C
ó ba mươi ba “khu vườn Shakespeare” đang tồn tại trên khắp thế giới. Những công viên bách thảo này chỉ trồng những loài cây có tên trong các tác phẩm của William Shakespeare - bao gồm cả “hoa hồng mang thứ tên khác” của Juliet và đủ loại hoa hồng, hoa bướm, thì là, mao lương, cúc, và violet của Ophelia. Ngoài những khu vườn ở Stratford-upon-Avon, Vienna, San Francisco, và Công viên Trung tâm tại New York City, còn có một khu vườn Shakespeare tọa lạc kề bên Trung tâm Siêu điện toán Barcelona.
Trong quầng sáng lờ mờ của đèn đường phía xa, ngồi trên một chiếc ghế dài giữa đám cây mao lương, Ambra Vidal kết thúc cuộc trò chuyện trên điện thoại đầy xúc cảm với Hoàng tử Julián vừa khi Robert Langdon ra khỏi nhà nguyện đá. Nàng trao điện thoại lại cho hai đặc vụ Cận vệ và gọi Langdon, lúc này đã thấy nàng và đang tiến lại qua màn đêm đen.
Khi vị giáo sư người Mỹ thơ thẩn vào vườn, nàng không kìm được mỉm cười với cái cách ông ấy hất chiếc áo vest của mình qua vai và xắn ống tay áo lên, để lộ hẳn chiếc đồng hồ Chuột Mickey ra.
“Xin chào,” ông nói, nghe hoàn toàn mệt nhọc, dù trên gương mặt vẫn có nụ cười méo xẹo.
Khi hai người đi dạo quanh vườn, các sĩ quan Cận vệ để yên cho họ, và Ambra kể với Langdon về cuộc trò chuyện của nàng với Hoàng tử - việc Julián xin lỗi, lời khẳng định vô can của ông ấy, và đề nghị của ông ấy hủy bỏ lời hứa hôn của họ và bắt đầu hẹn hò lại.
“Một bạch mã hoàng tử thật sự,” Langdon nói đùa, mặc dù nghe rõ là ông rất ấn tượng.
“Anh ấy lo lắng cho tôi,” Ambra nói. “Tối nay thật mệt. Anh ấy muốn tôi về Madrid ngay. Cha anh ấy sắp mất, và Julián...”
“Ambra,” Langdon dịu dàng nói. “Cô không cần giải thích gì đâu. Cô nên đi đi.”
Ambra nghĩ nàng cảm thấy sự thất vọng trong giọng ông, và sâu thẳm trong lòng nàng cũng cảm thấy vậy. “Anh Robert,” nàng nói, “tôi có thể hỏi anh một câu hỏi riêng tư được không?”
“Dĩ nhiên rồi.”
Nàng ngập ngừng. “Với cá nhân anh... các quy luật vật lý có đủ không?”
Langdon liếc nhìn như thể ông trông đợi một câu hỏi hoàn toàn khác. “Đủ theo cách nào?”
“Đủ về mặt tâm linh,” nàng nói. “Liệu có đủ để sống trong một vũ trụ với những quy luật tự phát tạo ra sự sống không? Hay là anh thích... Chúa?” Nàng ngừng lại, vẻ bối rối. “Xin lỗi, sau tất cả những gì chúng ta trải qua tối nay, tôi biết đó là một câu hỏi kỳ cục.”
“Chà,” Langdon cười nói, “tôi nghĩ câu trả lời của tôi sẽ được lợi từ một giấc ngủ đêm no nê. Nhưng không, chẳng kỳ cục đâu. Suốt ngày người ta hỏi tôi liệu tôi có tin vào Chúa không.”
“Và câu trả lời của anh thế nào?”
“Tôi trả lời sự thật,” ông nói. “Tôi nói với họ rằng, với tôi, câu hỏi về Chúa nằm ở việc hiểu biết sự khắc biệt giữa các mật mã và các mẫu thức.”
Ambra liếc mắt nhìn. “Tôi không chắc tôi hiểu ý anh.”
“Các mật mã và mẫu thức rất khác nhau,” Langdon nói. “Và rất nhiều người lẫn lộn hai thứ. Trong lĩnh vực của tôi, điều quan trọng là hiểu được sự khác biệt cơ bản của chúng.”
“Chuyện đó ư?”
Langdon dừng bước và quay sang nàng. “Một mẫu thức là bất kỳ chuỗi có tổ chức riêng nào. Các mẫu thức xảy ra ở khắp mọi nơi trong tự nhiên - bố cục hạt hình xoắn ốc của một bông hướng dương, các tế bào lục giác của một tổ ong, những gợn sóng tròn trên hồ nước khi có cá nhảy, vân vân.”
