• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược
  3. Trang 163

Nguyễn Dân Trung

101

  • Tên khai sinh: Nguyễn Đình Quảng
  • Tên khác, biệt hiệu: Hoàng Minh Vân, Nguyễn Minh Vân,
  • Năm sinh: 1932
  • Nơi sinh: Xã Trung Lộc, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Quế Lộc, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
  • Thời gian bị bắt, tù đày

- Tháng 11-1957: bị bắt, giam trong trại Ô-ma (Tổng nha công an - Sài Gòn).

- Tháng 1 - 1958: Trại P. Ca-răng đơ (P.42) sở thú Sài Gòn.

- Tháng 2-1958: Trại giam Mang Cá (Huế).

- Tháng 11-1961: Trại giam Chín Hầm (Huế).

- Năm 1963: lao xá công an Thừa Thiên.

- Tháng 5 – 1964: được trả tự do, tiếp tục hoạt động, 1966 ra miền Bắc.

  • Tác phẩm viết về nhà tù, trại giam:

Sống trong mồ - truyện thơ – NXB Văn học in lần đầu năm 1973, tái bản nhiều lần.

  • Chức vụ đã qua:

Tháng 12-1946: Trưởng ban tình báo Công an Hà Nội.

Tại Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam hiện lưu giữ bản thảo viết tay tập thơ Sống trong mồ của Nguyễn Dân Trung.

Một cuộc đời chiến sĩ, một trường hợp làm thơ

…Ngụy quyền họ Ngô và quan thầy Mỹ đưa xuống Chín hầm những tù chính trị mà chúng đã bao lần tra tấn hỏi cung không ăn thua gì, để bắt họ chịu số phận tử tù. Nhưng chúng không bắn ngay mà buộc người tù kéo dài cơn hấp hối trong muôn vàn đau đớn.

Sống trong bóng tối ở đây anh Năm Trung không thấy mặt bạn tù, trừ cái bóng của bọn lính mang cơm cục cằn dữ tợn. Nhưng trong xà lim chật hẹp anh vẫn phấn đấu để sống, để về với cách mạng. Anh lấy mẩu dây thép ở quai thùng phân và mảnh sắt ở ống bơ gỉ, mài kim, làm dao cắt bao tải may áo, lấy tóc mình bện thành chổi quét ván nằm. Anh phải nhai cơm trộn dầu hôi, trộn đất, nằm trên mảnh ván phủ một lớp bụi dày ẩm ướt lạnh lẽo vì nước dột. Cuộc sống quyết liệt đó kéo dài được ba tháng thì sức khỏe anh bắt đầu xụp xuống. Nhưng một bạn tù tới sau báo tin bên ngoài đã “đồng khởi”. Anh Năm Trung bật dậy, anh nghĩ phải làm thế nào để tố cáo tội ác của địch, làm thế nào để ghi lại sự tích chiến đấu của những người bạn trong tù này.

Thế rồi trong đáy huyệt anh đã đứng lên đi bách bộ trên tấm ván dài tám gang để tìm vần… Làm được câu thơ nào anh lại ngâm lên cho các bạn trong xà lim cùng nghe. Trong đêm dày đặc không giấy bút, anh đã cắt chiếc quai dép cũ làm thành một vòng nhỏ. Cứ làm xong 10 câu anh lại xỏ cái vòng vào một ngón tay. Khi nhấc cái vòng qua đủ 10 ngón, anh ôn lại cho thuộc cả trăm câu. Rồi lại làm tiếp. Vừa làm thơ anh vừa phải đánh nhau với bầy chuột cống tới cắn chân, phải hò hét đuổi rắn hổ mang bò vào xà lim làm ổ.

Suốt mười tháng liền, anh làm thơ không nghỉ ngày nào và đánh dấu những ngày kỷ niệm trong năm bằng số câu thơ của mình. Ngày 1-5 anh làm được ngót 1000 câu, ngày sinh nhật Bác Hồ 19-5, được hơn 1.200 câu, ngày sinh của con anh, anh làm tới 3.000 câu và đó cũng là ngày cuối cùng khi anh thoát ngục Chín Hầm.

