Dễ bị lo âu và trầm cảm
Là những người nhạy cảm cao, chúng ta dễ bị lo lắng hay trầm cảm. Nhiều người nhạy cảm cao phải vật lộn với những nỗi lo âu. Khi chúng ta sở hữu tâm hồn nhạy cảm, chúng ta thường được trang bị trí tưởng tượng sống động và khả năng hình dung sáng tạo. Chúng ta giỏi hình dung ra các khả năng nhưng cũng dễ hình dung ra những hướng đi sai lầm. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta giỏi dự đoán và chuẩn bị cho những khó khăn, tránh được những tai nạn và sai lầm. Nhưng nó cũng khiến ta dễ chìm trong lo lắng.
Sợ hãi là một cảm xúc tự nhiên
Bản thân nỗi sợ hãi là điều hoàn toàn tự nhiên. Khi chúng ta đưa trẻ nhỏ ra ngoài xã hội, tôi nghĩ rằng hầu hết chúng ta đều hy vọng rằng chúng biết sợ hãi đủ để tránh xa những con phố nguy hiểm ở những thành phố xa lạ vào ban đêm. Những trẻ vị thành niên có tính nhạy cảm cao dễ an toàn khi ra ngoài xã hội. Chúng sẽ luôn luôn cẩn trọng. Chúng tránh xa ma túy, chúng luôn tuân thủ pháp luật và chúng lái xe giỏi hơn bất kì ai khác - nếu chúng có gan thi lấy bằng lái xe.
Nỗi sợ hãi tồn tại trong một khoảng rộng - từ cảm giác khó chịu với ánh sáng đến những cơn hoảng loạn đáng sợ luôn thường trực. Một số khách hàng của tôi bắt đầu buổi tư vấn bằng việc khẳng định rằng họ không cảm thấy có vấn đề với sự lo âu. Nhưng khi tôi bắt đầu trao đổi với họ nhiều hơn một chút về những đặc điểm của nó, thì cũng là lúc họ nhận ra rằng một số triệu chứng của họ thực sự là sợ hãi và lo lắng ở nhiều cấp độ khác nhau. Dưới đây là minh họa về các mức độ lo lắng khác nhau.
Mức độ lo âu
Những người khẳng định họ không bao giờ cảm thấy sợ hãi có lẽ đã có những nhận thức sai lệch về cách thức nỗi sợ hãi hoạt động. Cuộc sống luôn thường trực những hiểm nguy. Chúng ta sẽ chết vì nó và ta không bao giờ biết được khi nào điều này sẽ xảy ra. Chúng ta không biết ngày mai sẽ mang lại điều gì, và những lựa chọn chúng ta đưa ra hôm nay có thể dẫn đến hậu quả mà chúng ta chỉ nhận ra vào nhiều năm sau đó. Việc chúng ta không đảm bảo chắc chắn được những gì sẽ xảy ra trong cuộc sống là một điều tất yếu của cuộc đời.
Nhưng nếu nỗi sợ hãi và lo lắng đang cản trở cuộc sống hàng ngày của bạn, bạn sẽ cần đến sự hỗ trợ và tư vấn. Liệu pháp nhận thức có thể giúp bạn giảm bớt nỗi sợ hãi tồi tệ nhất và dạy bạn các biện pháp để kiểm soát sự lo lắng của mình. Các kỹ năng tương tự có thể hữu ích khi đối mặt với chứng trầm cảm.
Tôi cũng phải nói rằng hiếm có liệu pháp nhận thức nào giải quyết được toàn bộ vấn đề. Nhưng nếu các liệu pháp có thể giúp bạn giải tỏa nỗi sợ hãi và cảm giác bất hạnh, thì điều này là vô cùng giá trị. Nó sẽ giúp bạn tìm thấy nhiều năng lượng hơn để giải quyết vấn đề của mình theo những cách khác nhau.
Kiệt sức và trầm cảm
Trầm cảm được phân định dựa theo những suy nghĩ tiêu cực về bản thân và về triển vọng tương lai của một người. Những suy nghĩ tiêu cực khiến bạn mệt mỏi. Và mệt mỏi sẽ khiến bạn có những suy nghĩ tiêu cực. Bạn bị cuốn vào một cái vòng luẩn quẩn. Có hai cách để phá vỡ vòng tròn này.