“Vâng. Thế còn các mật mã?”
“Mật mã rất đặc biệt,” Langdon nói, giọng cao hẳn. “Mật mã, theo định nghĩa, phải chứa đựng thông tin. Chúng phải có ý nghĩa hơn chỉ là hình thành một mẫu thức - các mật mã phải truyền dữ liệu và chuyển tải ý nghĩa. Những ví dụ về mật mã bao gồm ngôn ngữ viết, ký hiệu nhạc, các phương trình toán học, ngôn ngữ máy tính, và thậm chí những biểu tượng đơn giản như thập giá. Tất cả những ví dụ này có thể truyền ý nghĩa hoặc thông tin theo cách mà các bông hướng dương xoắn ốc không thể có.”
Ambra đã hiểu khái niệm, nhưng vẫn chưa rõ nó liên quan như thế nào đến Chúa.
“Sự khác biệt nữa giữa mật mã và mô thức,” Langdon nói tiếp, “là mật mã không xảy ra tự nhiên trên đời này. Các ký hiệu âm nhạc không nảy ra từ những cái cây, và các biểu tượng không tự vẽ trên cát. Mật mã là những sáng tạo chủ tâm của những ý thức thông tuệ.”
Ambra gật đầu. “Như vậy mật mã luôn có một ý định hoặc nhận thức đằng sau chúng.”
“Chính xác. Mật mã không xuất hiện một cách hữu cơ; chúng phải được tạo ra.”
Ambra nhìn ông một lúc lâu. “Thế còn DNA?”
Một nụ cười rất lành nghề xuất hiện trên môi Langdon. “Bingo,” ông nói. “Bộ mã di truyền. Đó là nghịch lý.”
Ambra cảm thấy thú vị. Bộ mã di truyền rõ ràng mang theo dữ liệu -những chỉ dẫn cụ thể về cách kiến tạo các cơ thể. Theo lô-gic của Langdon, điều đó chỉ có thể đồng nghĩa với một thứ. “Anh nghĩ DNA được tạo ra bởi một trí thông minh!”
Langdon giơ một bàn tay lên trong tư thế vờ tự vệ. “Bình tĩnh nào!” ông nói, cười to. “Cô đang giẫm lên một lãnh địa nguy hiểm đấy. Để tôi nói điều này nhé. Từ hồi tôi còn bé, tôi đã có linh cảm rằng đằng sau vũ trụ có một ý thức. Khi tôi chứng kiến sự chính xác của toán học, độ tin cậy của vật lý và tính đăng đối của vũ trụ, tôi không cảm thấy như thể mình đang quan sát thứ khoa học lạnh lùng; tôi cảm thấy như thể mình đang chứng kiến một dấu chân sống động... cái bóng của một thế lực vĩ đại hơn nào đó vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta.”
Ambra cảm nhận được sức mạnh trong lời nói của ông. “Tôi ước gì tất cả mọi người đều nghĩ giống như anh,” cuối cùng nàng nói. “Dường như chúng ta làm rất nhiều việc chống lại Chúa. Tất cả mọi người đều có những kiểu chân lý khác nhau.”
“Đúng, đó là lý do Edmond hy vọng khoa học một ngày nào đó có thể đoàn kết chúng ta,” Langdon nói. “Nói theo ngôn ngữ của cậu ấy: ‘Nếu tất cả chúng ta đều thờ phụng trọng lực thì sẽ không hề có sự bất đồng về việc nó hút theo cách nào’.”
Langdon dùng gót chân vạch vài đường lên lối đi rải sỏi giữa họ. “Đúng hay sai?” ông hỏi.
Ngơ ngác, Ambra nhìn những đường vạch của ông - một phương trình số học La Mã đơn giản.
I + XI = X
Một cộng mười một bằng mười? “Sai,” nàng nói ngay.
“Và cô có thấy có cách nào để công thức này đúng được không?”
Ambra lắc đầu. “Không, nhận định của anh hoàn toàn sai.”
Langdon nhẹ nhàng chìa tay và nắm lấy tay nàng, dẫn nàng vòng tới chỗ ông đang đứng. Bây giờ, khi Ambra nhìn xuống, nàng thấy các vết vạch từ góc quan sát của Langdon.
Phương trình đã đảo ngược.
X = IX + I
Nàng giật mình ngước nhìn ông.
“Mười bằng chín cộng một,” Langdon mỉm cười nói. “Nhiều khi, tất cả những gì cô phải làm là thay đổi góc độ của mình khi nhìn chân lý của người khác.”
Ambra gật đầu, nhớ lại việc nàng đã xem bức chân dung tự họa của Winston rất nhiều lần mà không tài nào hiểu được ý nghĩa thật sự của nó.
