B
ằng chứng từ hiện trường thứ hai đã tới và Mel Cooper đang sắp xếp những chiếc túi và lọ thủy tinh trên những chiếc bàn kiểm tra trong phòng đợi của Rhyme.
Sellitto vừa trở lại từ một cuộc họp căng thẳng ở Tổng hành dinh về vụ Gã phù thủy. Phó hội đồng phụ trách cảnh sát và thị trưởng muốn biết chi tiết về tiến triển của một vụ không có mấy chi tiết và chẳng có tiến triển gì.
Rhyme đã được nghe về những ảo thuật gia người Ukraine ở Cirque Fantastique và biết rằng họ không có tiền án. Hai cảnh sát được bố trí ở khu lều cũng đã kiểm tra xung quanh rạp xiếc và báo lại rằng không có đầu mối hay hoạt động nào đáng ngờ.
Một lát sau Sachs bước vào phòng, theo sau là một Roland Bell lặng lẽ. Khi Sellitto được lệnh bổ sung thêm một thanh tra cảnh sát vào nhóm, Rhyme ngay lập tức đề xuất Bell; anh thích ý tưởng về một cảnh sát có tài xoay xở, một tay súng giỏi, để hỗ trợ Sachs ngoài hiện trường.
Việc chào hỏi và giới thiệu nhanh chóng diễn ra. Bell không được báo trước về sự có mặt của Kara và cô trả lời ánh mắt dò hỏi của anh bằng câu: “Tôi giống anh này.” Một cái hất đầu về phía Rhyme. “Đại khái là tư vấn.”
Bell nói, “Rất vui được gặp cô.” Và chớp mắt khi thấy cô lơ đãng đảo đồng thời ba đồng xu qua lại liên tục trên nắm tay của cô.
Lúc Sachs bắt tay vào xem xét bằng chứng với Cooper, Rhyme hỏi, “Nạn nhân là ai?”
“Tên là Anthony Calvert. Ba mươi hai tuổi. Chưa kết hôn. Trong trường hợp này là không có bạn đời.”
“Có liên hệ gì với cô sinh viên ở trường nhạc không?”
“Không có vẻ gì là thế,” Sellitto đáp. “Bedding và Saul đã kiểm tra rồi.”
“Nghề nghiệp anh ta là gì?” Cooper hỏi.
“Người trang điểm ở Broadway.”
Và người thứ nhất là một nhạc công, sinh viên âm nhạc, Rhyme nhớ lại. Một phụ nữ, một nam giới đồng tính. Sống và làm việc ở những khu khác nhau. Điều gì có thể liên kết hai vụ giết người này? Anh hỏi, “Có liên quan gì tới tình dục không?”
Nhưng vì tội ác đầu tiên không liên quan tới tình dục, Rhyme không ngạc nhiên khi Sachs nói, “Không. Trừ khi gã mang những ký ức cùng lên giường với gã… Và gã thỏa mãn nhờ thế.” Cô bước lên chỗ tấm bảng trắng và dán những bức ảnh kỹ thuật số về thi thể đó.
Rhyme lăn xe lại gần hơn và nghiên cứu những hình ảnh kinh khủng.
“Bệnh hoạn bỏ mẹ.” Sellitto đưa ra một lời nhận xét đờ đẫn.
“Và hung khí là gì?” Roland Bell hỏi.
“Nhìn như là một cái cưa tay,” Cooper nói, nhìn thật gần vào những vết thương.
Bell, người đã thấy kha khá những cảnh tượng kinh hoàng khi làm cảnh sát cả ở Bắc Carolina và New York, lắc đầu. “Chà, một vụ khó nhằn đây.”
Rhyme tiếp tục nghiên cứu những bức hình. Anh bỗng thấy một âm thanh lạ lùng, một tiếng huýt gió bất thường ở gần đó. Anh quay sang và thấy Kara đứng đằng sau mình. Âm thanh đó là hơi thở hoảng hốt của cô. Cô đang nhìn vào những bức hình cơ thể của Calvert. Cô lùa tay qua mái tóc ngắn của mình khi nhìn chằm chằm không rời mắt vào những bức ảnh, mắt mở to ngấn lệ vì sốc. Hàm cô rung lên. Cô quay mặt đi khỏi tấm bảng.
“Cô có…?” Sachs hỏi.
Kara giơ một tay lên, nhắm mắt lại, thở dốc.
