T
ệ lắm, Rhyme.”
Amelia Sachs nói vào bộ đàm lúc cô đứng ở lối vào căn hộ 1J, trung tâm thành phố Alphabet.
Trước đó, vào buổi sáng, Lon Sellitto đã ra lệnh cho toàn bộ cảnh sát đang tuần tra ở công viên Trung Tâm gọi ngay cho anh khi có tin tức về bất kỳ vụ án mạng nào ở thành phố New York. Khi có báo cáo về vụ giết người cụ thể này, họ kết luận rằng đó là tác phẩm của Gã phù thủy: cách thức bí ẩn mà hung thủ vào được trong căn hộ của nạn nhân là một đầu mối. Tuy nhiên, yếu tố then chốt là việc gã lại đập vỡ đồng hồ đeo tay của nạn nhân – như đã làm trước đó với cô sinh viên trong vụ giết người đầu tiên.
Một điều khác biệt là nguyên nhân cái chết. Điều đã dẫn tới bình luận của Sachs với Rhyme. Trong khi Sellitto ra lệnh cho các thám tử và cảnh sát tuần tra trong sảnh, Sachs tìm hiểu nạn nhân xấu số – một thanh niên tên là Anthony Calvert. Anh ta nằm ngửa ra ở giữa bàn cà phê trong phòng khách, tay chân dang ra và bị cột vào chân bàn. Phần bụng anh ta bị cưa tận tới xương sống.
Sachs đang mô tả vết thương cho Rhyme.
“Chà,” nhà tội phạm học nói một cách dửng dưng. “Nhất quán mà.”
“Nhất quán sao?”
“Anh muốn nói rằng gã đã làm đúng chủ đề ảo thuật. Dây thừng cho vụ sát hại đầu tiên. Còn giờ thì cắt người ta ra làm hai.” Giọng anh cao lên khi anh gọi qua bên kia căn phòng, có vẻ là với Kara. “Đó là một trò ảo thuật, đúng không? Cắt một người ra làm hai?” Một khoảng dừng rồi anh tiếp tục nói với Sachs.
“Cô ấy nói đó là một trò kinh điển.”
Cô nhận ra là anh có lý; cô đã bị sốc trước cảnh tượng đó và không nhận ra mối liên hệ của hai vụ giết người.
Một trò ảo thuật…
Dù gọi đó là một màn tùng xẻo kinh dị thì đúng hơn.
Đừng định kiến, cô tự nhủ. Một viên trung sĩ thì không được định kiến.
Một suy nghĩ nảy ra trong đầu cô. “Rhyme, anh có nghĩ…”
“Sao?”
“Anh có nghĩ nạn nhân còn sống khi hung thủ bắt đầu cắt không? Tay anh ta bị trói vào chân bàn, tư thế dang rộng.”
“Ồ, ý em là anh ta có thể để lại điều gì đó cho chúng ta, một đầu mối về nhân thân của kẻ sát nhân sao? Tốt.”
“Không,” cô nói mềm mỏng. “Chỉ nghĩ về sự đau đớn thôi.”
“Ồ. Điều đó.”
Ồ. Điều đó…
“Xét nghiệm máu sẽ cho biết.”
Rồi cô để ý thấy một vết thương sâu do vật cùn gây ra trên thái dương Calvert. Vết thương không chảy máu nhiều, điều đó cho thấy tim anh ta đã ngừng đập ngay sau khi sọ bị đập vỡ.
“Không, Rhyme, có vẻ như việc cắt xẻ là sau khi người này đã chết.”