Khi tới Chín Hầm lôi ra ba người tù tụi lính đảo chính không biết đây là thứ tù gì vì không có tên, không có bản án. Chúng bèn tống cả lên xe đưa về lao xá ty công an Thừa Thiên để “nghiên cứu”….

Trích lời giới thiệu Sống trong mồ

NXB Văn Học-1973

3.000 câu thơ viết trong ngục Chín Hầm

Tháng 6 năm 1956, Nguyễn Dân Trung (lúc này mang bí danh Nguyễn Minh Vân), nguyên trưởng ban tình báo Hà Nội đang đi công tác cải cách ruộng đất thì đựoc gọi về cơ quan. Giám đốc Nha tình báo chiến lược trực tiếp giao nhiệm vụ mới cho anh:

- Nha đang cần một người có khả năng vào nắm mạng lưới ở miền Trung. Đồng chí quê ở miền Trung, chưa hề bị lộ, có nhiều thuận lợi…

Nguyễn Dân Trung đã nằm ở rừng già Trường Sơn trên đất Quảng Nam một thời gian dài mà cơ quan an ninh của Khu uỷ 5 không đưa xuống Huế được vì địch đang đẩy mạnh chiến dịch tố cộng diệt cộng rất ác liệt, đánh phá dữ dội vào các tổ chức của ta trên khắp địa bàn. Vì vậy năm 1957, cơ quan Tình báo chiến lược Trung ương phải cho anh chuyển vùng vào Sài Gòn để nắm một lưới điệp báo đặc biệt. Công việc đang bắt đầu có hiệu quả thì ngày 1 tháng 11 năm 1957 Nguyễn Dân Trung bị bắt. Bọn mật vụ từ miền Trung vào bắt anh. Tra tấn tàn bạo mà không đạt hiệu quả, địch chuyển anh sang trại giam đặc biệt P.42, một ngôi biệt thự bề ngoài rất “hiền lành” nằm giữa sở thú Sài Gòn nhưng không mấy người biết đây chính là nơi tra khảo tù nhân theo kiểu Mỹ, có cố vấn Mỹ đi sát chỉ đạo nên đòn của chúng vô cùng độc ác và nguy hiểm như kiểu bắt tù nhân đứng nhiều ngày đêm dưới 2 ngọn đèn cao áp cỡ khoảng 500 oát, không cho ăn uống, không cho ngủ, hễ người tù khuỵu chân xuống là bị chúng đấm đá cho đến khi lăn ra bất tỉnh.

Tháng 2 năm 1958, chúng đưa Nguyễn Dân Trung ra Huế, giam vào Lao xá Ty công an Thừa Thiên, nơi tên bạo chúa Ngô Đình Cẩn và bọn mật vụ miền Trung của hắn bắt đầu thực hiện một âm mưu rất xảo quyệt gọi là “chính sách cải tạo và sử dụng người kháng chiến cũ” núp dưới danh hiệu bịp bợm là “chuyển hướng”.

Nguyễn Dân Trung kể lại:

…Lúc đó, do có kẻ đã khai báo cho Cẩn biết rõ chức vụ trong ngành tình báo ở miền Bắc và lý lịch nguồn gốc của tôi là gia đình có tiếng tăm nên Cẩn ra sức mua chuộc bằng mọi cách. (Ông cụ thân sinh – Nguyễn Đình Hiến - là nhà nho uyên thâm trong hàng “Tứ kiệt” xứ Quảng. Thời gian làm quan, Nguyễn Đình Hiến đã nổi tiếng về hai sự kiện: Ông đón hài cốt nhà yêu nước Trần Quý Cáp bị xử chém về quê và lập đàn cúng tế trên bến đò Bồng Sơn. Ông được công sứ Pháp giao trách nhiệm giam giữ chặt chẽ trong nhà lao của tỉnh một người tù nổi tiếng là Đồng Sĩ Bình nhưng Nguyễn Đình Hiến đã đối xử và tiếp đãi người bạn tù một cách thân thiết, nể trọng).