Lúc nhìn thấy sự đau đớn trên gương mặt cô, khi đó Rhyme biết, rằng điều này quá kinh khủng. Cô đã chạm tới giới hạn. Cuộc đời anh – công việc ở hiện trường vụ án – đưa đến kiểu kinh hoàng dạng này; nhưng thế giới của cô thì không. Những rủi ro và nguy cơ trong nghề nghiệp của cô mang tính ảo giác và sẽ là quá đáng nếu mong đợi người bình thường tự nguyện đối mặt với sự ghê rợn này. Điều này thật đáng xấu hổ vì họ vô cùng cần sự hỗ trợ của cô. Nhưng nhìn thấy sự kinh hoàng trên gương mặt cô, anh biết họ không thể để cô nhìn thấy thêm những thứ kinh khủng như thế này nữa. Anh tự hỏi liệu cô có thấy phát bệnh không.
Sachs định bước về phía cô nhưng dừng lại khi Rhyme lắc đầu – thông điệp của anh là: anh biết họ đang để mất cô gái và họ phải để cô đi.
Trừ việc anh đã sai. Kara hít một hơi thật sâu – như một người nhảy dù sắp sửa nhảy khỏi máy bay – và quay lại với những bức hình, một vẻ cương quyết ẩn trong ánh mắt cô. Cô lấy lại tinh thần để đối mặt với những tấm ảnh lần nữa.
Cô nghiên cứu kỹ chúng và cuối cùng gật đầu. “P. T. Selbit,” cô nói, quệt đôi mắt xanh.
“Là một người à?” Sachs hỏi.
Kara gật đầu. “Ông Balzac từng biểu diễn vài tiết mục của người này. Đó là một ảo thuật gia sống cách đây một trăm năm. Ông ấy đã diễn màn này. Tên của nó là Cắt một phụ nữ làm đôi. Vụ này tương tự như thế, nạn nhân bị trói lại, tư thế đại bàng sải cánh. Chiếc cưa. Sự khác biệt duy nhất là gã chọn một người đàn ông cho màn trình diễn.” Cô chớp mắt vì từ ngữ nhã nhặn đấy. “Ý tôi là, tên sát nhân.”
Một lần nữa Rhyme hỏi, “Có phải chỉ một số ít người biết về tiết mục này?”
“Không. Đây là một trò nổi tiếng, thậm chí còn nổi tiếng hơn trò Người biến mất. Bất kỳ ai dù chỉ với chút kiến thức ít ỏi nhất về ảo thuật cũng sẽ biết về nó.”
Anh đã đoán trước được câu trả lời gây nản lòng đó nhưng nói, “Đằng nào cũng đưa nó vào hồ sơ đi, Thom.” Rồi với Sachs: “Được rồi, cho chúng tôi biết chuyện gì xảy ra ở nhà Calvert đi.”
“Có vẻ nạn nhân đi qua lối sau của tòa nhà để tới chỗ làm – như anh ta vẫn luôn làm thế, theo lời kể của hàng xóm. Anh ta đi ngang qua con hẻm và nhìn thấy thứ này.” Cô chỉ vào con mèo đồ chơi màu đen trong một túi nhựa. “Một con mèo đồ chơi.”
Kara xem qua nó. “Nó là đồ tự động. Nhìn như một con robot. Chúng ta sẽ gọi nó là một feke.”
“Một gì cơ…?”
“F-E-K-E. Một đạo cụ mà khán giả phải nghĩ là đồ thật. Giống như một con dao giả với lưỡi tự biến mất hay một cốc cà phê với ngăn bí mật trong đó.”
Cô bật một công tắc và bỗng nhiên con mèo bắt đầu cử động, tạo ra một tiếng “meo” nghe như thật. “Nạn nhân hẳn đã thấy con mèo và đi về phía nó, có lẽ nghĩ rằng nó bị thương,” Sachs nói tiếp. “Đó là cách Gã phù thủy dụ anh ấy vào trong ngõ cụt.”
“Nguồn gốc?” Rhyme hỏi Cooper.
“Sing-Lu Manufacturing ở Hong Kong. Tôi đã kiểm tra trang web. Món đồ chơi này có bán ở hàng trăm cửa hàng trên cả nước.” Rhyme thở dài. “Quá phổ biến để dò ra nguồn gốc” có vẻ là chủ đề của vụ này.
