• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 14

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 13
  • 14
  • 15
  • More pages
  • 60
  • Sau

CHƯƠNG CHÍN

H

ọ ngửi thấy rất nhiều mùi khi đi tản bộ: tử đinh hương nở rộ, khói từ những xe bán bánh xoắn pretzel và mùi gà và sườn nướng từ các hộ gia đình, mùi kem bôi làm rám da.

Sachs và Kara chen vào trong khu lều trắng khổng lồ của Cirque Fantastique qua bãi cỏ ẩm ướt của công viên Trung Tâm.

Để ý thấy một cặp đôi đang hôn nhau trên băng ghế, Kara hỏi, “Vậy là anh ấy không chỉ là sếp của cô?”

“Lincoln ư? Phải.”

“Tôi có thể nhìn ra… Hai người gặp nhau thế nào?”

“Một vụ án. Kẻ bắt cóc hàng loạt. Vài năm trước.”

“Có khó khăn lắm không, khi mà anh ấy như thế?”

“Không, không hề,” Sachs đáp giản dị, một sự thật hoàn toàn.

“Họ có thể làm gì cho anh ấy không, các bác sĩ ấy?”

“Anh ấy đã nghĩ tới một cuộc phẫu thuật. Tuy nhiên, rủi ro khá cao, và có lẽ sẽ chẳng giúp được gì. Anh ấy quyết định không làm phẫu thuật vào năm ngoái và không nhắc gì tới chuyện đấy kể từ đó. Nên toàn bộ chuyện này bị gác lại một thời gian. Anh ấy có thể đổi ý ở một thời điểm nào đó. Cứ đợi xem sao.”

“Cô có vẻ không ủng hộ chuyện đó.”

“Đúng vậy. Rủi ro rất lớn và những gì có thể giành được không nhiều. Với tôi, đó là câu hỏi về sự cân bằng rủi ro. Giả sử, cô rất muốn bắt được nghi phạm, có rất nhiều giấy tờ về gã rồi, nhé? Các lệnh lục soát ấy, ý tôi là thế. Cô biết rằng gã ở trong một căn hộ xác định. Liệu cô có tới thẳng đó và đạp cửa xông vào khi cô không biết là gã đang ngủ, hay có khi gã và đồng bọn có hai khẩu MP530 đang chĩa thẳng ra cửa? Hay cô muốn đợi viện trợ và chấp nhận rủi ro gã sẽ trốn mất? Đôi khi mạo hiểm là đáng, đôi khi lại không. Nhưng nếu anh ấy muốn tiến hành phẫu thuật thì tôi vẫn ủng hộ. Đó là cách chúng tôi bên nhau.”

Rồi Sachs giải thích rằng Rhyme đã được điều trị, bao gồm kích thích các cơ bằng dòng điện và hàng loạt bài tập mà Thom và một số chuyên gia vật lý trị liệu giúp thực hiện – tương tự những bài mà diễn viên Christopher Reeve31 đã tập, thu được kết quả rất ấn tượng. “Reeve là một người đáng kinh ngạc,” Sachs nói. “Quyết tâm đến khó tin. Lincoln cũng thế. Anh ấy không nói nhiều về chuyện đó, nhưng đôi khi anh ấy biến mất và để Thom cùng các chuyên gia vật lý trị liệu hỗ trợ anh ấy tập. Tôi không nghe gì từ anh ấy trong vài ngày liền.”

“Một kiểu người biến mất khác hả?” Cô gái trẻ hỏi.

“Chính xác,” Sachs mỉm cười đáp. Họ im lặng một lúc và cô tự hỏi liệu Kara có trông đợi nhiều hơn ở mối quan hệ của họ không. Những câu chuyện về việc bền chí vượt qua chướng ngại hiển nhiên, những bóng gió về những bất tiện ở cuộc đời của một người lệ thuộc vào xe lăn. Phản ứng của mọi người khi thấy họ ở nơi công cộng. Hay thậm chí là các bóng gió về quan hệ phòng the. Nhưng dù cô có tò mò, cô cũng không nói ra.

30 MP5: Loại súng tiểu liên đạn chín ly nổi tiếng của Đức do công ty Heckler & Koch chế tạo.

31 Christopher Reeve (1952 - 2004), diễn viên người Mỹ nổi tiếng với vai siêu nhân. Ông bị tai nạn ngã ngựa vào năm 1995 và phải ngồi xe lăn cho tới cuối đời.