Ngô Đình Cẩn đã tìm mọi cách mua chuộc dụ dỗ nhưng tôi đều bỏ ngoài tai, dứt khoát không ngả theo chính sách “chuyển hướng” mà nó đã bày đặt ra.

Không thể lôi kéo được tôi, ngày 8 tháng 8 năm 1961, Ngô Đình Cẩn hạ lệnh cho quân đưa tôi sang trại giam Mang Cá, nhốt vào biệt phòng, rồi ngày 10 tháng 11 năm 1961, chúng đưa tôi đến tử ngục Chín Hầm.

Tôi bị đẩy lên một chiếc xe Jeep, xe chạy vòng vèo ra khỏi thành phố, đi lên phía núi. Khi tới nơi, chúng nhảy xuống xe mở cửa sắt ầm ầm, rồi kéo tôi vào một cái hầm sâu, tối đen như mực, tôi có cảm giác như đang đi vào một hang núi đá. Dồn sâu vào bên trong, chúng mở cửa một buồng giam đẩy tôi vào, tháo băng bịt mắt cho tôi và đóng sầm cửa lại, khoá chặt.

Khi bọn chúng đã rút hết, chỉ còn một mình tôi trong bóng tối mịt mùng, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu, chẳng biết có phải là ngục nhốt tử tù hay nhà mồ âm phủ!...

Sau này, tìm hiểu tôi mới biết đó là khu vực Chín Hầm, nằm dưới chân núi Thiên Thai, cách Đàn Nam Giao khoảng vài cây số. Chín cái hầm ấy do thực dân Pháp xây để cất giấu vũ khí trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, nhằm chống lại Nhật. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, bộ đội ta vào lấy hết vũ khí và hầm bị bỏ trống. Đến thời kỳ Ngô Đình Cẩn làm chúa tể miền Trung, hắn đã biến những hầm ấy thành ngục tối để nhốt những người tù cộng sản gan góc nhất. Khu vực Chín Hầm trở thành vùng cấm, nhân dân không được đến gần.

Tôi bị giam ở hầm số 8, xà lim số 13. Chiều rộng của mỗi xà lim chưa đầy 1m, chiều dài khoảng 2m, chiều cao khoảng 1,8m. Như vậy là chỉ vừa 1 người nằm. Ở nhiều nhà tù khác, một ngày ít nhất tù nhân cũng được ra ngoài 1 lần đi vệ sinh, thế nhưng tất cả những người tù đã bị đưa vào nơi này là cách ly hoàn toàn với cuộc sống ngoài xã hội, không còn được nghe gì, thấy gì cuộc sống trên trái đất, không gian của họ chỉ là 2 mét khối không khí của cái chuồng tăm tối, hôi hám, ngạt thở trong lòng đất.

Bọn gác ngục đã nghĩ ra nhiều biện pháp quái dị để uy hiếp tinh thần người tù, gây căng thẳng thần kinh đến tột độ, để rằn mặt những người tù chính trị gan góc nhất.

Đang đêm chúng kéo nhau vào hầm quát tháo, hoặc vác gậy đập vào các cửa chuồng, song sắt. Ban ngày, đang đi tuần bên ngoài, chúng thình lình bắn vài phát súng trên nóc hầm gây hoảng loạn, chấn động thần kính khiến người đau yếu nghe muốn rụng tim.

Và thủ đoạn tra tấn chủ yếu của chúng là cách cho ăn vô cùng man rợ, mà tai ác nhất là cho ăn cơm trộn muối kéo dài nhiều ngày. Vậy là chỉ chưa đầy 3 tháng, 5 người tù đã ngã xuống. Cảnh anh em chết thật não lòng. Anh Bích nằm sõng soài trên đống phân, anh Đà nằm nửa người trên ván, nửa người vật ra ngoài, mặt úp xuống nền. Địch bỏ mặc thi thể người chết cho bầy chuột đói, có khi đến 2 ngày mới đem đi chôn.