Cô mơ hồ nghe thấy giọng nhà tội phạm học trao đổi với người trợ lý của anh, nói Thom viết điều đó lên sơ đồ bằng chứng. Anh còn nói điều gì đó nữa, nhưng cô không để ý. Hiện trường có nạn nhân gây ấn tượng kinh hoàng với cô và cứ ở lại mãi trong đầu. Nhưng đây là điều mà cô muốn. Phải, cô có thể bỏ mặc người chết – như cách mọi cảnh sát hiện trường tội phạm phải làm – và trong chốc lát cô sẽ làm thế. Nhưng cô cảm thấy cái chết xứng đáng nhận một khoảnh khắc mặc niệm. Sachs làm thế không phải vì cảm nhận tâm linh, hay vì sự tôn trọng mơ hồ nào đấy cho người chết; không, điều này là vì bản thân cô, để trái tim cô không trở nên sắt đá, một quá trình xảy ra quá thường xuyên với cái nghề này.
Cô nhận ra Rhyme đang nói chuyện với cô.
“Sao cơ?” Cô hỏi.
“Anh đang tự hỏi, có hung khí gì không?”
“Không có dấu hiệu gì cả. Nhưng em chưa kiểm tra.”
Một viên trung sĩ và một cảnh sát mặc đồng phục nhập hội cùng Sellitto ở lối vào. “Đã trao đổi với hàng xóm,” một người nói. Hất đầu về phía thi thể rồi lại quay lại nhìn nó lần nữa. Cô đoán rằng anh ta chưa xem cận cảnh cuộc tàn sát. “Nạn nhân là một người tử tế, ít nói. Ai cũng thích anh ta. Đồng tính nhưng không có gì mờ ám. Đã không hẹn hò với ai một thời gian rồi.”
Sachs gật đầu rồi nói vào micro, “Nạn nhân có vẻ không quen biết hung thủ, Rhyme.”
“Chúng ta không nghĩ chuyện đó có thể, phải không?” Nhà tội phạm học nói. “Gã phù thủy có lịch hoạt động khác – bất kể thứ quái quỷ đó có là gì đi nữa.”
“Nạn nhân làm nghề gì?” Cô hỏi các cảnh sát.
“Nghệ sĩ trang điểm và người tư vấn trang phục cho một trong các sân khấu ở Broadway. Chúng tôi tìm thấy valy của anh ta trong ngõ hẻm. Quý vị biết đấy, keo xịt tóc, đồ trang điểm, cọ.”
Sachs tự hỏi liệu Calvert đã bao giờ được các nhiếp ảnh gia quảng cáo thuê chưa, và nếu có, liệu anh có từng làm việc với cô khi cô còn ở hãng người mẫu Chantelle trên đại lộ Madison hay không. Không giống như nhiều nhiếp ảnh gia và những người làm việc cho các hãng quảng cáo, các nghệ sĩ trang điểm coi người mẫu là con người. Một giám đốc kinh doanh có thể nói, “Được rồi, hãy sơn phết cho cô ta và xem cô ta trông như thế nào,” và người nghệ sĩ trang điểm sẽ lầm bầm, “Xin lỗi, tôi không biết cô ấy là hàng rào trước nhà anh đấy.”
Một thanh tra cảnh sát người Mỹ gốc Á ở khu Chín, vốn bao gồm phần này của thị trấn, đi về phía lối cửa ra vào, ngắt máy điện thoại di động của anh ta. “Cái này là sao, hả?” Anh ta hỏi một cách hào hứng.
“Là sao là thế nào,” Sellitto lầm bầm. “Không thể hiểu gã thoát đi thế nào? Chính nạn nhân đã gọi 911. Người của anh phải tới hiện trường trong vòng mười phút.”
“Sáu phút,” tay thanh tra nói.
Một trung sĩ nói, “Chúng tôi lặng lẽ đi xe tới và khống chế tất cả cửa sổ và cửa ra vào. Khi chúng tôi vào bên trong, thi thể vẫn còn ấm. Ý tôi là thân nhiệt vẫn bình thường. Chúng tôi lục soát từng phòng nhưng không thấy dấu vết nào của hung thủ.”
“Có nhân chứng không?”
