
- Lần I, năm 1951, bị giam 7 tháng ở lao Thừa Phủ (Huế)
- Lần II, năm 1955, bị giam 11 tháng ở lao Thừa Phủ (Huế)
- Lần III, năm 1961, bị toà án quân sự đặc biệt Sài Gòn xử tử hình vì “tội” Tham gia lãnh đạo Hội Liên hiệp sinh viên, học sinh giải phóng, đồng chủ mưu phá hoại tài sản quốc gia, sát hại binh sĩ Việt Nam cộng hòa, mưu sát đại sứ Nolting, bị giam ở nhiều nhà tù trong Sài Gòn và nhà tù Côn Đảo, cho đến ngày 30-4-1975 thì được giải phóng.
Và nhiều bài thơ, trường ca, hồi ký, ca khúc… viết về nhà tù, đấu tranh trong tù dưới thời Mỹ, ngụy.
Tại nhà riêng ở thành phố Huế ông có một phòng trưng bày các kỷ vật, di vật sưu tầm được từ nhà tù Côn Đảo và các nhà tù ở miền Nam trước năm 1975.
Rất tình cờ, trong một trận càn lớn ở Đức Hòa (Huế), địch bắt được Lê Quang Vịnh, giáo sư trường trung học Pétruss Ký Sài Gòn. Ngày đó (8-1961) anh đang chấm thi ở Huế thì được gọi ra căn cứ họp gấp. Qua khai thác các nguồn tin, chúng biết được Lê Quang Vịnh là một trong những người lãnh đạo phong trào sinh viên học sinh giải phóng miền Nam cùng với các anh Lê Hồng Tư, Lê Minh Châu… là những người trực tiếp chỉ huy và tiến hành những trận đánh bất ngờ, táo bạo ngay giữa đô thành, nơi đông người, được canh gác cẩn mật gây cho bọn Mỹ, ngụy những cái chết kinh hoàng. Sau 9 tháng giải qua nhiều trại giam, qua nhiều cực hình tra tấn, địch mở phiên tòa quân sự đặc biệt, tuyên xử tử hình Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư, Lê Văn Thành, Huỳnh Văn Chính cùng 4 án tù chung thân và 4 án tù giam từ 3 đến 15 năm. Vụ án “Tiểu đội anh hùng của tuổi xanh” đã làm chấn động dư luận xã hội.
Trước phiên tòa, Lê Quang Vịnh cùng đồng đội hiên ngang lên án đế quốc Mỹ xâm lược, công khai tuyên truyền Mặt trận giải phóng miền nam Việt Nam, đả đảo chế độ phát xít ngô Đình Diệm. Bị tuyên án tử hình, nhưng khi dẫn ra khỏi tòa án và trên đường về khám cả tiểu đội thanh niên 12 người cất vang tiếng hát “Vùng lên! nhân dân miền Nam anh hùng!...”
Xúc động trước tấm gương hiên ngang bất khuất của các anh, các nhà thơ Tố Hữu, Anh Thơ… đã làm thơ ca ngợi “Tiểu đội anh hùng”, nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ viết bài ca “Lê Quang Vịnh người con Quang vinh”, báo chí trong nước, nước ngoài đăng nhiều hình ảnh và bài ca ngợi các anh..