Là nhân chứng về cái chết của 5 đồng chí ở hầm số 8, tôi nhớ như in những lời trăng trối của họ. Các anh đều có một mong muốn là “anh em không nên tuyệt vọng, bằng mọi cách để sống mà về với Đảng, với nhân dân, để báo cáo sự thật về hoạt động vô cùng nguy hiểm của mật vụ miền Trung và tố cáo tội ác tày trời của bè lũ Ngô Đình Cẩn ở tử ngục Chín Hầm”.

Nguyện vọng cuối cùng của những chiến sĩ can trường quyết tử, thốt lên trước lúc hy sinh đã khắc sâu vào tâm khảm tôi và tôi đã ghi lại điều đó qua 6 câu thơ: “Lời trăng trối mang hồn người sắp chết/ Vọng qua vách, trang nghiêm mà thống thiết/ Các anh ơi! Cố sống thoát một người/ Về với đồng bào - dù chỉ một người thôi! Để tố cáo kiểu hầm giam vô cùng tàn bạo/ Bắt Mỹ ác - Ngụy gian phải đền nợ máu!”

Bắt đầu từ ngày 6/2/1962, sau cái chết của người thứ 9 trong hầm, bọn mật vụ đã thay đổi thủ đoạn đối với 3 người tử tù còn sống sót, trong đó có tôi.

Chúng không để cho 3 chúng tôi chết nhanh mà cấp thuốc uống cho chúng tôi hồi phục lại, rồi tiếp tục đày đoạ để bắt chúng tôi phải chịu đựng cực hình một cách kéo dài vô thời hạn.

Chúng chỉ cấp một số thuốc như thuốc chữa bệnh đường ruột và B1, rồi cho ăn vài ngày cơm nóng, thế là chúng tôi ngồi dậy được. Thấy chúng tôi hồi sức được một chút là chúng lại bắt đầu cho ăn cơm sống, cơm trộn muối, uống nước lã có mùi tanh...

Phải nhấn mạnh rằng, bọn mật vụ của Ngô Đình Cẩn thay đổi biện pháp hành hạ đối với 3 chúng tôi không phải là do nhân đạo, mà chúng sợ nếu cả 3 chúng tôi đều chết thì âm mưu của chúng sẽ thất bại hoàn toàn, bởi vì mục đích của chúng là dùng thủ đoạn “chôn sống” một số tù nhân chính trị cứng đầu với hy vọng kết quả cuối cùng sẽ có ít nhất một người không chịu đựng được sẽ quay đầu làm tay sai cho chúng, cái mà chúng vẫn thường gọi là “chuyển hướng”.

Để đối phó với thâm ý của địch, tôi đã nghĩ ra cách làm thơ kể lại mọi chuyện xảy ra trong nhà tù của mật vụ Ngô Đình Cẩn. Lúc đầu tôi nghĩ, nếu viết bằng văn xuôi làm một bản cáo trạng đanh thép mà trong hoàn cảnh không có giấy bút thì thật khó mà ghi nhớ được nên phù hợp nhất là làm một loại thơ kể chuyện, với lời lẽ giản dị và tình cảm chân thực từ chính lòng mình. Thế là tôi bắt đầu sáng tác truyện thơ “Sống trong mồ” vào khoảng cuối năm 1962, đầu năm 1963.

Thời gian sống kinh hoàng đó, tôi đã chịu đựng cực hình và bệnh tật bằng cách làm thơ để tránh cho đầu óc không bi quan, tiêu cực hoặc phát cuồng, phát điên. Động cơ thôi thúc tôi là ý nghĩ phải thực hiện nguyện vọng của những người đã khuất, phải cho mọi người thấy rõ Chín Hầm đúng là một địa ngục trần gian, bè lũ Ngô Đình Cẩn và mật vụ miền Trung đúng là một bầy quỷ dữ. “Phải ráng sống lấy một người để còn kể lại cho đồng chí, đồng bào biết tội ác của kẻ thù ở nơi địa ngục này”.

Cách làm thơ của tôi là cứ làm được 10 câu thì dừng lại rồi tự nhẩm thuộc lòng. Suốt 10 tháng liền sống trong hầm, hằng ngày đi lại trên tấm ván dài 8 gang tay để làm thơ vừa làm vừa nhẩm thuộc, và đọc to cho bạn tù nghe. Ngày mùng 2 tháng 11 năm 1963, đúng vào ngày sinh nhật con trai tôi, được đánh dấu bằng câu thơ thứ 3.000.