Viên trung sĩ gật đầu. “Người duy nhất ở sảnh khi chúng tôi tới đây là một bà cụ. Bà ấy đã tốt bụng mở cửa cho chúng tôi vào. Khi bà ấy trở lại, chúng ta sẽ lập tức trao đổi. Có thể bà ấy nhìn thấy gã.”
“Bà ấy đi rồi hả?” Sellitto hỏi.
“Phải.”
Rhyme nghe thấy. “Các vị biết đấy là ai chứ, đúng không?”
“Mẹ kiếp,” nữ cảnh sát quát.
Viên thanh tra nói, “Không, không sao đâu. Chúng tôi đã để danh thiếp dưới cửa tất cả các nhà. Bà ấy sẽ gọi lại cho chúng ta.”
“Không, bà ta sẽ không gọi lại đâu,” Sachs nói, thở dài. “Đấy chính là hung thủ.”
“Bà ấy sao?” Viên trung sĩ hỏi, giọng cao hơn. Anh ta cười lớn.
“Đấy không phải là một phụ nữ,” Sachs giải thích. “Chỉ là nhìn giống một bà già thôi.”
“Này, sĩ quan,” Sellitto nói, “đừng quá hoang tưởng. Gã này không thể phẫu thuật thay đổi giới tính được.”
“Có, gã có thể. Hãy nhớ lại những gì Kara nói với chúng ta. Là bà ta đó, thiếu úy. Muốn cá không?”
Cô nghe giọng Rhyme, “Anh sẽ không cá vụ đó đâu, Sachs.”
Viên trung sĩ nói với vẻ phòng thủ, “Bà ấy đại khái khoảng bảy mươi tuổi. Mang một chiếc túi mua sắm lớn. Một quả dứa…”
“Xem này,” cô nói và chỉ vào quầy bếp, trên đó còn hai cái lá nhọn. Bên cạnh là một tấm danh thiếp nhỏ trên một miếng băng cao su, ghi tên Dole, gợi ý các công thức nấu món ngon từ dứa.
Mẹ kiếp. Họ đã thấy gã – gã chỉ cách họ có vài bước chân.
“Và,” Rhyme nói tiếp, “gã có lẽ vẫn còn giữ hung khí trong chiếc túi mua sắm đó.”
Cô nhắc lại điều đấy với viên thanh tra ở khu Chín đang ngày càng nhăn nhó.
“Anh không nhìn thấy mặt bà ta, đúng không?” Cô hỏi viên trung sĩ.
“Không hẳn. Chỉ liếc qua bà ta thôi. Cô biết đấy, đại khái toàn đồ trang điểm. Phủ kín mặt, thứ đấy là gì nhỉ? Bà nội tôi thường dùng ấy?”
“Phấn đỏ hả?” Sachs hỏi.
“Phải. Và lông mày được kẻ… Chà, chúng ta sẽ tìm ra bà ta bây giờ. Bà ta… gã không thể đi xa được.”
Rhyme nói, “Gã đã lại thay quần áo rồi, Sachs. Có lẽ ném đâu đó gần đấy.”
Cô nói điều đó với viên thanh tra gốc Á, “Giờ gã đã mặc thứ khác rồi. Nhưng viên trung sĩ đây có thể mô tả quần áo cho anh. Anh cần cử một đội đi kiểm tra các thùng rác và ngõ hẻm xung quanh đây.”
Viên thanh tra cảnh sát nhíu mày lạnh lùng và nhìn Sachs từ đầu tới chân. Một cái liếc mắt thận trọng từ Sellitto nhắc nhở cô rằng một phần quan trọng của việc trở thành một trung sĩ là đừng vội hành xử như thế cho tới khi ta thực sự đã là trung sĩ. Sau đó anh ra lệnh lục soát, rồi viên thanh tra cầm bộ đàm lên và ra lệnh.