Sau đó kẻ địch đưa Lê Quang Vịnh ra Côn Đảo, giam trong xà lim tử hình chuồng cọp. Anh bị cùm chân suốt ngày đêm, bị đánh, bị bỏ đói…
Tháng 2-1968, bất ngờ kẻ địch tháo cùm, đưa anh về Sài Gòn. Thì ra kẻ địch muốn “trao đổi” anh cùng hai người tù khác để “chuộc” ba tên sĩ quan Mỹ bị Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam bắt trong dịp quân dân ta tổng tiến công và nổi dạy. Nhưng ba sĩ quan Mỹ đã được trao cho Hội chữ thập đỏ quốc tế. Kẻ địch đưa các anh trở lại Sài Gòn, tiếp tục đày ra Côn Đảo. Dù sao, Lê Quang Vịnh đã được chứng kiến tận mắt những gì cuộc Tổng tiến công Mậu Thân để lại. Anh viết bài thơ “Trở lại Sài Gòn” tả cảnh thành phố Thép gai bao cát dăng trùng trập/Dinh tướng lầu quan đổ ngẩn ngơ/Bừa bãi pháo bom cày nát phố…
Lê Quang Vịnh kể lại:
- Sáng 1-5-1975 tôi đang nằm trong Hầm Đá lao II chợt nghe tiếng đập cửa rầm rầm, tiếng gọi: “Vịnh ơi! Có Vịnh ở trong này không?” Tôi vội đáp: “Phải, Vịnh đang bị còng trong đây!” Cửa hầm giam bật mở. Ánh sáng lóa mắt ùa vô Hầm Đá. Tôi ráng sức dùng hai tay nâng đôi chân tê bại ra khỏi còng rồi ráng vịn bức tường đá lạnh loạng choạng bước ra.
Đôi cánh tay ai đó ôm lấy tôi và dìu tôi đi...…
- Giải phóng rồi, giải phóng rồi. Vịnh ơi!...
Bỗng nhiên tai tôi ù, mắt tôi hoa lên, rồi tôi xỉu đi trong vòng tay đồng chí. Khi tỉnh lại tự nhiên nước mắt tôi ứa ra chan hòa rồi tôi khóc lên nức nở vì sung sướng…”.
Ngay sau đó, mọi người dìu Lê Quang Vịnh qua nhà Tỉnh trưởng lúc này đã trở thành Văn phòng Ủy ban giải phóng Côn Đảo. Lòng Vịnh dạt dào ngất ngây.
Anh ngồi bệt ngay xuống hành lang Văn phòng Ủy ban xin tờ giấy viết những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc “Chào Tự do” để ghi dấu giây phút thoát khỏi số phận “tử tù”. Bài hát có những câu điệp khúc vang vọng: Ta reo hát lên đi, ta reo hát lên đi, ta reo mừng lên đi/Đời ta đã hết tù ngục chia ly...
Chuyện tình của tử tù Lê Quang Vịnh
Lê Quang Vịnh bước vào tuổi 20 là một chàng trai cao ráo, đẹp trai, học giỏi. Anh tốt nghiệp thủ khoa khoa Toán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, lại là giáo sư trường Petrus Ký, một trường hàng đầu ở miền Nam thời đó (trên cả trường Quốc học Huế bấy giờ), lương rất cao.
Đó là nghề nghiệp, danh tiếng, lương bổng. Quan trọng hơn đối với giới đẹp, Lê Quang Vịnh là người hiểu biết rộng, lịch lãm, có nhiều biệt tài như viết văn, làm thơ, sáng tác nhạc.
Nhưng cuộc đời hoạt động cách mạng của anh đã không cho phép anh giao tiếp rộng rãi với phái đẹp. Anh chỉ quen biết những người con gái gắn bó với công việc của mình. Và số phận tử tù của anh đã làm cho những mối tình đó thành những mối tình đớn đau, nước mắt...
Khi nghe tin giáo sư Lê Quang Vịnh và đồng đội bị chính quyền Sài Gòn tuyên án tử hình, nữ thi sĩ Anh Thơ đã đọc báo và “nhặt” được một chi tiết rất đắt giá đăng trên báo chí lúc đó. Thế là bài thơ Dòng nước mắt ra đời.
Bài thơ viết về tâm trạng của một cô gái có mặt trong phiên toà ngụy quyền Sài Gòn xử án Lê Quang Vịnh và “tiểu đội” của anh đêm 23/5/1962. Cô gái đứng lẫn trong số người đến dự phiên toà. Cô gái khóc và để mặc cho dòng nước mắt lăn hoài trên má:
Em không lau mặc cho dòng nước mắt
Chảy dài, chảy mãi, chảy triền miên
Nhìn anh đó, hiên ngang bất khuất
Trán rạng ngời, mắt chói niềm tin!