Bạn có thể làm những việc giúp mình đỡ mệt mỏi hơn. Và đây là những gì những người bị trầm cảm cố gắng làm khi họ ở trên giường: nghỉ ngơi và ngủ. Nhưng điều quan trọng là phải nhận ra rằng đôi khi kiệt sức là một dạng ngụy trang của sự đau buồn và bất hạnh. Bạn không thể xóa bỏ sự bất hạnh bằng giấc ngủ. Và do đó, nằm trên giường có thể là một ý tưởng thực sự tồi nếu tâm trạng bạn đang rất tệ. Có lẽ bạn cần trải nghiệm cảm giác thành công thay vì giấc ngủ. Trải nghiệm thành công thường bắt đầu bằng việc gác lại những nhu cầu đáp ứng sự thoải mái tạm thời để đạt được một số mục tiêu dài hạn.
Nếu bạn đặt ra cho mình những mục tiêu trong tầm tay, chẳng hạn như ra khỏi giường và làm bữa sáng, bạn sẽ tạo ra những hoạt động tích cực cho chính mình. Và ngay cả khi bạn phải vật lộn để tìm ra bất cứ điều gì bạn thực sự muốn làm, thì cứ thử nghiệm ngay điều gì đó vẫn tốt hơn nhiều. Đấy có thể là những thú vui mà bạn tận hưởng trong quá khứ. Sự hứng thú sẽ đến với bạn trong khi làm việc.
Các hoạt động thư giãn giúp nâng cao mức năng lượng của bạn. Bạn có thể tìm thấy một số nguồn cảm hứng trong danh sách ở cuối cuốn sách. Hoặc bạn có thể thử giải pháp của Jens.
“Khi tôi cảm thấy thực sự chán nản, tôi thường lôi bảng danh sách những việc cần hoàn thành của mình ra và tìm một điều nào đã nằm trên danh sách đó từ lâu và tôi biết mình sẽ thích cảm giác được gạch bỏ nó. Và đó thường là điều tôi thực sự không thích làm. Đó cũng là lý do tại sao những việc đó đã nằm trong danh sách rất lâu. Vấn đề ở đây không phải là điều này gây khó chịu như thế nào. Tôi đang cảm thấy rất kinh khủng, nên chẳng thứ gì có thể tồi tệ hơn nữa. Và hoàn thành công việc - ví dụ: dọn dẹp cống rãnh - Tôi biết tâm trạng của tôi sẽ tốt hơn một chút; dù có lẽ chỉ từ -8 đến -7. Nhưng tôi có thể cảm nhận được sự thay đổi và điều đó mang lại cho tôi hy vọng.”
Jens, 55 tuổi
Sự kết nối giữa cảm xúc và suy nghĩ - mô hình nhận thức
Suy nghĩ và cảm xúc luôn có tác động qua lại với nhau thông qua các mối quan hệ tương tác. Bạn không thể trực tiếp kiểm soát cảm xúc của mình. Nếu bạn nhận được một món quà Giáng sinh mà mình không hề thích, bạn không thể quyết định rằng bạn sẽ vui vẻ với món quà đó. Điều bạn có thể làm là giả vờ thích nó. Tương tự như vậy, bạn không thể bỏ qua những cảm giác như ghen tị hoặc tức giận mặc dù sẽ tốt hơn nếu bạn không cảm thấy những điều đó. Nhưng bạn không hoàn toàn bất lực khi đối mặt với cảm xúc của mình, vì ở một mức độ nào đó, bạn có thể tác động đến chúng bằng suy nghĩ của mình. Bạn không thể trực tiếp kiểm soát cảm xúc của mình, nhưng bạn có thể kiểm soát được suy nghĩ của mình và bạn có thể chọn lọc những thứ mà mình cần tập trung và chú ý.
Một sự kiện bất kì có thể khuấy động nhiều cảm xúc theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào suy nghĩ của bạn như thế nào về chúng. Hãy tưởng tượng bạn gặp một đồng nghiệp ngoài đường nhưng người đó không chào hỏi bạn. Bạn có thể nghĩ về điều này theo nhiều cách khác nhau. Nếu bạn tự nhủ: “Chắc anh ta giận mình lắm” thì điều này có thể mang lại sự lo lắng cho bạn. Nếu bạn nghĩ “Anh ta nghĩ anh ta là ai? Anh ta lẽ ra phải chào mình” tức là bạn dễ trở nên tức giận. Còn nếu bạn nghĩ, “Anh ta có lẽ không nhìn thấy mình”, cảm xúc của bạn có thể sẽ trung lập hơn. Và nếu bạn nghĩ, “Thị lực của anh ấy phải thực sự kém – thật may mắn là thị lực của mình vẫn tốt mà không cần phải đeo kính”, bạn có thể bắt đầu cảm thấy biết ơn.