Thực ra, Sachs chủ yếu thấy là sự ghen tị. Kara nói tiếp, “Gần đây tôi không được may mắn lắm với đàn ông.”

“Có hẹn hò ai không?”

“Tôi không chắc,” Kara trầm ngâm đáp. “Lần tiếp xúc gần nhất của chúng tôi là bánh mì nướng kiểu Pháp và hoa trinh nữ. Ở chỗ của tôi. Ăn bữa sáng muộn trên giường. Rất lãng mạn. Anh ta nói hôm sau sẽ gọi tôi.”

“Và không có cuộc gọi nào hết?”

“Không có gì cả. Ôi, có lẽ tôi nên thêm rằng bữa sáng muộn đó là từ ba tuần trước.”

“Cô có gọi cho anh ta không?”

“Tôi sẽ không làm thế,” cô nói cương quyết. “Quyết định là ở anh ta.”

“Tốt cho cô.” Sachs hiểu sự kiêu hãnh và quyền lực cột chặt với nhau.

Kara cười lớn. “Có một tiết mục cổ mà một ảo thuật gia tên là William Ellsworth Robinson32 từng diễn. Nó rất nổi tiếng. Tên là Làm sao thoát khỏi một bà vợ, hay Máy ly dị.” Một tiếng cười lớn. “Đó là câu chuyện của tôi. Tôi có thể làm các anh bạn trai biến mất nhanh hơn bất kỳ ai.”

32 William Ellsworth Robinson (1861 - 1918), nghệ danh Chung Ling Soo, là ảo thuật gia người Mỹ. Ông nổi tiếng với việc thiệt mạng vì một màn dùng tay bắt đạn thật thất bại.

“À, họ cũng khá giỏi tự làm mình biến mất, cô biết đấy,” Sachs bình luận.

“Phần lớn những anh chàng tôi gặp, dù là ở chỗ làm cũ của tôi – một tờ tạp chí, hay ở cửa hàng, đều chỉ quan tâm tới hai điều. Tình một đêm. Hoặc là theo đuổi rồi về sống ổn định ở vùng ngoại ô… Cô đã bao giờ bị theo đuổi như thế chưa?”

“Chắc chắn rồi,” Sachs nói. “Có thể rất đáng sợ. Phụ thuộc vào người theo đuổi, tất nhiên.”

“Cô hiểu đấy, cô bạn. Tình một đêm hoặc theo đuổi và sống yên ổn ở ngoại ô… cả hai điều đó đều không hợp với tôi. Tôi không muốn cả hai. Yêu chơi chơi thôi thì được. Phải thực tế.”

“Còn đàn ông trong nghề này thì sao?”

“A, vậy là cô có để ý tôi đã loại trừ họ ra khỏi phương trình tình một đêm/theo đuổi. Những nghệ sĩ trình diễn khác… không, tôi không làm chuyện đó. Quá nhiều xung đột về mặt lợi ích. Họ hay tuyên bố là họ thích những người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng sự thật là hầu hết họ không hề muốn chúng tôi tham gia nghề này. Tỉ lệ nam so với nữ là một trăm trên một. Giờ thì tốt hơn. À, cô quả có thấy một số ảo thuật gia là phụ nữ. Công chúa Tenko33, một ảo thuật gia châu Á – cô ấy rất giỏi. Và còn vài người khác nữa. Nhưng đó là gần đây. Hai mươi, ba mươi năm trước, cô không bao giờ thấy một phụ nữ là ngôi sao, chỉ là trợ lý.” Cô liếc nhìn Sachs. “Cảnh sát cũng thế, nhỉ?”

33 Công chúa Tenko: Nghệ danh của nữ ảo thuật gia người Nhật Bản Tenko Hikita, sinh năm 1959.

“Không tệ như ngày xưa. Không phải thế hệ tôi. Những năm sáu mươi và bảy mươi – đó là khi phụ nữ phá bỏ nguyên tắc. Thời đó thật khó khăn. Nhưng tôi cũng có khó khăn của riêng mình. Tôi là cảnh sát tuần tra trước khi chuyển sang điều tra hiện trường và…”

“Một gì cơ?”

