• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 15

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 14
  • 15
  • 16
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương mười

M

ình đã ngủ bao lâu rồi? Người đàn ông trẻ tuổi tự hỏi. Vở kịch đã kết thúc lúc nửa đêm, tiếp đến là những chầu uống ở quán White Horse tới mấy giờ không ai biết, về nhà lúc ba giờ, nói chuyện điện thoại trong khoảng bốn mươi phút với Bragg, không, có lẽ là một tiếng. Rồi cái máy bơm lố bịch đã bắt đầu những tiếng đập lố bịch của nó vào lúc tám rưỡi.

Tới lúc đó mình đã ngủ được mấy tiếng rồi?

Những phép toán không chịu hợp tác với Tony Calvert và anh quyết định rằng có lẽ tốt hơn là không biết quá nhiều về sự mệt mỏi của mình. Ít ra giờ anh đang làm việc ở Broadway và không còn phải đi chụp hình quảng cáo nữa, khi mà đôi khi công việc – nhờ trời phù hộ – bắt đầu vào lúc sáu giờ sáng. Phiên buổi chiều của anh ở nhà hát Gielgud đủ bù đắp cho việc anh phải làm việc vào thứ Bảy và Chủ nhật.

Anh kiểm tra lại các thiết bị hành nghề và thấy rằng mình cần thêm vài miếng che hình xăm, bởi một thằng nhóc cằm nhọn sẽ diễn hôm nay và những quý cô từ Teaneck và Garden City có thể nghi ngờ về sự đáng tin của vai nam chính, một người mê mẩn những ngôi sao chưa nổi còn ngây thơ, trong khi bắp tay vạm vỡ của anh ta lại có dòng chữ “Mãi Yêu Robert.”

Calvert đóng chiếc valy trang điểm lớn màu vàng lại và liếc chiếc gương cạnh cửa. Anh trông khá hơn là anh cảm thấy, phải thừa nhận như vậy. Da anh vẫn còn hơi rám nắng từ chuyến đi tuyệt vời xuống St. Thomas vào tháng Ba. Và cách ăn mặc của anh gây ấn tượng sai lệch, che giấu vòng eo xập xệ. (Vì Chúa, uống bốn ly bia thôi. Được không? Coi nào, chúng ta có thể sống chỉ với từng đó không?) Tuy nhiên, mắt anh thì không: nó khá đỏ. Nhưng chuyện đó dễ xử lý. Một chuyên gia về phong cách biết hàng trăm cách để khiến người già nhìn trẻ, người nhạt nhẽo nhìn xinh đẹp và người mệt mỏi nhìn tỉnh táo. Chỉ cần vài giọt thuốc nhỏ mắt và một, hai cú quẹt trang điểm cho mi mắt dưới.

Calvert khoác chiếc áo khoác da lên, khóa cửa và bắt đầu đi xuống hành lang khu căn hộ East Village của anh; khoảng thời gian trước buổi trưa thật im ắng. Anh đoán là hầu hết mọi người trong tòa nhà đã ra ngoài, tận hưởng ngày cuối tuần mùa xuân đích thực đầu tiên trong năm nay, hoặc vẫn còn ngủ sau một đêm chơi bời trác táng.

Anh dùng lối ra đằng sau, vẫn luôn như thế, lối đi dẫn anh ra con ngõ phía sau tòa nhà. Bắt đầu bước trên vỉa hè, được khoảng hơn chục mét, anh để ý thấy có thứ gì đó: di chuyển xuống một trong những ngõ cụt rẽ ra từ con hẻm.

Anh dừng lại và nhìn vào bóng tối. Một con vật. Chúa ơi, liệu có phải một con chuột không?

Không – đấy là một con mèo, có vẻ bị thương. Anh nhìn quanh, nhưng ngõ hẻm hoàn toàn vắng người, không có vẻ gì là có người chủ ở đó.

Ôi, con vật tội nghiệp!

Calvert không phải người nuôi thú cưng, nhưng anh từng trông giúp một con chó sục Na Uy của nhà hàng xóm năm ngoái và người đàn ông đấy đã nói với anh, dù chỉ để phòng ngừa, rằng phòng khám thú y Bilbo ở ngay góc đường St. Marks. Anh sẽ mang con mèo đi trên đường tới ga tàu điện ngầm. Có thể chị anh sẽ muốn có nó. Chị ấy từng nhận nuôi trẻ con. Tại sao mèo lại không?