Nếu bạn dễ rơi vào trầm cảm, có thể suy nghĩ của bạn đang quá tiêu cực. Khi một người rơi vào trạng thái chán nản gặp một đồng nghiệp không chào hỏi họ, điều này có thể tạo ra một chuỗi phản ứng của những suy nghĩ và cảm xúc tiêu cực. Ví dụ: “Tại sao anh ta không thích mình? Có lẽ vì mình đã đến muộn vào thứ Hai tuần trước. Mình cũng từng đi muộn một lần vào năm ngoái nữa. Mọi người đều đứng đầu về mọi thứ. Mình không giống như họ và không thể làm mọi thứ một cách thuận chiều. Anh ta có lẽ đã phát hiện ra mình kỳ lạ như thế nào...”
Nếu bạn đấu tranh với những suy nghĩ tiêu cực, bạn có thể nhận được lợi ích từ việc bổ trợ khả năng kiểm soát suy nghĩ của mình. Điều này có thể giúp bạn ngăn chặn những suy nghĩ tiêu cực trước khi chúng vượt quá tầm kiểm soát.
Phần lớn điều này là về loại câu hỏi bạn dành cho chính mình. Nếu bạn cứ hỏi, “Tôi bị sao vậy, tại sao tôi lại không thành công được như con người tài giỏi được đăng trên tạp chí này?” và bạn sẽ tập trung sự chú ý của mình vào lỗi của bạn. Nếu bạn tự hỏi mình, “Bằng cách nào mà tôi lại không trở thành người vô gia cư và trên đường phố?” bạn sẽ bắt đầu nghĩ về sự tháo vát của mình. Nếu bạn tự hỏi mình, “Tại sao tôi không nghĩ đến việc tự kết liễu đời mình?” bạn sẽ bắt đầu tập trung vào những thứ mang lại cho bạn niềm vui và giá trị của bạn.
Đây không phải là cố gắng suy nghĩ tích cực nhất có thể. Nếu bạn quá lạc quan và dễ dãi, bạn sẽ gặp rắc rối. Nếu tôi tin vào sự lạc quan, tôi sẽ không có điều gì đáng nói để chuẩn bị cho các bài thuyết trình hoặc các buổi giảng dạy của mình. Và thường mọi người cảm thấy mệt mỏi với những người không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng. Điều quan trọng là cố gắng trở nên thực tế nhất có thể. Nếu bạn suy nghĩ quá tích cực về hoàn cảnh của mình, có lẽ bạn cần phải rửa sạch cặp kính màu hồng đó để có thể bắt đầu nhìn nhận thực tế. Điều này sẽ giúp bạn định hướng tốt hơn cuộc sống của mình trong xã hội.
Nếu bạn có xu hướng suy nghĩ tiêu cực, bạn cần phải đánh sáng cặp kính tối màu và ảm đạm của mình. Điều này sẽ giúp bạn nhìn thấy bản thân và thế giới mà không bị bóp méo đi theo chiều hướng tiêu cực. Và điều này sẽ giúp điều chỉnh tâm trạng của bạn nhẹ nhàng hơn và giúp bạn bớt mệt mỏi.
Nếu bạn là người rất nhạy cảm, bạn dễ có khuynh hướng suy nghĩ tiêu cực. Đừng mong đợi bản thân có thể trở nên tươi sáng và thoải mái như những người sôi nổi hơn mình. Thận trọng và cảnh giác là một phần bản chất của bạn, và điều này khá sáng suốt ở một mức độ nào đó bởi vì bạn sẽ phải chịu đựng nhiều hơn khi mọi thứ đột ngột trở nên khó khăn. Hệ thống thần kinh nhạy cảm của bạn dễ bị mất phương hướng hơn những người khác.
Đôi lúc ta cần sáng suốt chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất
Bạn chắc từng gặp qua tình huống người khác khuyên bạn nên thả lỏng và đừng suy nghĩ quá nhiều. Đó là vì điều này rất hiệu quả với những người có đầu óc mạnh mẽ hơn. Đối với những người nhạy cảm, mọi chuyện có phần khác đi.