“Một cảnh sát tuần tra, kiểu như cảnh sát khu vực. Nếu phải làm việc ở khu Hell’s Kitchen thuộc quận Midtown, một nữ cảnh sát sẽ đi kèm với một đồng nghiệp nam nhiều kinh nghiệm. Đôi khi tôi vớ phải một tên ngu ngốc ghét làm việc với phụ nữ. Đơn giản là ghét thôi. Hắn không nói một lời nào với tôi suốt cả ca trực. Tám tiếng đồng hồ, đi tới đi lui trên đường, hắn không hé răng một lần. Chúng tôi tới chỗ giao đường 10 và 63 để ăn trưa. Tôi ngồi đó, cố tỏ ra thoải mái còn hắn ở cách chỗ đó hơn nửa mét, đọc mục thể thao và thở dài vì phải lãng phí cả ngày với một phụ nữ.” Những ký ức trở lại với cô. “Tôi từng làm ở khu bảy-năm…”

“Ở đâu?”

Sachs giải thích, “Phân khu của cảnh sát. Chúng tôi gọi chúng là ‘khu.’ Và hầu hết cảnh sát không nói thứ bảy mươi lăm. Khi nói số, nó luôn là bảy-năm hay bảy mươi-năm. Giống như hiệu Macy’s là ở đường ba-bốn.”

“Hiểu rồi.”

“Dù sao đi nữa, sếp tôi nghỉ phép và có một tay trung sĩ thuộc trường phái cũ tạm thay. Đó là một trong những ngày đầu tiên của tôi ở Bảy Năm và tôi là người phụ nữ duy nhất trong ca đó. Lúc tôi vào điểm danh ở phòng họp lớn, có một tá băng vệ sinh Kotex gắn trên kệ.”

“Không đời nào!”

“Không đùa cô đâu. Sếp tôi sẽ không bao giờ để bất cứ ai làm thế. Nhưng cảnh sát là một đám trẻ con theo nhiều nghĩa. Chúng cứ lấn tới cho đến khi bị một người lớn ngăn lại.”

“Không giống những gì ta thấy trong phim ảnh.”

“Phim ảnh làm ở Hollywood. Không phải ở khu bảy-năm.”

“Vậy cô đã làm gì? Với mấy cái băng vệ sinh ấy?”

“Tôi bước lên hàng trước và hỏi tay cảnh sát ngồi trước kệ là liệu tôi có thể ngồi chỗ đấy được không – vốn đằng nào cũng là chỗ tôi sẽ ngồi. Họ đều cười lớn tới mức tôi ngạc nhiên vì không ai vãi ra quần. Tôi ngồi xuống và bắt đầu ghi chú những gì viên trung sĩ đang nói – cô biết đấy, các lệnh khám xét hết hạn, những chuyện quan hệ với dân và các góc đường nổi tiếng vì hoạt động buôn bán ma túy. Và khoảng hai phút sau, không còn ai cười nữa. Toàn bộ chuyện đó trở thành một nỗi hổ thẹn. Không phải cho tôi. Mà là cho bọn họ.”

“Cô biết ai làm chuyện đó không?”

“Chắc chắn.”

“Cô có khiếu nại hắn ta?”

“Không. Thế này, đó là phần khó nhất của việc là một nữ cảnh sát. Ta phải làm việc với những người đó. Ta cần họ ủng hộ ta, yểm trợ cho ta. Ta có thể lần nào cũng đấu tranh. Nếu ta thực sự phải làm thế thì ta đã thua rồi. Phần khó nhất không phải là có can đảm để đấu tranh. Mà là biết khi nào thì đấu tranh và khi nào thì đơn giản là bỏ qua.”

Sự kiêu hãnh và quyền lực…

“Tôi đoán là giống như chúng tôi. Nghề của tôi. Nhưng nếu cô giỏi, nếu cô có thể thu hút được khán giả, ban quản lý sẽ thuê cô. Tuy nhiên, đó là một sự luẩn quẩn. Cô không thể chứng minh mình sẽ thu hút được khán giả nếu quản lý không thuê cô, và họ sẽ không thuê cô nếu cô không thể bán được vé.”

Họ đi tới gần hơn khu lều khổng lồ, lấp lánh và Sachs thấy cặp mắt cô gái trẻ sáng lên khi cô dán mắt vào đấy.

“Đây là nơi mà cô muốn làm việc đúng không?”

“Ôi trời, tôi biết nói gì đây. Chỗ này là thiên đường của tôi. Cirque Fantastique và những chương trình đặc biệt trên ti-vi.” Sau một khoảnh khắc im lặng nhìn quanh, cô nói, “Ông Balzac đã dạy tôi mọi tiết mục cũ, điều đó quan trọng – ta phải biết rõ nó. Nhưng” – một cái hất đầu về phía khu lều – “đây mới là hướng đi của ảo thuật trong tương lai. David Copperfield, David Blaine34… nghệ thuật trình diễn, ảo thuật đường phố. Ảo thuật gợi cảm.”