Sachs nói tiếp, “Vậy là Calvert bước lại chỗ con mèo, cúi xuống để kiểm tra nó. Hung thủ nấp ở đâu đó và…”
“Tấm gương,” Rhyme xen ngang. Anh liếc Kara, cô gật đầu. “Ảo thuật gia sử dụng gương rất nhiều. Ta đặt chúng đúng hướng và có thể làm biến mất hoàn toàn bất kỳ thứ gì hay bất kỳ ai ở đằng sau nó.”
Rhyme nhớ lại tên cửa hàng của cô là Smoke & Mirrors45.
45 Nghĩa là “Khói & Những tấm gương.”
“Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra và nạn nhân chạy trốn,” Sellitto nói tiếp. “Giờ là phần điên khùng này. Chúng tôi đã kiểm tra băng ghi âm của 911. Calvert đã trở vào trong căn hộ của anh ta rồi gọi cảnh sát. Anh ta nói kẻ tấn công đang ở bên ngoài tòa nhà và cánh cửa đã khóa. Nhưng rồi đường dây bị cắt. Bằng cách nào đó Gã phù thủy đã lọt vào bên trong.”
“Có lẽ là cửa sổ… Sachs, em có kiểm tra lối thoát hiểm không?”
“Không. Cửa sổ ở lối thoát hiểm khóa trong.”
“Vẫn nên kiểm tra chỗ đó,” Rhyme nói ngắn gọn.
“Gã không vào bằng lối đó. Không đủ thời gian.”
“Vậy thì gã hẳn phải có chìa khóa của nạn nhân,” nhà tội phạm học nói.
“Không có dấu tay nào trên đó cả,” Sachs phản bác. “Chỉ có của nạn nhân.”
“Gã hẳn phải có,” Rhyme khăng khăng.
“Không,” Kara nói. “Gã đã phá khóa.”
“Không thể nào,” Rhyme nói. “Hoặc có thể gã đã lọt vào trong từ trước đó và có một chiếc khuôn để làm chìa khóa. Sachs, em nên trở lại và kiểm tra xem gã có…”
“Gã đã phá khóa,” người phụ nữ trẻ nói cương quyết. “Tôi đảm bảo điều đó.”
Rhyme lắc đầu. “Trong vòng sáu mươi giây gã phá được hai cánh cửa sao? Điều đó là bất khả thi.”
Kara thở dài. “Tôi xin lỗi, nhưng phải, trong sáu mươi giây gã đã lọt qua hai cánh cửa. Và có thể là gã còn không mất tới ngần ấy thời gian.”
“Vậy hãy cứ cho rằng gã không làm được thế,” Rhyme bác bỏ. “Giờ thì…”
Người phụ nữ trẻ quát lên. “Hãy cho rằng gã làm được. Nghe đây, chúng ta không thể bỏ qua chuyện này. Nó nói với chúng ta một điều khác về gã – một điều quan trọng: rằng những cánh cửa khóa cũng không làm gã chậm lại.”
Rhyme liếc nhìn Sellitto, người vừa cho biết, “Tôi phải nói rằng với kinh nghiệm làm các vụ trộm, tôi đã bắt hàng tá thủ phạm nhưng không kẻ nào phá khóa nhanh được như thế.”
“Ông Balzac bắt tôi tập phá khóa mười tiếng một tuần,” Kara nói. “Tôi không có bộ đồ nghề ở đây, nhưng nếu tôi có, tôi có thể mở cửa trước nhà anh trong ba mươi giây, khóa chốt chết trong sáu mươi giây. Nhưng tôi không biết cách mở một loạt với một ổ khóa. Nếu Gã phù thủy biết, gã có thể rút thời gian còn một nửa. Tôi hiểu rằng các vị thích những thứ bằng chứng này. Nhưng quý vị đang lãng phí thời gian yêu cầu Amelia tìm kiếm một điều không hề có.”
“Cô chắc chứ?” Sellitto hỏi.
“Nếu anh không tin tôi, thì tại sao anh lại muốn tôi giúp?”
Sachs liếc nhìn Rhyme. Anh miễn cưỡng chấp nhận đánh giá của Kara với một cái gật đầu lạnh lùng (dù trong thâm tâm anh hài lòng vì cô gái này đã cho thấy quyết tâm; điều đó bù đắp rất nhiều cho Cái nhìn và Nụ cười lúc trước). Anh nói với Thom, “Được rồi, hãy ghi lại trên bảng là hung thủ cũng là một bậc thầy về mở khóa.”