“Vợ chồng tôi thường xuyên đi kiểm tra sức khỏe cho đứa con trai mắc dị tật tim bẩm sinh. Tôi đã tạo thói quen luôn chuẩn bị cho tình huống xấu nhất và suy nghĩ thấu đáo trong tình huống người ta yêu cầu phẫu thuật cho thằng bé. Việc kiểm tra sức khỏe diễn ra suôn sẻ trong nhiều năm và nhiều người bình luận về sự lo lắng không ngừng nghỉ của tôi. Vài người bạn có ý tốt khuyên tôi nên cố gắng nhìn vào khía cạnh tươi sáng và hy vọng rằng mọi thứ sẽ tiếp tục diễn ra tốt đẹp thay vì chuẩn bị cho những tình huống xấu nhất.
Trong một lần đưa thằng bé đi kiểm tra sức khỏe, tôi đã nghe theo những lời khuyên của họ. Tôi đang tràn trề hy vọng và tự nhủ: ‘Mọi chuyện sẽ ổn thôi’ khi bước qua cánh cửa bệnh viện. Nhưng mọi sự không như thế; ít nhất nó không phải là những gì tôi đã hy vọng. Phản hồi khá tiêu cực. Con trai tôi cần phẫu thuật.
Tôi đã vô cùng sốc. Cảm xúc của tôi bấy giờ vừa choáng ngợp vừa trống rỗng. Đầu óc tôi dường như mất kết nối với phần còn lại của cơ thể. Tôi không thể hỏi được một câu tử tế nào. Tôi đã rất run sợ mà không thể an ủi đứa con trai 12 tuổi có lẽ cũng đang vô cùng sợ hãi. Về đến nhà, tôi suy sụp, mọi thứ như tối sầm lại và phải rất lâu sau tôi mới có thể phục hồi được.
Trước khi phẫu thuật, tôi đã học cách lắng nghe bản thân. Tôi đã suy nghĩ rất kỹ mọi khía cạnh của ca phẫu thuật. Tôi xem từng bức chụp một và chuẩn bị tinh thần cho mọi điều khó lòng đối mặt. Tôi thậm chí còn chuẩn bị tinh thần - hết sức có thể - cho khả năng con trai tôi có thể chết. Trong suốt cuộc phẫu thuật, tôi đã ở đó và luôn trong trạng thái sẵn sàng hiện diện trước mặt con trai mình, ngay cả khi thằng bé được rút ống thở y tế và cha của nó phải rời khỏi phòng vì mọi thứ đã trở nên quá sức với anh ấy. Tôi đã vượt qua tất cả. Vì tôi đã chuẩn bị sẵn sàng.
Bây giờ, tôi luôn chuẩn bị tinh thần cho điều tồi tệ nhất khi chúng tôi đi kiểm tra sức khỏe. Gia đình vẫn dặn tôi phải lạc quan hơn và đừng lo lắng quá. Tôi biết mình cần lắng nghe bản thân. Tôi biết mình từng bị sốc như thế nào, và tôi nghĩ rằng sức lực mà tôi dành để chuẩn bị cho bản thân nên được sử dụng một cách sáng suốt. Và mỗi khi có phản hồi tích cực trong mỗi cuộc kiểm tra là một lần tôi cảm thấy hân hoan trong lòng.”
Louise, 41 tuổi
Nếu bạn có hệ thần kinh nhạy cảm, bạn nên chuẩn bị tinh thần cho các tình huống xấu nhất. Bằng cách đó, bạn sẽ đỡ bị quá tải cảm xúc khi tình huống xấu xảy ra.