34 David Blaine, sinh năm 1973, ảo thuật gia người Mỹ nổi tiếng với những màn trình diễn cực đoan, từng phá vài kỷ lục thế giới.

“Cô nên diễn thử ở đây.”

“Tôi hả? Cô đừng đùa,” Kara đáp. “Tôi còn lâu mới sẵn sàng. Màn diễn của cô phải thật hoàn hảo. Cô phải là người giỏi nhất.”

“Ý cô là phải giỏi hơn một người đàn ông?”

“Không, giỏi hơn bất kỳ ai, đàn ông hay phụ nữ.”

“Tại sao?”

“Vì khán giả,” Kara giải thích. “Ông Balzac giống như một kỷ lục đã bị phá: ta mắc nợ điều đó với khán giả. Mọi hơi thở của ta trên sân khấu đều là vì khán giả của ta. Ảo thuật không thể chỉ tàm tạm được. Ta không thể hài lòng – ta phải gây kịch tính. Nếu một người trong khán giả phát hiện ra những động tác của cô, cô đã thất bại. Nếu cô lưỡng lự lâu hơn một giây và hiệu ứng trở nên đáng chán, cô đã thất bại. Nếu một người che miệng ngáp hoặc đưa mắt nhìn đồng hồ, cô đã thất bại.”

“Tôi nghĩ cô không thể lúc nào cũng chắc chắn một trăm phần trăm,” Sachs bình luận.

“Nhưng cô phải thế,” Kara nói giản dị, như thể cô ngạc nhiên vì người ta có thể nghĩ khác.

Họ đã tới Cirque Fantastique, nơi các buổi diễn thử cho buổi mở màn tối nay đang diễn ra. Vài chục nghệ sĩ biểu diễn đang đi lại xung quanh, một số người đã mặc đồ diễn, số khác chỉ mặc quần soóc và áo phông hay quần bò.

“Ôi, trời…” Một giọng cảm thán và thở dài. Là của Kara. Khuôn mặt cô như của một bé gái, mắt cô phản chiếu màu trắng tinh khôi của khu lều lớn.

Sachs nhảy lên khi có tiếng ầm ĩ phía trên và đằng sau cô. Cô nhìn lên và thấy hai tấm băng-rôn lớn, ở khoảng cách đến hơn chục mét, đang phần phật trong gió, lấp lánh trong ánh mặt trời. Trên một tấm băng-rôn có dòng chữ CIRQUE FANTASTIQUE.

Trên tấm kia là bức vẽ khổng lồ của một người đàn ông gầy gò trong bộ áo liền quần ca-rô đen và trắng. Anh ta giơ hai cánh tay ra, lòng bàn tay ngửa lên, mời gọi khán giả vào trong. Anh ta đeo một chiếc mặt nạ nửa mặt màu đen, che kín tới mũi, một tạo hình kệch cỡm. Một hình ảnh khó chịu. Cô nghĩ ngay tới Gã phù thủy, giấu mình sau lớp mặt nạ ngụy trang.

Động cơ và kế hoạch của gã cũng được che giấu.

Kara để ý thấy ánh nhìn của Sachs. “Đấy là Arlecchino,” cô nói. “Trong tiếng Anh có nghĩa là ‘Harlequin.’ Cô có biết commedia dell’arte35 là gì không?” Cô hỏi.

35 Hài kịch Phục Hưng kiểu Ý, một loại hình biểu diễn kịch phát xuất từ Ý và phổ biến ở châu Âu giai đoạn thế kỷ XVI - XVIII.

“Không,” Sachs nói.

“Kịch kiểu Ý. Nó có từ, tôi không biết nữa, những năm 1500 và đã tồn tại được vài trăm năm. Cirque Fantastique lấy đó làm chủ đề.” Cô chỉ vào những băng-rôn nhỏ hơn ở các cạnh lều có hình những tấm mặt nạ. Với những cái mũi khoằm, những cặp lông mày cong vút, những gò má cao thâm độc, chúng có vẻ dị thường và đáng sợ. Kara nói tiếp, “Có khoảng một tá nhân vật mà mọi đoàn kịch kiểu Ý sử dụng trong những vở của họ. Họ đeo những chiếc mặt nạ cho biết họ đang đóng vai nào.”

“Đây là hài kịch à?” Sachs hỏi, nhướng mày khi nhìn vào một chiếc mặt nạ mặt quỷ dị thường.