Nấn ná trong những ngõ hẻm ở khu này không phải là ý hay, nhưng Calvert thấy rằng anh vẫn hoàn toàn chỉ có một mình. Anh di chuyển chậm rãi trên vỉa hè lát đá để không làm con vật bị giật mình. Nó đang nằm nghiêng sang một bên, miệng rên khe khẽ.

Anh có thể bế nó lên không? Nhỡ nó cào anh thì sao? Anh nhớ lại đôi điều ở Trung tâm Phòng bệnh về bệnh sốt do bị mèo cào. Nhưng con vật trông quá yếu ớt để có thể làm anh bị thương.

“Này, có chuyện gì đấy, bạn nhỏ?” Anh hỏi, giọng êm ái. “Mày bị thương hả?”

Ngồi xuống, anh đặt chiếc valy trang điểm của mình lên vỉa hè và giơ tay ra thận trọng, đề phòng con mèo sẽ cào. Anh chạm vào nó, nhưng rồi rụt tay lại vì sốc. Con vật lạnh như đá và gầy nhom – anh có thể cảm thấy những chiếc xương nhô ra dưới làn da. Hay là nó chết rồi? Không, chân nó vẫn còn cử động. Và nó lại kêu lên một tiếng meo yếu ớt nữa.

Anh lại chạm vào nó. Và đợi đã, đó không phải là xương dưới lớp da. Đó là những cái que, và bên trong cơ thể nó là một hộp kim loại.

Cái quái gì thế này?

Phải chăng anh đang tham gia chương trình camera bí mật? Hay có kẻ xấu xa nào đó đùa ác với anh?

Rồi anh nhìn lên và thấy có một người đứng cách đó khoảng ba mét. Calvert hít một hơi thật sâu và lùi lại. Người đàn ông đang khom lưng tiến tới…

Nhưng không. Anh nhận ra đó là hình ảnh của chính mình, phản chiếu trong một chiếc gương cao hơn đầu người đặt ở cuối con ngõ tối tăm. Calvert nhìn mặt mình, anh thấy sốc, mắt mở to, cả người đông cứng lại trong chốc lát. Anh bắt đầu thả lỏng và cười lớn. Nhưng rồi anh nhíu mày, theo dõi hình mình dần dần ngả về phía trước – khi tấm gương đổ xuống mặt đá vỉa hè và vỡ tan tành.

Một gã râu ria, trung niên trốn đằng sau đó lao ra, giơ cao một chiếc ống.

“Không! Cứu tôi!” Anh hét lên, loạng choạng chạy đi. “Chúa ơi! Chúa ơi!”

Chiếc ống vung xuống thành một vòng cung hết sức khó chịu thẳng vào đầu anh.

Nhưng Calvert chụp nhanh lấy chiếc valy đựng đồ hóa trang và đỡ được cú đánh. Anh vất vả đứng lên và bắt đầu chạy. Kẻ tấn công đuổi theo ngay sau anh, nhưng bất ngờ trượt ngã trên sàn đá trơn và bị đập mạnh đầu gối.

“Lấy ví đi! Cứ lấy đi!” Anh lôi mớ giấy bạc gập lại trong ví ra và ném về phía sau. Nhưng gã không để ý tới và đứng lên, tiếp tục đuổi theo anh. Gã chặn ở giữa Calvert và con đường; lối thoát duy nhất là trở lại tòa nhà.

Ôi Chúa, ôi Chúa ơi…

“Cứu tôi, cứu tôi, cứu tôi với!”

Chìa khóa! Anh nghĩ. Phải lấy nó ra ngay! Anh lôi chùm chìa khóa ra khỏi quần bò khi liếc nhanh lại phía sau. Gã chỉ còn cách chưa đầy chục mét. Nếu không mở được cánh cửa này ngay lần đầu, thì mình… chết chắc.

Calvert thậm chí không chậm lại. Anh đập mạnh vào cánh cửa kim loại và, như một phép lạ, tra đúng chìa khóa ngay lập tức, xoay chìa thật nhanh. Then cửa mở ra, anh rút chìa khóa và nhảy vào trong lối vào, đóng mạnh cánh cửa sắt sau lưng. Nó tự động khóa lại.