Sachs nói tiếp, “Không có dấu vết gì về đồ vật mà Gã phù thủy đã dùng để đánh ngất nạn nhân. Vết thương do một vật cùn gây ra. Có vẻ là một chiếc ống. Nhưng gã đã mang thứ đó đi.”
Báo cáo về vân tay đã tới. Tám mươi chín vân tay khác nhau từ những khu vực hiện trường gần nạn nhân và những nơi Gã phù thủy nhiều khả năng chạm tới nhất. Nhưng Rhyme ngay lập tức để ý thấy có một số vân tay nhìn khá lạ và khi kiểm tra kỹ hơn, anh phát hiện ra rằng chúng là những bọc ngón tay. Anh chẳng thiết tha quét những cái khác nữa.
Quay sang đầu mối Sachs thu thập được ở hiện trường, họ tìm thấy một lượng nhỏ cùng loại dầu khoáng mà họ đã thu được ở trường Âm nhạc buổi sáng hôm đó và có thêm cao su, đồ trang điểm và alginate.
Thanh tra Kuan ở khu vực Chín gọi tới và báo rằng việc tìm kiếm các thùng rác quanh tòa nhà của Calvert không cho thấy manh mối gì về quần áo thay nhanh hay hung khí của hung thủ. Rhyme cảm ơn anh và nói anh tiếp tục tìm kiếm. Người đàn ông nói anh ta sẽ làm thế, nhưng với sự háo hức giả tạo tới mức Rhyme biết cuộc tìm kiếm đã kết thúc rồi.
Nhà tội phạm học hỏi Sachs, “Em nói là gã đã đập vỡ đồng hồ của Calvert đúng không?”
“Phải. Chính xác là vào giữa trưa. Sau đấy vài giây.”
“Và nạn nhân kia là vào lúc tám giờ. Có vẻ gã có một lịch trình. Có thể còn một người nữa đang xếp hàng vào lúc bốn giờ chiều nay.”
Còn chưa đầy ba tiếng đồng hồ nữa kể từ bây giờ.
Cooper nói tiếp, “Không tìm thấy gì ở tấm gương. Không nhà sản xuất – đấy hẳn là một tấm gương có khung và gã đã tháo nó ra. Vài vân tay là thật, nhưng chúng bị che bởi vết nhòe từ đồ bọc ngón tay nên tôi đoán chúng là của người bán hàng nơi gã mua nó hay của người sản xuất. Tôi vẫn sẽ gửi nó cho AFIS.”
“Có một đôi giày,” Sachs nói, nhấc một cái túi khỏi hộp bìa các-tông.
“Của gã hả?”
“Có thể. Cùng nhãn hiệu Ecco mà chúng ta tìm thấy ở trường Âm nhạc – cùng cỡ luôn.”
“Gã bỏ chúng lại. Nhưng tại sao?” Sellitto tự hỏi.
Rhyme đề xuất, “Có lẽ nghĩ rằng chúng ta đã biết gã mang giày Ecco ở hiện trường vụ thứ nhất và sợ các cảnh sát hiện trường để ý thấy chúng trên người một bà già cao tuổi.”
Kiểm tra đôi giày, Mel Cooper nói, “Chúng ta có một số dấu vết tốt ở vết hằn phía trước gót giày và giữa mũi giày với phần giữa.” Anh mở chiếc túi ra và cạo lấy thứ đấy. “Rất nhiều đấy,” tay kỹ thuật viên lơ đễnh nói và nghiêng người trên đám đất.
Khó có thể nói chỗ đất đó là rất nhiều, nhưng cho mục đích pháp y thì số đất nhỏ bé ấy tương đương cả một ngọn núi và có thể tiết lộ rất nhiều thông tin. “Xem kỹ nó đi, Mel,” Rhyme ra lệnh. “Hãy xem chúng ta có gì.”
Thiết bị chủ lực trong một phòng thí nghiệm pháp y là kính hiển vi và mặc dù đã có rất nhiều điều chỉnh theo thời gian, thiết bị này vẫn không khác là bao về lý thuyết so với chiếc kính hiển vi mạ đồng mà Antonie van Leeuwenhoek46 phát minh ở Hà Lan những năm 1600.
46 Antonie van Leeuwenhoek (1632 - 1723), doanh nhân và nhà khoa học người Hà Lan. Ông được coi là cha đẻ của ngành vi sinh vật học.