“Nói về chuyện nắm bắt được một chân lý ẩn giấu,” Langdon nói, trông bỗng hứng thú hẳn. “Cô gặp may đấy. Có một biểu tượng bí mật ẩn giấu ngay đằng kia.” Ông chỉ tay. “Bên hông chiếc xe tải kia.”
Ambra đưa mắt nhìn và thấy một chiếc xe tải hãng FedEx đang tạm dừng đèn đỏ trên Đại lộ Pedralbes.
Biểu tượng bí mật ư? Tất cả những gì Ambra thấy là cái biểu trưng thường thấy của công ty.
“Tên gọi của họ đã được mã hóa,” Langdon nói với nàng. “Nó chứa đựng một tầng ý nghĩa thứ hai - một biểu tượng ẩn kín phản ánh động lực vươn tới của công ty.”
Ambra tròn mắt nhìn. “Nó chỉ là mấy chữ cái mà.”
“Tin tôi đi, có một biểu tượng rất thịnh hành trong biểu trưng FedEx - và nó tình cờ chỉ đường đi tới.”
“Chỉ đường ư? Ý anh là như... một mũi tên?”
“Chính xác.” Langdon cười ngoác. “Cô là một phụ trách bảo tàng - hãy nghĩ đến phần không gian âm.”
Ambra đăm đăm nhìn cái biểu trưng nhưng chẳng thấy gì cả. Khi chiếc xe phóng đi, nàng xoay sang Langdon. “Nói tôi nghe!”
Ông cười. “Không, ngày nào đó cô sẽ nhìn thấy thôi. Và khi đó cô sẽ thấy... may phúc là không nhìn thấy nó.”
Ambra định phản đối nhưng các đặc vụ Cận vệ của nàng tiến đến. “Thưa cô Vidal, máy bay đang đợi.”
Nàng gật đầu và quay lại phía Langdon. “Sao anh không đi cùng nhỉ?” nàng thì thầm. “Tôi chắc Hoàng tử sẽ rất muốn cảm ơn anh đích...”
“Tốt quá,” ông ngắt lời. “Tôi nghĩ cả cô và tôi đều biết tôi là người thừa, và tôi đã đặt phòng cho mình ngay đằng kia rồi.” Langdon chỉ tới tòa tháp gần đó của Khách sạn Princesa Sofía, nơi ông và Edmond từng ăn trưa. “Tôi có thẻ tín dụng của mình, và tôi đã mượn được một chiếc điện thoại từ phòng thí nghiệm của Edmond. Tôi đã thu xếp cả rồi.”
Viễn cảnh đột ngột nói lời tạm biệt khiến lòng Ambra trĩu xuống, và nàng cảm thấy rằng Langdon, mặc dù vẻ mặt chấp nhận nghịch cảnh, cũng ít nhiều cảm thấy tương tự. Chẳng còn bận tâm xem những cận vệ của mình có thể nghĩ gì, nàng bạo dạn bước tới và choàng hai tay quanh người Robert Langdon.
Vị giáo sư nồng nhiệt đón lấy nàng, bàn tay rắn chắc của ông đặt trên lưng nàng kéo nàng thật sát lại. Ông ôm nàng vài giây, không dài hơn so với mức ông có thể, sau đó nhẹ nhàng buông nàng ra.
Thời khắc đó, Ambra Vidal cảm thấy có gì đó bứt rứt trong lòng. Nàng đột nhiên hiểu những gì Edmond nói về nguồn năng lượng của tình yêu và ánh sáng...bung nở ra ngoài để lấp đầy vũ trụ.
Tình yêu không phải là một cảm xúc hạn chế.
Chúng ta không có nhiều để chia sẻ.
Trái tim chúng ta tạo ra tình yêu khi chúng ta cần đến nó.
Giống như bố mẹ có thể yêu thương một đứa con mới ra đời ngay lập tức mà không cần giảm bớt tình yêu dành cho nhau, cho nên giờ Ambra có thể cảm nhận được tình cảm dành cho hai người đàn ông khác nhau.
Tình yêu thực sự không phải là một cảm xúc hạn chế, nàng nhận ra vậy. Nó có thể được tạo ra bột phát chẳng từ gì cả.
Giờ đây, khi chiếc xe đưa nàng quay về với Hoàng tử từ từ lăn bánh rời đi, nàng đăm đăm nhìn Langdon, vẫn đang đứng một mình trong vườn. Ông nhìn theo với ánh mắt kiên định. Ông mỉm cười dịu dàng và vẫy tay rồi đột ngột quay đi... dường như cần một lúc trước khi hất chiếc áo vest lên vai lần nữa và bắt đầu đi bộ một mình tới khách sạn.