Sachs mặc bộ áo liền quần Tyvek vào và đi theo từng ô trong sảnh và con hẻm (nơi cô tìm thấy một mẩu bằng chứng lạ lùng nhất mà cô từng gặp: một con mèo đen đồ chơi). Sau đó cô kiểm tra lại hiện trường kinh hoàng trong căn hộ của nạn nhân, xem xét thi thể và thu thập bằng chứng.
Cô đang trên đường ra xe của mình thì Sellitto ngăn cô lại. “Này, đợi đã, sĩ quan.” Anh gác điện thoại, có vẻ anh vừa có một cuộc nói chuyện khó khăn, nó thể hiện qua vẻ mặt nhăn nhó của anh. “Tôi phải gặp đại úy và nhóm truyền thông của sở về vụ Gã phù thủy. Nhưng tôi cần cô làm chuyện này cho tôi. Chúng ta sẽ tăng cường một người cho nhóm. Tôi muốn cô đi đón anh ta.”
“Được thôi. Nhưng tại sao lại phải thêm người?”
“Vì chúng ta có hai thi thể trong vòng bốn tiếng đồng hồ và không có nghi can chết mẹ nào hết,” anh quát. “Và điều đó có nghĩa là đám lãnh đạo không vui. Đây là bài học đầu tiên của cô khi làm trung sĩ – khi lãnh đạo không vui, cô cũng không vui.”
***
Cây cầu Than Thở.
Đây là lối đi trên không nối liền hai tòa tháp vươn cao của Trung tâm Giam giữ Manhattan trên đường Centre thuộc trung tâm Manhattan. Lối mà những trùm mafia cộm cán với hàng trăm vụ đâm thuê chém mướn đã đi qua. Lối mà những thằng du côn đầu đất giết một du khách để cướp bốn mươi hai đô vì cần ma túy, cần đập đá, cần đủ thứ… đã đi qua.
Amelia Sachs giờ đang băng qua cây cầu đó, trên đường tới nơi giam giữ – tên chính thức là Khu phức hợp Bernard B. Kerik, nhưng vẫn nổi tiếng với tên không chính thức là Hầm mộ, một biệt danh thừa kế từ nhà tù ban đầu của thành phố nằm bên kia đường. Ở đây, phía trên cao khu hành chính của thành phố, Sachs báo tên với một người bảo vệ, giao lại khẩu Glock của cô (cô để món vũ khí không chính thức của cô – một con dao bấm – trong chiếc Camaro) và bước vào gian sảnh được đảm bảo an ninh ở phía bên kia cánh cửa điện ồn ào. Nó kêu lên ầm ĩ rồi đóng lại.
Vài phút sau, người mà cô tới đón bước ra từ một phòng thẩm vấn tù nhân gần đó. Gầy gò, gần bốn mươi tuổi, mái tóc nâu mỏng và nụ cười nhợt nhạt trên khuôn mặt hòa nhã. Anh ta mặc một cái áo khoác thể thao màu đen bên ngoài chiếc sơ-mi xanh và quần bò.
“Amelia, xin chào,” anh ta nói giọng lè nhè. “Vậy là tôi đi nhờ xe cô tới chỗ của Lincoln đúng không?”
“Chào, Rol. Phải rồi.”
Thanh tra cảnh sát Roland Bell cởi nút chiếc áo khoác và cô liếc nhìn thắt lưng anh. Theo quy định, anh cũng không được mang vũ khí, cô để ý thấy hai bao súng không nơi bụng Bell. Cô nhớ khi còn làm việc với nhau, họ thường so sánh những câu chuyện về việc phải “kéo ngón tay,” một cụm từ của dân miền nam chỉ việc bắn súng – với anh là một trong những thú vui và với Sachs là một môn thể thao đối kháng.
Hai người nữa cũng ở trong phòng thẩm vấn tù nhân đi cùng họ. Luis Martinez, người mặc vest, là thanh tra mà cô từng gặp trước đó. Anh ta cắt đầu đinh, trông lặng lẽ nhưng đôi mắt rất nhanh nhẹn và cẩn trọng.