...Anh của em ơi, người anh thi sĩ
Những ý thơ nào ru thắm tình ta
Những ý thơ nào ước mơ hạnh phúc
Cho chúng mình, cho những đôi lứa vui ca...…
Khi học ở Huế cũng như khi vào Sài Gòn học đại học, Lê Quang Vịnh hay lui tới nhà của thầy Tôn Thất Dương Kỵ. Gia đình thầy Kỵ cũng coi Vịnh như người trong gia đình.
Vì là con một trí thức yêu nước, có tư tưởng chống Mỹ quyết liệt, nên tất cả các con của thầy Kỵ đều tham gia phong trào đấu tranh chống Mỹ của tuổi trẻ Sài Gòn, và đều là “cơ sở” của Lê Quang Vịnh. Tôn Nữ Quỳnh Như, tên gọi ở nhà là Ngọc, là một tiểu thư rất xinh đẹp, đài các, biết ăn diện đúng mốt thời thượng.
Quỳnh Như ước ao sau này sẽ trở thành một kiến trúc sư, nên sau này chị đã vào học Đại học Kiến trúc Sài Gòn. Mỗi lần đến nhà thầy Dương Kỵ, Vịnh đều tìm cách gần gũi, nói chuyện với Quỳnh Như. Hai người rất tâm đầu ý hợp. Có lần vào dịp Tết, Lê Quang Vịnh đã đưa Quỳnh Như ra căn cứ để học tập chính sách của Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Tết đó hai người ở lại ăn Tết trong căn cứ. Dù khi họp phải bịt hết mặt, chỉ trừ hai con mắt theo nguyên tắc giữ bí mật, nhưng tình cảm hai người đã nồng đượm lắm.
Nhưng anh chưa bao giờ thổ lộ, thề thốt với Quỳnh Như điều gì.
Ngay sau khi bị tuyên án, giam trong ngục tử hình của nhà lao Chí Hoà, Lê Quang Vịnh đã viết bài thơ “Thư gửi người yêu” rồi tìm cách gửi ra cho Quỳnh Như. Bài thơ như những lời trối trăng mãnh liệt gửi đến người thân yêu nhất trước giờ ra pháp trường, lên máy chém:
Em nhớ không ngày ấy còn trong năm sáu mốt (1961)
Còn bão tố đầy trời miền Nam đau xót
Trong một khu rừng hoa dại vàng tươi
Ta đón xuân giải phóng với bao người
Dù chẳng được nhìn nhau cho tận mặt
Dù chẳng dám hát ca vì còn kia lũ giặc.
…Sao hôm nay anh quá nhớ thương em
Đường còn xa, cạm bẫy thù la liệt
Giận quân thù cố chia lìa đất Việt
Rẽ chúng mình hai đứa một niềm tin
Phải không em, mình chỉ có đôi tim
Chọi cùng chúng nào chiến xa, đại bác
Nhưng dù chúng có chật đường hung ác
Cũng không làm gì được chúng ta đâu
Hai đứa mình tuy xa cách dài lâu
Nhưng tình ta cùng Việt Nam sống mãi
Như Bắc Nam vẫn còn ngày nối lại1
…Năm 62 cũng qua hết nửa rồi
Nhanh bàn chân dù yếu nhỏ em ơi!
Đi cho vững cho tin về phía trước
Bên máy chém anh vẫn nhìn em bước
Cùng nhân dân đất nước hé môi cười.
1 Anh Vịnh tâm sự thêm với tôi (Lê Văn Ba) rằng thật sự câu ấy là "Bởi tên em và tên anh là Việt Nam nối lại". Hai chữ hoa viết tắt VN là Việt Nam, cũng hiểu ngầm là Vịnh-Như.
