(? – 1416)
Lê Cảnh Tuân người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Năm 1381, ông thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ).
Đầu năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên ngôi vua, lập nên nhà Hồ. Năm 1406, nhà Minh mượn cớ “phù Trần diệt Hồ” sang xâm chiếm nước ta. Hồ Quý Ly và hai con (Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương) đều bị quân đối phương bắt rồi áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Kể từ đó, nước Việt rơi vào ách thống trị của nhà Minh. Thất vọng vì biết vua quan nhà Minh không có ý định tái lập nhà Trần, Lê Cảnh Tuân viết “Vạn ngôn thư” (Bức thư một vạn chữ) yêu cầu nhà Minh giữ lời hứa. Lê Cảnh Tuân nói với con: “Nhà ta đời đời ăn lộc (nhà Trần). Một bức thư “Vạn ngôn” đã tiết lộ không thành.
Nay ta hết lòng thành báo nước, dù chết còn vinh, tiếng trung nghĩa muôn đời ghi ở sử xanh. Ta có sợ gì.”
Biết ông là người có chí. Trương Phụ cho quân bắt Lê Cảnh Tuân và người con là Lê Thái Điền, giải về Yên Kinh (Bắc Kinh). Minh Thành Tổ dụ dỗ, tra hỏi ông. Lê Cảnh Tuân khảng khái trả lời: “Người Nam thì mong nước Nam còn. Chó ông Trích thì cắn người không phải chủ nó. Hỏi làm gì?”
Vua Minh tức giận, giam cha con ông vào ngục, được 5 năm cả hai cha con đều chết.
Đặng Minh Khiêm một danh thần đời Lê sơ, có thơ khen:
...Vạn lý lỗ đình chung bất khuất,
Phụ trung tử hiếu lưỡng thành danh.
(Muôn dặm trước thù không chịu khuất,
Cha trung con hiếu thảy lừng danh.)
Trong bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí nhà sử học Phan Huy Chú đã trân trọng xếp Lê Cảnh Tuân vào nhóm Bảy bề tôi tiết nghĩa đời nhà Trần. Ngoài Lê Cảnh Tuân, sáu người còn lại là: Trần Bình Trọng, Lê Giốc, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và Nguyễn Súy.
Lê Cảnh Tuân lúc đầu hy vọng ở nhà Minh. Đến khi nhận ra mình bị lừa, viết Vạn ngôn thư, vẫn tưởng “nước lớn” không nuốt lời hứa. Nhưng cuối cùng đã ngộ ra. Ông hiên ngang đấu lý với Minh Thành Tổ. Còn vặn lại “Hỏi làm gì? Người Nam thì mong nước Nam còn!”
Nhà sử học Lê Tung trong cuốn Việt Giám thông khảo tổng luận đã viết về Nguyễn Cảnh Tuân “Vạn ngôn chi thư, trung quân nhật nguyệt” (Bức thư muôn lời nói, lòng trung thấu đến mặt trời, mặt trăng).
“Lê Cảnh Tuân một chí sĩ vừa có tài thơ văn, lại có khí tiết” (Sách Từ điển nhân vật Việt Nam).