Ngoài một kính hiển vi điện tử cổ lỗ sĩ mà anh hiếm khi cần tới, Rhyme còn có hai kính hiển vi khác đặt trong phòng thí nghiệm tại nhà. Một cái là kính kép hiệu Leitz Orthoplan, mẫu cũ hơn, nhưng là cái anh dùng nhiều nhất.
Cái thứ hai – mà Cooper sắp sửa dùng – là một kính hiển vi soi nổi, là cái tay kỹ thuật viên đã sử dụng để xem các sợi ở hiện trường thứ nhất. Các thiết bị này có độ phóng đại tương đối thấp và thường được sử dụng để xem các vật thể ba chiều như côn trùng hay chất liệu từ cây cỏ.
Hình ảnh hiện lên trên màn hình máy tính cho Rhyme và những người khác cùng thấy.
Các sinh viên tội phạm học năm nhất luôn thích chọn kính hiển vi mạnh nhất để xem xét bằng chứng. Nhưng trên thực tế, độ phóng đại tốt nhất cho các mục đích liên quan tới pháp y thường khá thấp. Cooper bắt đầu ở độ phóng đại 4x rồi tiến lên thành 30x.
“A, tập trung nào, tập trung nào,” Rhyme gọi.
Cooper chỉnh lại tỉ lệ vật kính để hình ảnh chất liệu đó rõ ràng đến mức hoàn hảo.
“Rồi, hãy xem qua nào,” Rhyme nói.
Tay kỹ thuật viên di chuyển phần đế để đồ vật bằng những cú xoay không thể nhìn thấy trong bảng kiểm soát nối với đế. Lúc anh thực hiện, hàng trăm hình thù lướt qua màn hình, một số màu đen, một số màu đỏ và xanh lá, một số trong suốt. Cảm giác thường trực của Rhyme khi nhìn qua thị kính một kính hiển vi là anh giống một kẻ rình mò, tìm hiểu về một thế giới không hề hay biết là mình đang bị soi mói.
Và thế giới ấy có thể tiết lộ rất nhiều điều.
“Là lông,” Rhyme nói, xem xét một sợi dài. “Động vật.” Anh có thể nói thế bởi số lượng vẩy trên sợi lông.
“Là loài nào?” Sachs hỏi.
“Tôi cho là chó,” Cooper đề xuất. Rhyme nhất trí. Tay kỹ thuật viên lên mạng và một lát sau chạy các hình ảnh qua một bộ dữ liệu lông động vật của NYPD. “Có hai giống, không, ba giống. Nhìn như độ dài trung bình lông của một trong các giống này. Chó chăn cừu Đức hoặc Malinois. Và lông từ hai giống lông dài hơn. Chó chăn cừu Anh, chó bri.”
Cooper bấm màn hình dừng lại. Họ đang nhìn vào một đám lớn những hạt và que và ống màu nâu.
“Thứ dài đó là gì?” Sellitto hỏi.
“Sợi à?” Sachs đề xuất.
Rhyme liếc nó. “Anh sẽ nói đó là cỏ khô, hoặc một loại thực vật nào đấy. Nhưng anh không nhận ra chất liệu kia. Đưa nó vào máy đi, Mel.”
Rất nhanh chóng, máy sắc ký khí/đo khối phổ đã cho ra dữ liệu. Một biểu đồ hiện lên trên màn hình, cho ra kết quả từ phân tích: sắc tố mật, sắc tố stercobilin, urobilin, indole, nitrates, skatole, mercaptan, hydrogen sulfide.
“A.”
“A hả?” Sellitto hỏi. “A cái gì?”
“Lệnh, kính hiển vi một,” Rhyme ra lệnh. Hình ảnh xuất hiện trở lại trên màn hình máy tính và anh đáp lời viên thanh tra, “Thật rõ ràng – vi khuẩn phân hủy xác chết, tiêu hóa một phần sợi và cỏ. Đây là cứt. Ôi, xin lỗi vì tôi đã thiếu tế nhị,” anh nói mỉa mai. “Đây là phân chó. Thủ phạm của chúng ta đã vô tình giẫm vào chỗ gã không nên giẫm vào.”
Điều này rất có ích: lông và phân là bằng chứng thuộc loại tốt và nếu họ tìm thấy dấu vết tương tự nơi nghi can, ở một địa điểm cụ thể hay trong một chiếc xe, sẽ có thể giả định khá chắc chắn rằng gã là, hoặc có tiếp xúc với Gã phù thủy.