Tim đập thình thịch, hơi thở dồn dập vì sợ hãi, anh chỉ dám nghỉ một chút. Anh nghĩ, kẻ cướp sao? Hay kẻ ghét người đồng tính? Hay ngáo đá? Chẳng quan trọng. Mình sẽ không để cho tên khốn đó thoát. Anh chạy lên hành lang căn hộ của mình. Cả cánh cửa này cũng được mở rất nhanh. Anh nhảy vào trong, đóng ngay nó lại và khóa cửa.

Vội vã vào bếp, anh chụp lấy chiếc điện thoại và gọi 911. Một lát sau, giọng phụ nữ vang lên, “Cảnh sát và cứu hỏa.”

“Một người đàn ông! Một người đàn ông vừa tấn công tôi! Gã đang ở ngoài.”

“Anh có bị thương không?”

“Không, nhưng cô phải đưa cảnh sát tới ngay!” Anh hét. “Nhanh lên!”

“Gã có ở đó với anh không?”

“Không, gã không vào được. Tôi đã khóa cửa. Nhưng gã có thể vẫn còn ở ngoài ngõ! Các người phải nhanh lên!”

Cái gì vậy? Calvert tự hỏi. Anh bỗng cảm thấy một trận gió đột ngột thốc vào mặt. Cảm giác rất giống và anh nhận ra đó là cảm giác khi có người mở cửa căn hộ nhà anh.

Người trực 911 hỏi, “Xin chào, anh ơi, anh có ở đó không? Anh có…”

Calvert lao về phía cửa và hét lên, nhìn thấy gã râu ria với chiếc ống đang đứng cách anh chỉ vài mét. Gã bình tĩnh rút dây điện thoại khỏi tường. Những cánh cửa! Làm sao gã qua được các ổ khóa?

Calvert lùi lại hết mức có thể – dựa lưng vào tủ lạnh; không còn nơi nào để trốn nữa.

“Này?” Anh thì thầm, để ý thấy những vết sẹo ở cổ gã, bàn tay trái dị dạng của gã. “Ông muốn gì?”

Kẻ tấn công phớt lờ anh trong giây lát và nhìn quanh – đầu tiên là vào bàn bếp rồi đến chiếc bàn gỗ lớn dùng để uống cà phê trong phòng khách. Có điều gì đó trong quang cảnh ấy khiến gã thấy hài lòng. Gã quay lại và khi gã phang chiếc ống xuống cánh tay đang giơ lên của Calvert, cú đập gần như chẳng tính toán gì.

***

Họ lặng lẽ dừng xe lại.

Hai chiếc RMP38, mỗi chiếc có hai cảnh sát.

38 RMP: viết tắt của “radio motor patro,” xe tuần tra có bộ đàm.

Viên trung sĩ ra khỏi chiếc xe đầu tiên trước khi nó kịp dừng hẳn. Sáu phút đã trôi qua kể từ cuộc gọi 911. Dù cuộc gọi bị cắt ngang, tổng đài vẫn xác định được vị trí tòa nhà và căn hộ, nhờ vào công nghệ nhận diện người gọi.

Sáu phút… Nếu may mắn, họ sẽ tìm thấy nạn nhân còn sống và khỏe mạnh. Còn nếu không, ít ra hung thủ vẫn ở trong căn hộ, có thể đang lục tìm những món đồ giá trị của nạn nhân.

Anh gọi vào chiếc bộ đàm Motorola. “Trung sĩ Bốn Năm Ba Một gọi Trung tâm. Tôi thuộc khu mười-tám mươi-bốn, ở hiện trường vụ tấn công trên đường 9, K.”

“Rõ, Bốn Năm Ba Một. Xe của Đội Khẩn cấp đang trên đường tới. Có ai bị thương không, K?”

“Chưa biết. Hết.”

“Rõ, Bốn Năm. Hết.”

Anh cử một người của mình đi vòng ra phía sau để khống chế cửa cho nhân viên và các cửa sổ phía sau và nói một người khác ở lại đằng trước. Anh cùng viên cảnh sát thứ ba đi vào sảnh. Nếu họ may mắn, hung thủ sẽ nhảy khỏi cửa sổ và tự làm vỡ mắt cá chân mình. Viên trung sĩ không hề có tâm trạng đuổi theo những tên khốn vào một ngày đẹp trời như thế này.