Người thứ hai mặc quần áo đi làm ngày thứ Bảy: quần kaki và áo sơ-mi đen Izod, khoác ngoài một chiếc áo gió đã nhạt màu. Anh tự giới thiệu là Charles Grady, Sachs chỉ nhìn qua là biết anh là người thế nào; trợ lý công tố quận là một ngôi sao trong giới thực thi pháp luật ở New York. Tay cử nhân Luật Harvard tuổi trung niên, người gọn gàng, đã ở văn phòng công tố rất lâu sau khi hầu hết các công tố viên bỏ đi tìm những chỗ làm béo bở hơn. “Bò mộng” và “lỳ lợm” chỉ là hai trong số nhiều sáo ngữ báo chí thường xuyên sử dụng với anh. Anh được so sánh một cách trìu mến với Rudolph Giuliani39; tuy nhiên, không giống tay cựu thị trưởng, Grady không có tham vọng chính trị. Anh hài lòng ở lại văn phòng công tố và theo đuổi đam mê của mình, mà anh mô tả nó đơn giản là “bắt kẻ xấu vào tù.”
39 Rudolph Giuliani, sinh năm 1944, là Chưởng lý Hoa Kỳ khu vực Nam New York 1983 - 1989, Thị trưởng New York 1994 - 2001, và hiện là luật sư riêng của Tổng thống Mỹ Donald Trump.
Và hóa ra anh rất giỏi việc đó; thành tích kết tội của anh vào loại tốt nhất trong lịch sử thành phố.
Bell có mặt ở đây vì vụ hiện giờ của Grady. Chính quyền bang đang truy tố một tay đại lý bảo hiểm bốn mươi lăm tuổi sống ở một thị trấn nhỏ vùng nông thôn Thượng New York. Tuy nhiên, tay Andrew Constable này không nổi tiếng trong vai trò người bảo lãnh mua nhà như trong vai trò tại nhóm vũ trang địa phương, Hội Ái quốc. Hắn bị truy tố vì tội âm mưu giết người và kích động thù hận, vụ việc đã được chuyển xuống đây theo một đề nghị thay đổi nơi xét xử.
Khi ngày diễn ra phiên tòa tới gần, Grady bắt đầu nhận được những lời đe dọa tính mạng. Rồi vài ngày trước, tay công tố viên nhận được một cuộc gọi từ văn phòng của Fred Dellray, một đặc vụ FBI thường xuyên hợp tác với Rhyme và Sellitto. Dellray hiện không rõ tung tích vì tham gia vào một nhiệm vụ chống khủng bố, nhưng các đặc vụ đồng đội của anh đã biết về âm mưu nghiêm trọng đe dọa tính mạng của Grady. Đêm thứ Năm, rạng sáng thứ Sáu, văn phòng của Grady đã bị đột nhập. Tới lúc đó, người ta quyết định phải gọi cho Roland Bell.
Nhiệm vụ chính thức của tay người gốc Bắc Carolina ăn nói nhỏ nhẹ là các vụ án mạng và những tội ác nghiêm trọng khác cùng với Lon Sellitto. Nhưng anh cũng đứng đầu một đơn vị không chính thức của các thanh tra cảnh sát NYPD tên là SWAT, có cùng chữ viết tắt với đơn vị mà mọi người xem phim cảnh sát đều biết; nhưng phiên bản này lại là viết tắt của “Nhóm Cứu mạng Nhân chứng40.”
40 SWAT: Phổ biến là viết tắt của “Special Weapons and Tactics,” nghĩa là “Chiến thuật và vũ khí Đặc biệt,” chỉ các đơn vị đặc nhiệm của lực lượng sức mạnh, nhưng ở đây là viết tắt của “Saving the Witness’s Ass Team,” một lối chơi chữ.
Kết quả là ngoài khối lượng công việc điều tra thông thường với Sellitto và Rhyme, Bell còn có thêm nhiệm vụ thứ hai là chỉ huy nhóm bảo vệ nhân chứng.