Báo cáo vân tay trên những mảnh gương vỡ trong ngõ đã tới từ hệ thống AFIS. Không khớp với ai cả, và cũng không ai bất ngờ gì. “Còn gì nữa ở hiện trường?” Rhyme hỏi.
“Hết,” Sachs nói. “Chỉ có thế thôi.”
Rhyme đang nhìn qua biểu đồ bằng chứng thì chuông cửa reo và Thom ra mở cửa. Một lát sau anh trở lại, đi cùng là một cảnh sát mặc đồng phục. Anh ta đứng rụt rè ở cửa vào, như nhiều cảnh sát trẻ vẫn làm khi họ bước vào hang ổ của Lincoln Rhyme trong truyền thuyết. “Tôi muốn tìm thanh tra Bell. Tôi được báo là ông ấy ở đây.”
“Là tôi đây,” Bell nói.
“Báo cáo hiện trường tội phạm. Từ vụ đột nhập ở văn phòng của Charles Grady.”
“Cảm ơn, con trai.” Viên thanh tra nhận lấy phong bì và gật đầu với chàng trai trẻ, người sau một cái liếc nhanh đầy sợ hãi về phía Lincoln Rhyme đã quay lưng và rời đi.
Đọc xong nội dung, Bell nhún vai. “Không phải chuyên môn của tôi. Này, Lincoln, anh có thể xem qua cái này được không?”
“Chắc chắn rồi, Roland,” Rhyme nói. “Gỡ kim bấm ra và để nó lên cái khung lật trang ở kia. Thom sẽ làm chuyện đó. Câu chuyện là gì? Đây là vụ Andrew Constable đúng không?”
“Đúng.” Anh kể với Rhyme về vụ đột nhập vào văn phòng của Charles Grady. Khi người trợ lý gắn báo cáo lên xong, Rhyme đẩy xe lại chỗ đọc. Anh đọc trang đầu tiên cẩn thận. Rồi nói, “Lệnh, lật trang.” Anh tiếp tục đọc.
Vụ đột nhập được thực hiện theo cách đơn giản là đập vỡ một góc cửa kính ở cửa dẫn vào hành lang và mở then từ bên trong (cánh cửa giữa phòng thư ký bên ngoài và phòng công tố viên bên trong được khóa hai lần và làm bằng gỗ dày; nó đã đánh bại kẻ đột nhập).
Rhyme lưu ý thấy những người lục soát ở hiện trường đã tìm thấy một thứ thú vị – trên và xung quanh bàn của thư ký có một lượng sợi. Báo cáo chỉ có thể chỉ ra được duy nhất màu sắc của chúng – hầu hết là màu trắng, một số màu đen và một sợi duy nhất màu đỏ. Họ cũng tìm thấy hai mảnh lá vàng nhỏ xíu.
Nhóm hiện trường biết được rằng vụ đột nhập diễn ra sau khi việc lau dọn văn phòng kết thúc, nên những sợi này có lẽ không phải do thư ký của Grady hay bất kỳ ai có thẩm quyền vào văn phòng của cô trong ngày hôm đó. Khả năng lớn nhất chúng là của kẻ đột nhập.
Rhyme đọc tới trang cuối cùng. “Chỉ có thế này thôi sao?” Anh hỏi.
“Tôi cho là thế,” Bell đáp.
Một tiếng cằn nhằn từ nhà tội phạm học. “Lệnh, gọi điện thoại. Gọi cho Peretti phẩy Vincent.”
Rhyme đã thuê Peretti làm cảnh sát hiện trường vài năm trước và anh tỏ ra là một tài năng trong lĩnh vực pháp y. Tuy nhiên, điều anh thực sự xuất sắc là thứ nghệ thuật bí truyền của chính trị văn phòng cảnh sát. Giờ anh ta là người đứng đầu Phòng Điều tra và Nguồn lực (IRD) của NYPD, đơn vị quản lý hiện trường tội ác.
Rhyme cuối cùng cũng kết nối được, tiếng người đàn ông vang lên, “Lincoln, khỏe không?”
“Khỏe, Vince. Tôi…”
“Anh đang làm vụ Gã phù thủy, đúng không? Thế nào rồi?” “Đang tiến hành. Nghe này. Tôi gọi về một vụ khác. Tôi đang ở đây với Roland Bell. Tôi vừa nhận được báo cáo về vụ đột nhập văn phòng của Grady…”
“À, vụ Andrew Constable. Những mối đe dọa nhắm vào Grady. Phải rồi. Tôi có thể giúp gì đây?”