Đây là thành phố Alphabet, cái tên xuất phát từ việc các đại lộ theo hướng bắc - nam ở đây – A, B, C, tùy thuộc vào việc ta có thể chế ma túy và chích nhanh cỡ nào. Mọi chuyện đang dần được cải thiện, nhưng đây vẫn là một trong những khu nguy hiểm nhất ở Manhattan. Cả hai cảnh sát đều rút vũ khí ra lúc tới gần cánh cửa.

Nếu họ may mắn, vũ khí của hung thủ chỉ là một con dao. Hay thứ gì đấy tương tự thứ mà tên ngáo đá đã dùng để đe dọa anh tuần trước: một chiếc đũa và một nắp thùng rác làm khiên.

Ở đây, ít ra họ cũng bớt được một chuyện – họ không cần tìm người để giúp vượt qua cửa an ninh. Một phụ nữ lớn tuổi, người nghiêng về một bên vì sức nặng của chiếc túi mua sắm với một quả dứa khổng lồ trong đó, đang trên đường ra. Chớp mắt vì bất ngờ, bà giữ cánh cửa mở cho hai cảnh sát và họ vội vàng bước vào trong, trả lời câu hỏi của bà về sự xuất hiện đột ngột của họ mà không để lộ ra điều gì, “Không có gì đáng lo, thưa bà.”

Nếu họ may mắn…

Căn hộ 1J ở tầng trệt phía sau. Viên trung sĩ đứng bên trái cánh cửa. Viên cảnh sát kia ở phía đối diện, liếc nhìn anh và gật đầu. Viên trung sĩ đập cửa thật mạnh. “Cảnh sát đây. Mở cửa ra. Mở ngay!”

Không có tiếng đáp từ bên trong.

“Cảnh sát đây!”

Anh thử nắm đấm cửa. Lại may nữa. Nó không khóa. Viên trung sĩ đẩy cửa mở và cả hai người lùi lại, chờ đợi. Cuối cùng, viên trung sĩ nhìn vào góc phòng.

“Ôi, Chúa ơi,” anh thì thầm khi nhìn thấy thứ đang nằm ở giữa phòng khách.

Từ “may mắn” biến mất hoàn toàn khỏi suy nghĩ của anh.

***

Bí mật của trò ảo thuật biến y – thay đồ nhanh – là thực hiện những thay đổi rõ ràng nhưng đơn giản với vẻ ngoài và phong thái của mình đồng thời gây xao nhãng cho khán giả bằng cách đánh lạc hướng.

Và không có sự thay đổi nào rõ rệt hơn biến bản thân thành một phụ nữ bảy mươi lăm tuổi tay xách nách mang.

Malerick biết cảnh sát sẽ tới nhanh. Nên sau màn biểu diễn ngắn ngủi trong căn hộ của Tony Calvert, gã đã nhanh chóng thay bộ đồ ngụy trang: một chiếc đầm xanh cổ cao và một bộ tóc giả màu trắng. Gã kéo chiếc quần bò co giãn lên trên gấu váy, để lộ đôi tất xám bó. Bộ râu biến mất và gã bôi lên mặt một lớp phấn đỏ dày của những bà cô già lập dị. Gã kẻ một đường lông mày thật đậm. Vài chục đường kẻ với một chiếc chì kẻ mắt nâu đỏ mảnh tạo ra những nếp nhăn của người ngoài bảy mươi. Bước cuối là đổi giày.

Để đánh lạc hướng, gã tìm một chiếc túi mua sắm và nhét báo đầy dưới đáy – cùng cái ống và món vũ khí khác mà gã đã sử dụng cho màn trình diễn này – rồi bỏ thêm vào đó một trái dứa lớn lấy từ bếp của Calvert. Nếu gã gặp ai đó khi rời tòa nhà, họ có thể liếc nhìn gã nhưng sẽ tập trung hơn vào quả dứa. Quả đúng là mọi chuyện đã diễn ra như vậy khi gã lịch sự giữ cửa cho các sĩ quan bước vào.