“Tôi nghĩ họ gọi đó là hài kịch đen. Harlequin không hẳn là một nhân vật người hùng. Anh ta không hề có đạo đức. Tất cả những gì anh ta quan tâm chỉ là đồ ăn ngon và gái đẹp. Và anh ta thoắt ẩn thoắt hiện, khiến ta bất ngờ. Một nhân vật khác, Pulcinella, là kẻ thích thú trò tàn ác. Anh ta chơi khăm người khác bằng những trò hết sức xấu tính, ngay cả với người yêu của anh ta. Rồi còn có một bác sĩ chuyên đầu độc mọi người. Giọng nói lý trí duy nhất thuộc về một người phụ nữ, nàng Columbine.” Kara nói thêm. “Một trong những điều tôi thích về kịch Ý là vai của cô ấy thực sự do một phụ nữ đóng. Không như ở Anh, phụ nữ không được phép diễn kịch.”

Tấm băng-rôn lại bay phần phật. Đôi mắt của Harlequin có vẻ hơi liếc xuống chỗ họ như thể Gã phù thủy đang tiến lại gần, gợi nhớ lại cuộc lục soát ở trường Âm nhạc trước đó.

Không, chúng tôi không có bất cứ đầu mối nào về việc gã là ai hay đang ở đâu…

Cô quay đi và thấy một tay bảo vệ tiến lại, nhìn vào đồng phục của cô. “Giúp được gì không, sĩ quan?”

Sachs yêu cầu gặp viên giám đốc. Người đàn ông giải thích rằng ông ấy đi vắng, nhưng họ có thể nói chuyện với người trợ lý.

Vài phút sau, một phụ nữ thấp người, gày gò, vẻ khó chịu – da ngăm, như dân gypsy – bước tới.

“Tôi có thể giúp gì cho cô?” Cô ta hỏi với giọng mơ hồ.

Sau khi giới thiệu, Sachs nói, “Chúng tôi đang điều tra hàng loạt vụ án xảy ra trong khu vực này. Chúng tôi muốn biết liệu có ảo thuật gia hay nghệ sĩ biến y nào xuất hiện trong buổi diễn không.”

Sự lo lắng lộ ra trên mặt người phụ nữ. “Có, tất nhiên là chúng tôi có,” cô ta nói. “Irina và Vlad Klodoya.”

“Xin đánh vần tên họ cho tôi.”

Kara gật đầu khi Sachs viết những cái tên đó ra.

“Tôi biết họ, chắc chắn. Họ từng biểu diễn ở Đoàn xiếc Moscow vài năm trước.”

“Đúng,” người trợ lý xác nhận. “Họ ở đây cả buổi sáng chứ?”

“Phải. Họ diễn thử cho tới khoảng hai mươi phút trước. Giờ họ đang đi mua sắm.”

“Cô dám chắc rằng đây là khoảng thời gian duy nhất họ vắng mặt chứ?”

“Tất nhiên. Tôi đích thân giám sát việc tất cả mọi người đang ở đâu.”

“Còn ai khác không?” Sachs hỏi. “Có thể là ai đó được đào tạo về nghệ thuật tạo ảo giác hay ảo thuật? Ý tôi là, ngay cả khi họ không trình diễn.”

“Không, không còn ai cả. Chỉ có hai người đó thôi.”

“Được rồi,” Sachs nói. “Sẽ có hai cảnh sát đậu xe bên ngoài. Họ sẽ có mặt ở đây trong khoảng mười lăm phút nữa. Nếu cô có nghe về việc ai đó làm phiền các nhân viên hay khán giả của cô, hoặc có hành động đáng ngờ, xin hãy báo ngay với cảnh sát.” Đây là đề xuất của Rhyme.

“Được, tôi sẽ nói với tất cả mọi người. Nhưng cô có thể cho tôi biết là có chuyện gì không?”

“Một người đàn ông với kinh nghiệm ảo thuật có liên quan tới một vụ án mạng xảy ra hôm nay. Không có gì liên quan tới buổi diễn của quý vị, nhưng chúng tôi muốn đảm bảo chắc chắn.”

Họ cảm ơn người trợ lý, cô ta chào tạm biệt một cách khó chịu, có lẽ lấy làm tiếc vì đã hỏi lý do của chuyến thăm.

Ra đến bên ngoài, Sachs hỏi, “Câu chuyện của những nghệ sĩ trình diễn đó là gì?”

“Những người Ukraine ấy hả?”

“Phải. Chúng tôi có thể tin họ không?”