Đặc trưng của nhạy cảm cao sẽ giống chứng rối loạn lo âu trong mắt những người khác
Chúng ta hãy lấy ví dụ về một phụ nữ nhạy cảm cao, luôn tránh gặp gỡ người lạ. Nhìn từ bên ngoài, người ta dễ cho rằng người phụ nữ này mắc chứng sợ người lạ. Một nhà trị liệu đã có ý tốt khuyên cô ấy nên tiếp xúc với những điều cô ấy sợ hãi, thậm chí có thể vài lần một ngày trong một khoảng thời gian nhất định. Nhà trị liệu này tin rằng điều này sẽ làm cho người phụ nữ cảm thấy tốt hơn khi ở bên người lạ. Trong các buổi làm việc với một nhà trị liệu không nhận biết được những đặc điểm của người có tính nhạy cảm cao, người phụ nữ sẽ được giao bài tập trị liệu như đi đến những nơi có nhiều người lạ và cố gắng tiếp xúc với một số người. Vấn đề nằm ở chỗ lý do người phụ nữ tránh người lạ không phải vì cô ấy sợ; mà là vì cô ấy căng thẳng. Và cô ấy đang tự bảo vệ mình khỏi việc quá tải cảm xúc. Nếu người phụ nữ đó gặp áp lực trước việc gặp người lạ, cô ấy sẽ thấy mệt mỏi và giảm sút khả năng nhận thức về tình huống cũng như kỹ năng xã hội thông thường. Điều này sẽ đưa đến những trải nghiệm tồi tệ trái với mục đích giúp cô ấy thoải mái hơn khi ở bên người lạ.
Một số người nhạy cảm cao đã có trải nghiệm tồi tệ khi nhận tư vấn từ một số nhà trị liệu không đủ nhạy bén. Họ thường khuyến khích bạn tìm cách để giống với số đông: thực hiện những bài tập trị liệu hướng tới việc loại bỏ những ức chế, chấp nhận nhiều rủi ro hơn, trở nên bản năng hơn hay cố gắng nói chuyện mà không suy nghĩ thấu đáo mọi thứ trước.
Một ví dụ khác là một người đàn ông rất nhạy cảm thấy không thoải mái khi ở trong căng tin tại nơi làm việc. Một nhà trị liệu khuyên anh ta giải quyết những lo lắng của mình bằng cách đến căng tin thường xuyên hơn, tiếp xúc với những điều khiến anh ta khó chịu. Điều này có thể hiệu quả với một người có cá tính sôi nổi. Họ sẽ có những trải nghiệm tích cực, giúp họ thay đổi suy nghĩ và cảm nhận về tình huống. Nhưng lại trở nên phức tạp hơn đối với một người nhạy cảm cao. Vấn đề có thể ở chỗ anh ấy không thấy thoải mái vì có quá nhiều tiếng ồn và hỗn loạn trong căng tin. Cũng có khả năng nội dung những cuộc trò chuyện ở nơi đó rất hời hợt và không thu hút được sự quan tâm của anh ấy. Nhiều người tự trách mình vì không thể gợi hứng thú trong những tình huống này và vì không tham gia nhiều hơn vào các cuộc trò chuyện. Và nếu họ giả vờ thoải mái và cư xử như một người không phải như họ, điều này có thể gây nên chứng rối loạn lo âu.
Một số người nhạy cảm cảm thấy thoải mái hơn khi ăn trưa một mình - có thể trong công viên. Một số chọn ở lại văn phòng để ăn thay vì ăn cùng những người khác trong căng tin. Cũng có khả năng là còn nhiều vấn đề khác liên quan nhưng đối với nhiều người, đây là phương pháp đem lại hiệu quả tốt nhất, ít nhất là một số ngày trong tuần.
Nếu bạn đã quen với tình huống khó xử này và bạn phải giao lưu với đồng nghiệp trong giờ nghỉ trưa, bạn có thể cố gắng hướng tới cảm giác thoải mái khi ở đó theo cách của riêng bạn. Nếu bạn có thể chấp nhận rằng mình không có năng lượng để nói quá nhiều và cảm thấy thoải mái khi ngồi im lặng bên cạnh những người khác, bạn đang đi đúng hướng. Nếu bạn thường nài ép bản thân tìm những điều để nói, hãy chấp nhận rằng sự im lặng của chính bạn sẽ là một sự giải tỏa tuyệt vời và tiếp thêm năng lượng cho bạn.
Điều đầu tiên cũng như quan trọng nhất là bạn cần phải thích chính sự nhạy cảm cao trong bản thân mình. Sau đó, bạn cần sắp xếp sao cho môi trường xung quanh bớt gây ra những quá tải về mặt cảm xúc và phù hợp với những nhu cầu của bạn hơn. Khi những thứ trên hình thành theo một cách có tổ chức, những vấn đề khác cũng sẽ được giải quyết và bạn sẽ cảm thấy mình thoải mái hơn, linh động hơn và tràn đầy năng lượng để hòa đồng với thế giới bên ngoài.