Nhưng giờ các vệ sĩ của Grady đã có mặt và cấp trên ở trung tâm thành phố – những cấp trên đang không vui vẻ gì – cũng quyết định rằng phải tăng cường nỗ lực bắt cho được Gã phù thủy. Cần thêm cơ bắp cho nhóm Sellitto-Rhyme, và Bell là một sự lựa chọn hợp lý.
“Vậy đấy chính là Andrew Constable,” Grady nói với Bell, hất đầu về phía cửa sổ mờ ảo mở vào phòng thẩm vấn.
Sachs bước tới cửa sổ và nhìn thấy một tù nhân mảnh khảnh, trông khá đĩnh đạc trong bộ đồ tù áo liền quần màu cam, ngồi bên một chiếc bàn, đầu cúi xuống, gục gặc chậm rãi.
“Hắn có giống như anh hình dung không?” Grady nói tiếp.
“Đừng phỏng đoán,” Bell lè nhè. “Tôi nghĩ hắn là người nhà quê, kiểu niềm tin mù quáng điển hình, anh hiểu ý tôi mà đúng không? Nhưng gã này, hắn khá là lịch thiệp. Charles ạ, sự thật là tôi phải nói rằng hắn không cảm thấy mình có tội.”
“Chắc chắn là không rồi.” Grady nhăn mặt. “Sẽ khó mà kết án được.” Rồi một tiếng cười lớn giễu cợt. “Nhưng đó là lý do họ trả nhiều tiền để thuê tôi.” Lương của Grady thấp hơn của một cộng sự năm đầu ở một công ty luật Phố Wall.
Bell hỏi, “Có tin gì về vụ đột nhập văn phòng của anh không? Báo cáo hiện trường tội phạm sơ bộ đã đến chưa? Tôi cần phải xem.” “Nó đang được xúc tiến. Chúng tôi đảm bảo rằng anh sẽ nhận được một bản.”
Bell nói, “Chúng tôi còn một tình huống khác cần xem xét. Tôi sẽ để người của tôi lại với anh và gia đình. Nhưng nếu có việc chỉ cần gọi tôi thôi.”
“Cảm ơn, thanh tra,” Grady nói. Rồi anh nói thêm, “Con gái tôi gửi lời chào. Chúng ta phải đi đón nó cùng mấy cậu nhóc của anh. Và gặp quý cô bạn anh nữa. Cô ấy sống ở đâu nhỉ?”
“Lucy ở Bắc Carolina.”
“Cô ấy cũng là cảnh sát đúng không?”
“Phải, quyền chánh văn phòng cảnh sát trưởng. Khu đô thị ở Tanner’s Corner.”
Luis Martinez để ý thấy Grady bắt đầu đi về phía cửa và anh ngay lập tức đến bên cạnh tay công tố viên. “Anh có muốn đợi ở đây một lát không, Charles?” Người cảnh vệ rời khu vực an ninh và lấy lại khẩu súng ngắn từ tay bảo vệ đang coi chừng những tủ khóa đằng sau bàn rồi cẩn thận nhìn ra hành lang và cây cầu.
Chính lúc đó một giọng nói mềm mỏng vang lên sau lưng họ.
“Xin chào, thưa cô.”
Sachs nhận ra trong những lời đó một giọng nói trầm bổng đặc biệt, hình thành qua một quãng thời gian lâu dài làm việc cho nhà nước và tương tác với công luận. Cô quay lại và thấy Andrew Constable đứng cạnh một người gác ngục cao to. Tay tù nhân khá cao, tư thế hoàn toàn thẳng tắp. Mái tóc muối tiêu của hắn bồng bềnh và dày. Tay luật sư thấp người, tròn trĩnh đứng cạnh hắn.
Hắn nói tiếp, “Có phải cô thuộc nhóm bảo vệ cho ông Grady đây không?”