“Ngay lúc này tôi đang xem bản báo cáo. Nhưng đây mới chỉ là sơ bộ. Tôi cần thêm thông tin. Đội hiện trường tìm thấy một số sợi. Tôi cần biết chính xác kết cấu của từng sợi, độ dài, đường kính, màu nhiệt độ, màu nhuộm được sử dụng và mức độ mòn.”
“Đợi đã. Tôi đi lấy cây bút đã.” Một lát sau: “Nói tiếp đi.”
“Tôi cũng cần hình tĩnh điện của mọi dấu chân và ảnh chụp mô thức của chúng trên sàn. Và tôi muốn biết tất cả mọi thứ có trên bàn của thư ký, tủ và kệ sách. Mọi thứ trên bất kỳ bề mặt nào, trong ngăn kéo, trên tường. Và vị trí chính xác của nó.”
“Mọi thứ hung thủ đụng vào hả? Được rồi, tôi hiểu. Chúng tôi sẽ…”
“Không, Vince. Mọi thứ trong văn phòng đó. Mọi thứ. Tập giấy, ảnh con cái của cô thư ký. Vật trang trí gắn trên ngăn tủ. Tôi không quan tâm là hắn có đụng vào không.”
Giờ đã phát cáu, Peretti nói, “Tôi đảm bảo sẽ có người lo chuyện đó cho anh.”
Anh không hiểu tại sao Peretti không tự mình thực hiện, điều mà Rhyme hẳn sẽ làm, ngay cả khi anh là trưởng phòng IRD, để đảm bảo là công việc đó sẽ được triển khai ngay lập tức.
Nhưng trong vai trò người tư vấn hiện giờ, anh chỉ có ảnh hưởng hạn chế. “Càng sớm càng tốt… Cảm ơn, Vince.”
“Không cần cảm ơn đâu,” người đàn ông nói lạnh lùng.
Họ gác máy. Rhyme nói với Bell, “Tôi không thể làm gì hơn nữa, Roland, tới khi chúng ta có được những thông tin đó.”
Anh liếc qua báo cáo vụ đột nhập. Những thứ hình sợi và đám bán quân sự ở trong rừng rú… Thật bí ẩn. Nhưng lúc này những bí ẩn đó sẽ phải là của người khác. Rhyme có những bí ẩn của riêng anh cần phải khám phá và không còn nhiều thời gian để làm điều đó: những dấu hiệu từ biểu đồ bằng chứng về mấy cái đồng hồ bị đập vỡ nhắc anh rằng họ còn chưa tới ba tiếng đồng hồ để ngăn Gã phù thủy trước khi gã tìm ra nạn nhân tiếp theo.
GÃ PHÙ THỦY
Hiện trường tội ác trường Âm nhạc
• Mô tả nghi phạm: Tóc nâu, râu giả, không có gì nổi bật, tầm vóc trung bình, chiều cao trung bình, tuổi: ngoài năm mươi. Ngón đeo nhẫn và ngón út dính lại với nhau. Thay đồ nhanh để giống một người gác cổng lớn tuổi, hói đầu.
• Không có động cơ rõ ràng.
• Nạn nhân: Svetlana Rasnikov.
• Sinh viên âm nhạc toàn thời gian.
• Kiểm tra gia đình, bạn bè, các sinh viên, đồng nghiệp để có thêm đầu mối khả dĩ.
• Không có bạn trai, không có kẻ thù. Trình diễn ở tiệc sinh nhật cho trẻ em.
• Bảng mạch điện tử có gắn loa.
• Đã gửi cho phòng thí nghiệm của FBI, thành phố New York.
• Máy ghi âm kỹ thuật số, có thể chứa giọng nói của nghi phạm. Mọi dữ liệu đã bị hủy.
• Đoạn ghi âm là một “mánh.” Tự làm.
• Sử dụng còng tay sắt kiểu cũ để còng nạn nhân.
• Còng tay là loại Darby. Scotland Yard. Kiểm tra với Bảo tàng Houdini ở New Orleans để có thêm đầu mối.
• Phá hủy đồng hồ của nạn nhân vào đúng 8 giờ sáng.
• Dây vải giữ ghế. Loại thường. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Dây dẫn cháy. Loại phổ biến. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Pháo tạo hiệu ứng tiếng súng. Đã bị hủy. Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Cảnh sát hiện trường cho biết có đèn nháy trong không trung. Không tìm thấy vật liệu liên quan.