Lúc đã cách tòa nhà khoảng bốn trăm mét, vẫn ăn mặc như một phụ nữ, gã dừng lại và tựa vào tường của một tòa nhà như thể đang lấy hơi. Rồi gã biến mất vào trong ngõ hẻm tối tăm. Chỉ một cú giật, chiếc váy được gắn bằng băng dán Velcro nhỏ xíu rơi ra. Bộ đồ và mái tóc giả biến mất vào trong một dây cao su co giãn rộng khoảng ba mươi xen-ti-mét mà gã đeo quanh bụng, sợi dây ép chặt các món đồ lại và khiến chúng vô hình dưới chiếc áo phông của gã.

Gã kéo gấu chiếc quần dài xuống, lấy bông tẩy trang trong túi ni-lông để ở túi áo ra và lau mặt cho tới khi màu đỏ, những nếp nhăn, và chì kẻ mắt biến mất, gã còn dùng chiếc gương bỏ túi để kiểm tra lại cho chắc chắn. Gã ném bông tẩy trang vào chiếc túi mua sắm cùng với quả dứa, rồi bỏ tất cả vào một chiếc túi rác màu xanh lá cây. Gã tìm thấy một chiếc xe hơi đậu sai luật, mở khóa cốp và ném chiếc túi vào trong. Cảnh sát sẽ không bao giờ nghĩ tới việc lục soát cốp của những chiếc xe đang đậu, và dù sao thì, khả năng cao là chiếc xe đó cũng sẽ bị kéo đi trước khi chủ xe quay lại.

Trở lại trên đường, gã hướng về một trong những tuyến tàu điện ngầm bên West Side.

Và quý vị nghĩ sao về tiết mục thứ hai của chúng tôi, quý khán giả thân mến?

Bản thân gã nghĩ mọi chuyện đã diễn ra suôn sẻ, dù có tính cả chuyện gã bị ngã trên vỉa hè lát đá, tay nghệ sĩ trình diễn đã thoát được và xoay xở đóng - mở hai cánh cửa.

Nhưng khi Malerick đến chỗ cửa sau tòa nhà của Calvert, gã đã có đồ mở khóa trong tay.

Malerick đã nghiên cứu nghệ thuật mở khóa nhiều năm trời. Đó là một trong những kỹ năng đầu tiên thầy gã dạy. Một kẻ mở khóa sử dụng hai công cụ: một cần xiết lực, được cho vào trong ổ khóa và xoắn lại để giữ áp lực lên lẫy khóa bên trong, và cái mở khóa, dùng để đẩy mỗi lẫy khóa lên giúp vặn ổ khóa cho nó mở ra.

Tuy nhiên, đẩy từng lẫy khóa lên có thể mất nhiều thời gian, nên Malerick đã thành thạo một kỹ thuật rất khó gọi là “dọn sạch.” Trong kỹ thuật này, ta đẩy cái mở khóa qua lại thật nhanh, đẩy đồng loạt các lẫy khóa ra. “Dọn sạch” chỉ hiệu quả khi kẻ mở khóa cảm nhận được chính xác sự kết hợp của momen xoắn lên các trục khóa hình trụ và áp lực lên lẫy khóa. Sử dụng các công cụ chỉ dài vài xen- ti-mét, Malerick mất chưa tới ba mươi giây để mở khóa cả cửa sau và cửa căn hộ của Calvert.

Chẳng phải điều đó có vẻ bất khả sao, quý khán giả thân mến?

Nhưng đó là nghề của ảo thuật gia, quý vị biết đấy: biến điều bất khả thành sự thật.

Dừng lại bên ngoài ga tàu điện ngầm, gã mua một tờ The New York Times và lật qua tờ báo trong khi xem xét khách bộ hành. Một lần nữa, có vẻ như không ai bám theo gã cả. Gã lững thững đi xuống cầu thang để bắt tàu. Một nghệ sĩ thận trọng đích thực có thể sẽ đợi thêm chút nữa để tuyệt đối chắc chắn là mình không bị theo đuôi. Nhưng Malerick không có nhiều thời gian. Tiết mục tiếp theo sẽ là một màn khó – gã đã đặt ra những thử thách lớn cho bản thân – và gã phải chuẩn bị một chút.

Gã không dám làm khán giả của mình thất vọng.