Vì 6 năm rồi, kể từ ngày Vịnh bị tuyên án tử hình, Quỳnh Như không biết được tin tức gì về anh. Ai cũng tin là Vịnh đã bị giặc thủ tiêu. Thế là, đầu năm 1967, Quỳnh Như và Trần Quang Long làm lễ cưới. Địch bắt Quỳnh Như vào tù vì tội hoạt động chống chính quyền trong dịp Tết Mậu Thân. Quỳnh Như sinh con trai ở trong tù. Một năm sau ra tù, chị mới biết tin chồng hy sinh ở “R”. Quỳnh Như ở vậy nuôi con cho đến ngày giải phóng miền Nam.
Tháng 5/1975, khi ra tù Côn Đảo, về lại Sài Gòn, Lê Quang Vịnh có tìm đến nhà thăm mẹ con Quỳnh Như. Chị vẫn đẹp như xưa. Nhưng rắn rỏi hơn, đằm thắm hơn nhiều lắm.
Khi Vịnh đến thăm gia đình ông bà Tôn Thất Dương Kỵ, cả hai ông bà đều xúc động, mừng rỡ. Lê Quang Vịnh suy nghĩ bao đêm thao thức. Bây giờ nếu anh đồng ý, thì có thể Quỳnh Như sẽ “đi bước nữa”, sẽ “trở lại” với anh.
Nhưng còn hương hồn nhà thơ liệt sĩ Trần Quang Long thì sao? Hơn nữa lúc đó anh đã yêu chị Khánh... Ba năm sau, năm 1978, anh nghe tin chị Quỳnh Như mất vì bệnh xơ gan cổ trướng.
Trong thời gian hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên những năm 60, 61 của thế kỷ trước. Lê Quang Vịnh còn “quen biết” một người con gái nữa, rất nổi tiếng. Đó là chị Trần Thị Lý. Trần Thị Lý, người nữ chiến sĩ kiên cường trong bài thơ “Người con gái Việt Nam” của nhà thơ Tố Hữu:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên
Em có tuổi hay không có tuổi
Mái tóc em đây, hay là mây là suối
Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông
Thịt da em hay là sắt là đồng?...
Nhà thơ Tố Hữu đã xúc động viết nên những câu thơ rất thật, rất thần: “Cho tôi hôn bàn chân em lạnh ngắt/ Cho tôi nâng bàn tay em nắm chặt/ Ôi bàn tay như đôi lá còn xanh…”
Chị Trần Thị Lý quê ở Gò Nổi, Kỳ Lam, bên dòng sông Thu Bồn, Quảng Nam. Hồi đó chị hoạt động bí mật ở Sài Gòn, làm công tác giao liên của căn cứ Khu ủy ở Củ Chi.
Lúc đó Lê Quang Vịnh đang hoạt động công khai ở Sài Gòn. Trong một lần anh Vịnh được chị Lý dẫn đường đi gặp một đồng chí hoạt động bí mật ở giữa đô thành, hai người quen biết nhau. Trước khi anh Vịnh bị kết án tử hình, chị Trần Thị Lý đã bị địch bắt. Địch dùng đủ cực hình tra tấn vô cùng dã man đối với người con gái duyên dáng ấy. Vì không đủ chứng cớ để buộc tội, chúng phải thả tự do cho chị Lý. Chị được tổ chức bí mật đưa sang Phnông Pênh (Campuchia) rồi đi máy bay ra Hà Nội chữa trị. Chị Khánh, vợ anh Vịnh đã gặp chị Lý ở Hà Nội.
Chị Khánh kể: “Chị Trần Thị Lý là một phụ nữ rất đẹp. Đúng như nhà thơ Tố Hữu mô tả “Em là ai cô gái hay nàng tiên…”. Vừa đẹp lại vừa dịu dàng, nhân hậu. Tuổi tứ tuần mà còn đẹp vậy, chắc lúc trẻ chị Lý là một thiếu nữ xinh đẹp mê hồn. Lê Quang Vịnh là một nhà thơ, máu thi sĩ làm sao mà không bị lay động trước một giai nhân như thế?”