• Là vải chớp sáng hoặc giấy chớp sáng.
• Quá nhiều nguồn cung cấp.
• Giày của nghi phạm: hiệu Ecco cỡ 10.
• Sợi tơ, nhuộm màu xám, đã xử lý để trở nên mờ xỉn.
• Từ bộ đồ người gác cổng thay nhanh.
• Đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.
• Gỗ hồ đào đỏ và địa y Parmelia, đều được tìm thấy chủ yếu ở công viên Trung Tâm.
• Bụi có dính dầu khoáng khác thường. Đã gửi cho FBI để phân tích.
• Mảnh lụa đen, khoảng 1,8 x 1,2 mét. Được dùng làm vật ngụy trang. Không thể truy nguồn gốc.
• Các ảo thuật gia thường xuyên sử dụng.
• Đeo bọc ngón tay của ảo thuật gia để giấu vân tay.
• Dấu vết cao su, dầu thầu dầu, mỹ phẩm.
• Đồ hóa trang cho sân khấu.
• Dấu vết alginate.
• Sử dụng trong các “thiết bị” tạo khuôn cao su.
• Vũ khí giết người: dây thừng lụa trắng với lõi là lụa đen.
• Sợi thừng là một trò ảo thuật. Màu sắc thay đổi. Không truy được nguồn gốc.
• Nút thắt khác thường.
• Đã gửi cho FBI và Bảo tàng Hàng hải – không có thông tin gì.
• Các nút thắt giống như trong những màn trình diễn của Houdini, gần như không thể cởi ra.
• Dùng mực vô hình trong sổ đăng ký.
Hiện trường tội ác ở East Village
• Nạn nhân thứ hai: Tony Calvert.
• Nghệ sĩ trang điểm, đoàn kịch.
• Không có kẻ thù.
• Có vẻ không có liên hệ gì với nạn nhân thứ nhất.
• Không có động cơ rõ ràng.
• Nguyên nhân tử vong:
• Vết thương do vật cùn đập vào đầu, sau đó cơ thể bị cắt ra khi đã chết bằng cưa tay.
• Hung thủ trốn thoát bằng cách đóng giả làm một phụ nữ ngoài bảy mươi. Kiểm tra khu vực lân cận xem có đồ hóa trang bị bỏ đi và các bằng chứng khác không.
• Không tìm thấy gì.
• Đồng hồ bị đập chính xác lúc 12 giờ.
• Có thể là mô thức không? Nạn nhân tiếp theo có thể bị hại vào 4 giờ chiều.
• Hung thủ trốn đằng sau tấm gương. Không thể truy nguồn gốc. Vân tay đã được gửi cho FBI.
• Không có vân tay nào khớp.
• Sử dụng mèo đồ chơi (“feke”) để dụ nạn nhân vào con hẻm. Món đồ chơi không thể truy nguồn gốc.
• Tìm thấy thêm dầu khoáng, giống ở hiện trường thứ nhất. Đang đợi báo cáo của FBI.
• Tìm thấy thêm cao su và đồ trang điểm từ những miếng bịt ngón tay.
• Tìm thấy thêm alginate.
• Để lại giày Ecco.
• Tìm thấy lông chó trên giày, từ ba giống chó khác nhau. Cả phân chó nữa.
Hồ sơ của ảo thuật gia
• Nghi phạm sẽ dùng việc đánh lạc hướng để đối phó các nạn nhân và che mắt cảnh sát.
• Đánh lạc hướng về vật lý (để gây phân tâm).
• Đánh lạc hướng về tâm lý (để loại trừ sự nghi ngờ).
• Nghi phạm trốn thoát ở trường Âm nhạc bằng cách thức giống với tiết mục ảo thuật Người biến mất. Quá phổ thông để truy nguồn gốc.
• Nghi phạm về cơ bản là một ảo thuật gia.
• Có tài trong thể loại nhanh tay lẹ mắt.
• Cũng biết ảo thuật biến y (thay đồ nhanh). Sẽ sử dụng quần áo tách ra được, ni-lông và lụa, mũ hóa trang hói đầu, bọc ngón tay và các thiết bị cao su khác. Có thể ở bất kỳ độ tuổi, giới tính hay chủng tộc nào.
• Cái chết của Calvert mô phỏng màn trình diễn Cắt một phụ nữ làm đôi của Selbit.
• Giỏi mở khóa (có thể là mở khóa “hàng loạt”).