“Andrew,” luật sư của hắn cảnh báo.
Tay tù nhân gật đầu. Nhưng cặp lông mày của hắn nhướng lên khi nhìn Sachs.
“Đây không phải vụ của tôi,” cô nói cộc lốc.
“A, không phải sao? Tôi định nói với cô điều tôi đã nói với thanh tra Bell. Tôi thật sự không biết gì về những lời đe dọa ông Grady.” Hắn quay sang Bell, người đang nhìn trừng trừng nghi phạm. Tay cảnh sát người Tarheel41 đôi khi có vẻ rụt rè và kín đáo, nhưng anh không bao giờ như thế khi đối đầu với một nghi phạm. Phản ứng của anh lúc này là một ánh mắt lạnh lùng.
41 Tarheel: Một biệt danh của bang Bắc Carolina.
“Quý vị phải làm việc của mình. Tôi hiểu điều đó. Nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ không làm hại ông Grady đâu. Một trong những điều khiến đất nước này vĩ đại là luật chơi công bằng.” Một tiếng cười lớn. “Tôi sẽ đánh bại ông ấy ở phiên tòa. Điều mà tôi sẽ làm – nhờ anh bạn trẻ sáng láng này đây.” Một cái hất đầu về phía tay luật sư. Rồi ánh mắt tò mò hướng về Bell. “Có một chuyện tôi muốn đề cập, thanh tra. Tôi tự hỏi liệu ông có chút quan tâm nào tới những việc mà mấy người Ái quốc của tôi đang làm ở Canton Falls không.”
“Tôi hả?”
“Ồ, ý tôi không phải là những âm mưu điên khùng tào lao. Ý tôi là những thứ chúng tôi thực sự định làm.”
Tay luật sư của tên tù nhân nói, “Đủ rồi, Andrew. Tốt hơn là hãy giữ im lặng.”
“Chỉ là tán chuyện thôi, Joe.” Gã liếc nhìn Bell. “Thế nào?”
“Ý ngài là thế nào đây, thưa ngài?” Bell hỏi cứng đơ.
Sự bóng gió về phân biệt chủng tộc và gốc gác miền nam của viên thanh tra không hề được chú ý tới. Hắn nói, “Quyền của tiểu bang, người lao động, chính quyền địa phương đối đầu chính quyền liên bang. Anh nên ghé thăm trang web của chúng tôi, thanh tra.” Hắn cười lớn. “Người ta tưởng sẽ thấy chữ thập ngoặc. Nhưng chỉ có Thomas Jefferson42 và George Mason43.” Khi Bell chẳng nói gì, một khoảng im lặng nghẹt thở lấp đầy khoảng không ít ỏi xung quanh họ. Tay tù nhân lắc đầu rồi cười lớn và tỏ ra bối rối. “Chúa ơi, xin thứ lỗi… Đôi khi tôi không kiềm được – tất cả những chuyện rao giảng lố bịch này. Cứ xếp một vài người xung quanh tôi và xem xem chuyện gì xảy ra – tôi ở đây quá lâu đến mức người ta không muốn tiếp rồi.”
Người lính gác nói, “Đi thôi.”
“Được rồi,” tay tù nhân đáp. Một cái gật đầu với Sachs, rồi với Bell. Hắn đi dọc hành lang trong tiếng lanh canh khe khẽ của đôi cùm chân. Luật sư của hắn gật đầu với tay công tố viên – hai kình địch tôn trọng nhau nhưng cũng đề phòng nhau – và rời khu vực an ninh.
Một lát sau, Grady, Bell và Sachs cất bước, Martinez cũng đi cùng họ.
Viên nữ cảnh sát nói, “Hắn không giống một con quái vật. Chính xác thì các cáo buộc là gì?”
42 Thomas Jefferson (1743 - 1826), Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ từ 1801-1809. Ông là tác giả của bản Tuyên ngôn Độc lập, Đạo luật Virginia về tự do tín ngưỡng, và là cha đẻ của trường Đại học Virginia.