Sau khi Lê Quang Vịnh và các đồng đội bị toà án Sài Gòn tuyên án tử hình, các báo ở Hà Nội tới tấp đăng bài phản đối bản án, tố cáo ngụy quyền Sài Gòn đàn áp trí thức, sinh viên học sinh. Nhưng các báo đều không có một tấm ảnh nào của giáo sư Lê Quang Vịnh cả. May thay, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhớ ra là người nữ chiến sĩ Trần Thị Lý đang chữa bệnh ở Hà Nội đã có lần khoe với mình tấm ảnh Lê Quang Vịnh.
Nhờ chị Lý giữ tấm ảnh, và nhờ trí nhớ tuyệt vời của bác Đồng, các báo đến chỗ chị Lý mượn ảnh. Nhờ đó, ảnh Lê Quang Vịnh mới được đăng lên báo, làm xúc động người đọc cả miền Bắc.
Sau này, một nhà báo đã viết trong bài “Chuyện một nhà giáo tử tù” như sau: “Một lần ra bưng họp, Lê Quang Vịnh có mang theo tập ảnh gia đình trong người, trong đó có bức ảnh ấy. Anh Vịnh có đưa cho các bạn gái trong bưng xem. Tấm ảnh đó đã bị (được?) một người “ém nhẹm” cho riêng mình mà anh không hay. Sau đó anh bị bắt”.1
1 Vào khoảng thời gian đó những người cách mạng hoạt động bí mật ngay giữa lòng đô thị, chưa có những căn cứ ở bưng biền rừng núi. Sự thực là trước khi được chị Lý dẫn đường đi gặp đồng chí mình ngay trong nội thành, Lê Quang Vịnh vừa đi làm hồ sơ ở trường Đại học nên mới đem theo mấy tấm hình (L.V.B.).
Điều quan trọng là chị Trần Thị Lý khi ra chữa bệnh ở Hà Nội đã giữ tấm ảnh ấy như một báu vật của đời mình. Chị Lý đã có lần khoe với bác Phạm Văn Đồng và cả bác Tôn Đức Thắng rằng, người trong tấm ảnh là “giáo sư Lê Quang Vịnh, là người yêu của cháu”. Trần Thị Lý đã đề vào sau bức ảnh kỷ niệm mối tình của mình câu: “Chờ anh mãi mãi, âm thầm chờ anh - Đạo Tĩnh”.
Đạo Tĩnh là bí danh của Trần Thị Lý khi hoạt động ở Củ Chi.
Đó là một “cú sốc tình cảm” lớn đối với Lê Quang Vịnh vì anh không ngờ mình gặp lại “người đẹp quen biết cũ”, trong lúc đã có vợ sắp cưới là Trần Thị Kim Khánh.
Mối tình nồng nàn Lê Quang Vịnh - Trần Thị Kim Khánh đã hóa giải được tất cả những rắc rối do thời gian và lịch sử để lại. Chị Khánh kể, sau đám cưới Vịnh - Khánh, trước khi đi chữa bệnh ở Đức, chị Trần Thị Lý mời chị Khánh đến nhà, nắm tay thân tình, rưng rưng nước mắt nói: “Thôi, chị đi đường chị, chị nhờ em chăm sóc anh Vịnh”.
Chị Lý sau đó lấy anh Tuấn cháu họ bác Tôn Đức Thắng. Anh là giảng viên Đại học Bách khoa Đà Nẵng. Hai anh chị có một đứa con gái. Năm 1992, chị mất vì bệnh tật ở thành phố Đà Nẵng.
