Tôi dùng nó ở ngoài hành lang.”
GÃ PHÙ THỦY
Hiện trường tội ác trường Âm nhạc
• Mô tả nghi phạm: Tóc nâu, râu giả, không có gì nổi bật, tầm vóc trung bình, chiều cao trung bình, tuổi: ngoài năm mươi. Ngón đeo nhẫn và ngón út dính lại với nhau. Thay đồ nhanh để giống một người gác cổng lớn tuổi, hói đầu.
• Không có động cơ rõ ràng.
• Nạn nhân: Svetlana Rasnikov.
• Sinh viên âm nhạc toàn thời gian.
• Kiểm tra gia đình, bạn bè, các sinh viên, đồng nghiệp để có thêm đầu mối khả dĩ.
• Không có bạn trai, không có kẻ thù. Trình diễn ở tiệc sinh nhật cho trẻ em.
• Bảng mạch điện tử có gắn loa.
• Đã gửi cho phòng thí nghiệm của FBI, thành phố New York.
• Máy ghi âm kỹ thuật số, có thể chứa giọng nói của nghi phạm. Mọi dữ liệu đã bị hủy.
• Đoạn ghi âm là một “mánh.” Tự làm.
• Sử dụng còng tay sắt kiểu cũ để còng nạn nhân.
• Còng tay là loại Darby. Scotland Yard. Kiểm tra với Bảo tàng Houdini ở New Orleans để có thêm đầu mối.
• Phá hủy đồng hồ của nạn nhân vào đúng 8 giờ sáng.
• Dây vải giữ ghế. Loại thường. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Pháo tạo hiệu ứng tiếng súng. Đã bị hủy. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Dây dẫn cháy. Loại phổ biến. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Cảnh sát hiện trường cho biết có đèn nháy trong không trung. Không tìm thấy vật liệu liên quan.
• Là vải chớp sáng hoặc giấy chớp sáng.
• Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Giày của nghi phạm: hiệu Ecco cỡ 10.
• Sợi tơ, nhuộm màu xám, đã xử lý để trở nên mờ xỉn.
• Từ bộ đồ người gác cổng thay nhanh.
• Đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.
• Gỗ hồ đào đỏ và địa y Parmelia, đều được tìm thấy chủ yếu ở công viên Trung Tâm.
• Bụi có dính dầu khoáng khác thường. Đã gửi cho FBI để phân tích.
• Mảnh lụa đen, khoảng 1,8 x 1,2 mét. Được dùng làm vật ngụy trang. Không thể truy nguồn gốc.
• Các ảo thuật gia thường xuyên sử dụng.
• Đeo bọc ngón tay của ảo thuật gia để giấu vân tay.
• Dấu vết cao su, dầu thầu dầu, mỹ phẩm.
• Đồ hóa trang cho sân khấu.
• Dấu vết alginate.
• Sử dụng trong các “thiết bị” tạo khuôn cao su.
• Vũ khí giết người: dây thừng lụa trắng với lõi là lụa đen.
• Sợi thừng là một trò ảo thuật. Màu sắc thay đổi. Không truy được nguồn gốc.
• Nút thắt khác thường.
• Đã gửi cho FBI và Bảo tàng Hàng hải – không có thông tin gì.
• Các nút thắt giống như trong những màn trình diễn của Houdini, gần như không thể cởi ra.
• Dùng mực vô hình trong sổ đăng ký.
Hồ sơ của ảo thuật gia.
• Nghi phạm sẽ dùng việc đánh lạc hướng để đối phó các nạn nhân và che mắt cảnh sát.
• Đánh lạc hướng về vật lý (để gây phân tâm).
• Đánh lạc hướng về tâm lý (để loại trừ sự nghi ngờ).
• Nghi phạm trốn thoát ở trường Âm nhạc bằng cách thức giống với tiết mục ảo thuật Người biến mất. Quá phổ thông để truy nguồn gốc.
• Nghi phạm về cơ bản là một ảo thuật gia.
• Có tài trong thể loại nhanh tay lẹ mắt.
• Cũng biết ảo thuật biến y (thay đồ nhanh). Sẽ sử dụng quần áo tách ra được, ni-lông và lụa, mũ hóa trang hói đầu, bọc ngón tay và các thiết bị cao su khác. Có thể ở bất kỳ độ tuổi, giới tính hay chủng tộc nào.