“Đó là một nhóm hai vợ chồng. Có vài đứa con đi lưu diễn cùng họ. Họ là hai nghệ sĩ thay đồ nhanh giỏi nhất thế giới. Tôi không thể tưởng tượng được là họ có dính líu gì tới vụ giết người.” Cô cười lớn. “Cô thấy chưa, đó là những người được nhận vào Cirque Fantastique – những nghệ sĩ trình diễn đã là dân chuyên nghiệp từ khi mới chỉ năm hoặc sáu tuổi.”

Sachs gọi điện thoại cho Rhyme và Thom nghe máy. Cô nói tên hai nghệ sĩ trình diễn người Ukraine và những gì cô đã tìm hiểu. “Hãy nói Mel hay ai đó kiểm tra những cái tên đấy qua NCIC36 và Bộ Ngoại giao.”

36 NCIC: viết tắt của “National Crime Information Center”, tức Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia, thuộc Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI).

“Sẽ làm.”

Cô ngắt máy và họ ra khỏi công viên, đi theo hướng tây về phía những đám mây xám xịt, như những vết bầm tím, trên một bầu trời xanh thẳm.

Một tiếng đập mạnh nữa vang lên đằng sau cô – lại là những tấm băng-rôn, phần phật trong gió, khi anh chàng Harlequin khôi hài tiếp tục mời chào khách bộ hành bước vào vương quốc dị thường của anh ta.

***

Đã giải lao xong chưa, quý khán giả thân mến? Đã thấy thoải mái hơn chưa?

Tốt, vì đã tới lúc cho tiết mục thứ hai của chúng tôi.

Quý vị có thể không biết tên P. T. Selbit37, nhưng nếu quý vị từng tới bất kỳ buổi biểu diễn ảo thuật hay xem một nghệ sĩ ảo giác nào trên ti- vi, quý vị hẳn sẽ quen thuộc với một số trò mà nhân vật người Anh này đã khiến cho nó phổ biến vào đầu những năm 1900.

Selbit bắt đầu sự nghiệp trình diễn của ông với tên thật, Percy Thomas Tibbles, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng một cái tên thường thường như thế không thích hợp với một nghệ sĩ biểu diễn có thế mạnh không phải là những trò với các lá bài, làm biến mất những con chim bồ câu, hay làm trẻ nhỏ lơ lửng trong không khí, mà là những tiết mục gây đau đớn tới sốc – và bởi thế, tất nhiên – thu hút những đám đông trên toàn thế giới.

Selbit – phải, nghệ danh của ông là sự đảo ngược họ của ông – đã sáng tạo ra màn trình diễn nổi tiếng Gối cắm kim sống, trong đó một cô gái có vẻ như bị đâm tám mươi tư cây kim nhọn vào người. Một màn khác của ông là Chiều không gian thứ tư, một tiết mục mà khán giả đã chứng kiến trong kinh hoàng khi một phụ nữ trẻ có vẻ như bị đè tới chết dưới một chiếc hộp khổng lồ. Một trong những màn tôi thích nhất của Selbit là tiết mục ông giới thiệu vào năm 1922. Cái tên nói lên tất cả, quý khán giả thân mến: Tượng thần bằng máu, hay Hủy diệt một cô gái.

37 P.T. Selbit, tên thật Percy Thomas Tibbles (1881 - 1938), ảo thuật gia và nhà phát minh người Anh. Ông nổi tiếng với việc sáng tạo ra màn cưa đôi người.

Hôm nay tôi rất vui mừng được giới thiệu với quý vị một phiên bản nâng cấp của màn trình diễn nổi tiếng nhất của Selbit, màn trình diễn mà ông đã biểu diễn ở vài chục quốc gia và giúp ông được mời tới Chương trình Tạp kỹ Hoàng gia ở Hippodrome, London.

Tên gọi của màn trình diễn là…

A, nhưng không…

Không, quý khán giả thân mến. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ để quý vị hồi hộp chờ đợi và kìm nén thêm chút nữa với việc không nêu tên màn trình diễn ngay. Nhưng tôi sẽ cho quý vị một đầu mối: khi Selbit trình diễn tiết mục này, ông đã chỉ thị các trợ lý đổ máu giả vào những máng xối đằng trước sân khấu dụ khách qua đường để họ mua vé. Thật tự nhiên, họ đã mua vé.

Hãy tận hưởng tiết mục tiếp theo của chúng tôi. Tôi thực sự hy vọng quý vị sẽ thích.

Dù tôi biết có một người chắc chắn sẽ không thích.