Chuyện tình còn nhiều hấp dẫn
Những ngày bị địch bắt giam ở Côn Đảo, phòng giam của Lê Quang Vịnh cạnh phòng giam Trần Trọng Tân (sau này là Trưởng ban tư tưởng văn hóa Trung ương). Chứng kiến Vịnh dũng cảm phản đối chào cờ, hát quốc ca ngụy, anh Tân rất quý cậu thanh niên này. Anh càng khâm phục hơn khi biết đó chính là người tử tù đã nói một câu nổi tiếng khi Tòa án Quân sự đặc biệt Sài Gòn kết tội mình: “Chúng tôi rất tiếc là chưa trừng trị được tên xâm lược Mỹ đầu sỏ ở Sài Gòn.” Hai người đã trở thành bạn thân của nhau. Một lần cao hứng, anh Tân bảo Vịnh: “Mày khá lắm, nếu còn sống được đến ngày giải phóng có chịu làm em tao không? Tao có cô em gái xinh lắm”. Lúc ấy, ai cũng nghĩ đó chỉ là chuyện đùa.
…Sau những ngày vui giải phóng, Anh Hai Tân là Phó Bí thư Đảo ủy Côn Đảo. Về Sài Gòn thăm Lê Quang Vịnh, anh bảo: “Vịnh chuẩn bị tham gia đoàn tử tù Côn Đảo 100 người đi Hà Nội thăm Trung ương, viếng Lăng Bác Hồ. Cô em gái mình là kỹ sư điện vừa học ở Liên Xô về. Nếu chuyến đi này cậu gặp mà “tán” được, mình sẽ gả cho cậu!”
Chị Trần Thị Kim Khánh kể, khi đoàn tử tù Côn Đảo ra thăm Hà Nội, anh Trần Trọng Tân đã mời Vịnh về thăm bố mẹ mình.
Sau bữa cơm thân mật, anh Tân giới thiệu: “Đây là Lê Quang Vịnh, anh hùng hảo hớn ngoài Côn Đảo”. Cả nhà cùng cười. Bước đầu gặp gỡ, Lê Quang Vịnh đã thấy rất mến Trần Thị Kim Khánh, người con gái Quảng Trị nền nã, gốc gác cách mạng, lại rất dịu dàng.
Khi đoàn tử tù vào lại Sài Gòn, Lê Quang Vịnh được ở lại miền Bắc chữa bệnh thêm 15 ngày nữa. Kim Khánh đã nhiều lần vào bệnh viện thăm Lê Quang Vịnh. Một buổi, cô đưa anh đi thăm Lăng Bác. Đêm hôm ấy, mặc dù hai người về chậm, bị bác sĩ phàn nàn về “tội” vi phạm nội quy nhưng anh đang trong cảm xúc dạt dào làm bài thơ “Bên lăng Bác” trong đó có đoạn: “Em hát thì thầm trong đêm khuya vắng/ Anh cài một đóa hồng lên áo em trinh trắng/ Em ngả đầu vào vai anh yên lặng...”.
Tình yêu Vịnh - Khánh nồng nàn đã thuyết phục được tất cả mọi người. Một điều lo lắng mà bà con nội ngoại không muốn nói ra, nhưng có thể ai cũng băn khoăn day dứt trong lòng. Đó là chuyện hệ trọng: Liệu sau 15 năm tù đày, tra khảo, đánh đập, rồi Chuồng Cọp, Hầm Đá, ăn đói, mặc rét, đời tử tù bị coi như thú vật ấy… Lê Quang Vịnh còn có khả năng duy trì nòi giống không?
May quá! Năm 1978, chị Khánh sinh con trai. Anh Vịnh sung sướng đặt tên con là Tự Do: Lê Quang Tự Do.
Rồi 5 năm sau, cháu gái Lê Quang Hạnh Phúc ra đời.
Hiện nay, kỹ sư điện toán, sĩ quan quân đội Lê Quang Tự Do và kiến trúc sư Lê Quang Hạnh Phúc, đang công tác ở hai trung tâm kinh tế chính trị văn hóa lớn của đất nước: Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
Ôi, những ước mơ khát khao một đời người đã thành tên gọi thân thương…
Tình yêu là chuyện riêng của mỗi người, nhưng nó cũng là chuyện của đất nước một thời. Những câu chuyện tình của Lê Quang Vịnh không còn là của riêng anh, mà là của một thế hệ tuổi trẻ Việt Nam đã dấn thân vì Tổ quốc...
Theo Ngô Minh