Các vấn đề khác có thể gây ảnh hưởng tới hệ thống thần kinh nhạy cảm
Thông thường bạn sẽ có lợi thế rất lớn nếu như nhận thức đúng và hiểu rõ bản thân mình là một người nhạy cảm cao. Nhưng cũng có những điều mà bạn cần chú ý khi bạn tự dán nhãn cá tính cho chính mình. Có vô vàn những lý do khác nhau tạo nên hệ thần kinh nhạy cảm nơi bạn. Ví dụ như bạn từng trải qua chấn thương trong cuộc sống và đang vật lộn với rối loạn căng thẳng sau sang chấn1, bạn có thể rất mong manh và dễ lo âu theo cùng một cách với những đặc điểm của tính nhạy cảm cao. Nếu bạn tự cho mình là người có tính nhạy cảm cao, bạn có thể không tìm kiếm sự giúp đỡ cần thiết để kiểm tra chấn thương của mình. Vấn đề tương tự có thể xảy ra với các vấn đề sức khỏe tâm thần khác. Bạn có thể mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần đồng thời với tính nhạy cảm cao. Điều quan trọng là không từ chối nhận sự giúp đỡ nếu bạn đang vật lộn với các vấn đề sức khỏe tâm thần ngay cả khi bạn đã được xác định là người nhạy cảm cao.
1 Rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD) gây ra bởi một chấn thương tâm lý như trải qua chiến tranh, hiếp dâm, trộm cướp hoặc cái chết của người thân cận. Nếu bạn đang mắc chứng PTSD, bạn sẽ tăng cường cảnh giác và hệ thần kinh của bạn sẽ rất nhạy cảm.
Sự đau buồn không được công nhận và giải quyết cũng có thể mang lại sự lo âu và dễ vỡ đến cho một người. Trong một lần tôi đang làm việc với một khách hàng, chúng ta hãy gọi anh ta là Jens - người luôn phải đấu tranh dữ dội mỗi khi người vợ muốn rời khỏi nhà. Anh ấy lo lắng đến độ bị rối loạn lo âu và hoảng loạn. Anh ấy đã thử các liệu pháp nhận thức hành vi và dùng thuốc mà không có nhiều sự biến chuyển. Hóa ra bà anh mất khi anh mới bốn tuổi. Mất ông bà là điều mà tất cả chúng ta đều trải qua và Jens đã không coi đây là điều gì đó đặc biệt quan trọng.
Nhưng khi tôi bắt đầu hỏi kỹ lưỡng về điều này, thì ông bà anh ấy từng sống chung với Jens và bố mẹ anh ấy. Mẹ của Jens làm việc toàn thời gian và là một người làm việc rất hiệu quả và luôn bận bịu. Do đó, bà của anh là người chăm sóc chính của Jens và là người lớn duy nhất trong nhà mà anh có tình cảm gắn bó nhất. Khi bà anh qua đời, gia đình anh đã cố gắng “bảo vệ” Jens, vì vậy anh đã không tham dự tang lễ và không ai nói chuyện với anh về những gì đang xảy ra.
Tôi yêu cầu Jens viết một lá thư vĩnh biệt gửi bà và khơi gợi lại nỗi đau xưa. Sau khi vượt qua nỗi đau, Jens trở nên mạnh mẽ hơn nhiều so với những gì anh nhớ được trước đây.
Nếu Jens chỉ tập trung vào việc tạo ra một lối sống dung túng cho sự nhạy cảm của chính mình, anh ấy có lẽ không bao giờ tìm kiếm sự trợ giúp thích hợp để giải quyết nỗi đau chưa thể giải trừ của mình.
Nếu bạn vượt qua những tổn thương cũ, bạn có thể trải nghiệm cảm giác bản thân trở nên mạnh mẽ và sôi nổi hơn. Là một người nhạy cảm cao, bạn không nên chỉ sắp xếp cuộc sống theo nhu cầu của mình như một người nhạy cảm. Điều quan trọng là phải giải quyết các thương tổn, và chúng sẽ giúp bạn thay đổi và trưởng thành hơn để đạt được hiệu quả trong trị liệu.
Điều quan trọng cần nhớ là nó không phải là một hoặc hai. Bạn có thể vừa là người cực kì nhạy cảm vừa gặp vấn đề về sức khỏe tâm thần. Nhưng bạn có thể đạt được những lợi ích từ việc tổ chức cuộc sống sao cho phù hợp với tính nhạy cảm của mình hơn cũng như nhận những sự giúp đỡ và điều trị các vấn đề sức khỏe tâm thần của bạn.