43 George Mason (1725 - 1792), chính trị gia lớn người Mỹ thời lập quốc. Ông là tác giả chính của Tuyên ngôn Nhân quyền Virginia, tài liệu cơ sở cho Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ.
Grady nói, “Một người bên ATF44 làm tay trong trong một vụ về vũ khí ở vùng thượng bang đã phát hiện ra âm mưu mà chúng tôi nghĩ là do Constable đứng đằng sau. Một số người của hắn sẽ dụ các cảnh sát bang tới những vùng xa xôi trong hạt bằng các cuộc gọi 911 giả. Nếu trong số đó có người da đen, chúng sẽ bắt cóc, lột trần và hành hình họ. Ồ, có thể sẽ thiến họ nữa.”
44 ATF: tức “Bureau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives,” Cục Rượu, Thuốc lá, Súng và Chất nổ Hoa Kỳ.
Sachs, vốn đã quen đối phó với vô số tội ác kinh khủng trong nhiều năm làm cảnh sát, chớp mắt vì sốc trước tin tức kinh hoàng này. “Anh có nghiêm túc không?”
Grady gật đầu. “Và đó mới chỉ là khởi đầu. Có vẻ như các vụ hành hình đều thuộc về một kế hoạch lớn. Chúng hy vọng rằng nếu chúng sát hại đủ số cảnh sát bang và truyền thông đưa tin về các vụ hành hình bằng cách treo cổ đó lên ti-vi, người da đen sẽ nổi dậy làm loạn. Điều đó sẽ giúp người da trắng trên cả nước có cơ hội trả đũa và quét sạch bọn họ. Chúng hy vọng rằng người Latinh và gốc Á cũng sẽ nhập hội cùng người da đen, và cuộc cách mạng da trắng sẽ quét sạch họ luôn.”
“Ngày nay và trong thời đại này hả?”
“Cô sẽ ngạc nhiên đấy.”
Bell gật đầu với Luis. “Hắn giờ do anh chăm sóc. Hãy để ý.”
“Chắc chắn rồi,” tay thám tử đáp. Grady và người cảnh vệ mảnh khảnh rời sảnh trại giam trong khi Sachs và Bell lấy lại vũ khí của họ ở bàn đăng ký. Khi họ trở lại khu vực tòa án của tòa nhà Tòa Hình sự, đi qua cây cầu Than Thở, Sachs nói với Bell về Gã phù thủy và những nạn nhân của gã.
Bell cau mày khi nghe đến cái chết kinh hoàng của Anthony Calvert. “Động cơ?”
“Không biết.”
“Mô thức?”
“Như trên.”
“Nghi phạm trông thế nào?” Bell hỏi.
“Cũng chẳng có gì mấy với phần đó.”
“Chẳng có gì hết sao?”
“Chúng tôi nghĩ gã là đàn ông da trắng, tầm vóc trung bình.”
“Vậy là chưa có ai nhìn thấy gã hả?”
“Thực ra rất nhiều người đã thấy gã. Trừ việc lần đầu tiên họ thấy, thì gã là một người đàn ông tóc tối màu, có râu ngoài năm mươi. Lần tiếp theo thì là một tay gác cổng hói đầu ngoài sáu mươi. Rồi lần này là một phụ nữ ngoài bảy mươi.”
Bell đợi cô bật cười, cho thấy đó chỉ là một trò đùa. Khi cô vẫn giữ nguyên khuôn mặt nhăn nhó, anh hỏi, “Cô không nói đùa đấy chứ?”
“E là không, Roland.”
“Tôi giỏi,” Bell nói, lắc đầu và gõ vào khẩu súng ngắn tự động bên hông phải anh. “Nhưng tôi cần một mục tiêu.”
Tôi cũng mong anh biết được mục tiêu của mình, Amelia Sachs nghĩ.