Chính khi ấy cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm đang diễn ra và ngày hôm sau, chiều mùng 3 tháng 11 năm 1963, lúc trời sắp chạng vạng, một tốp quân đảo chính của Dương Văn Minh đến chiếm khu vực Chín Hầm, phát hiện ra chúng tôi đang bị giam ở hầm bí mật số 8 nên đã lôi chúng tôi ra, đưa về Ty công an và dinh tỉnh trưởng ở Huế để xin ý kiến giải quyết.

Trong hoàn cảnh ấy, tôi báo cáo với chi bộ về 3.000 câu thơ tôi đã sáng tác ở Chín Hầm, mọi người đều cho rằng cần phải chép lại gửi ra ngoài trước khi địch tái lập chế độ giam giữ khắc nghiệt của chúng.

Vậy là mọi người đã giúp tôi có đủ giấy bút, đứng xung quanh che kín để tôi có thể ngồi chép lại 3.000 câu thơ trong khoảng 3 ngày.

Sống trong mồ - đó là tên của truyện thơ viết tại tử ngục Chín Hầm năm đó - được chia làm 3 phần. Phần 1 dài 1.200 câu có tên là Ngày thứ nhất trong mồ kể về cảm nhận của tác giả những ngày đầu tiên bị đưa vào biệt giam Chín Hầm. Phần 2 dài 1.000 câu kể về cuộc đời của những người bạn tù đã chết ở Chín Hầm. Phần 3 dài 800 câu có tên là Mai Ca. Đó là bí danh của một người bạn tù nghịch ngợm, vượt ngục không thành và bị địch tra tấn đến chết. Tôi thấy tiếc là khi in thành sách, một số tên thật của nhân vật đã bị thay đổi do yêu cầu nghiệp vụ. Nếu có điều kiện tái bản, nhất định tôi sẽ lấy lại tên thật cho họ, đồng thời sẽ in đầy đủ cả 3.000 câu thơ để bày tỏ lòng tri ân với những linh hồn đồng chí đã hy sinh trong địa ngục Chín Hầm và những nhà tù của Mỹ - Ngụy năm xưa.

Nhắn nguyệt

Sài gòn đây Bé Nguyệt1

Bao giờ Bé sang chơi

Nhớ lượn qua Sở Thú2

Cho ta nhắn vài lời.


Phá vòng vây vũ trụ

Say sưa cuộc viễn du

Thênh thang ngoài cõi trống

Nguyệt có hiểu lòng ta?


Một mình nằm phòng hẹp

Nền gạch lạnh hai vai

Thời gian bò chầm chậm

Dòng ý nghĩ trôi dài


Ngoài kia đời rộn rịp

Cuộc sống vẫn quay cuồng

Ai no say ngất ngưởng

Ai bụng lép lưng còng?


Ai cúi đầu bán nước,

Ai lăn lộn đấu tranh?

Ai hầm hè gây chiến,

Ai bảo vệ hòa bình?


Bé Nguyệt ơi, Bé Nguyệt

Ta không thể nằm yên

Thưa dùm các đồng chí

Nhiệm vụ tôi không quên.


Dù một giây một phút

Nỡ nào để trôi suông.

Bằng lời thơ chiến đấu

Ta mài một lưỡi gươm


Đây lời thơ nồng nhiệt

Máu và óc của ta

Thiết tha nhờ Bé Nguyệt

Gửi đến bạn gần xa.


Nguyễn Dân Trung

Xà lim P42-1/1958

1 Cuối năm 1947, Liên Xô phóng vệ tinh spoutnik, các báo Sài Gòn gọi spoutnik là Tiểu Nguyệt (Bébé lune).

2 Sở Thú là vườn bách thú Sài Gòn nơi có nhà giam P42 nguyên là một biệt thự nằm trong Sở thú.

Tiếng thét hờn căm từ địa ngục Chín Hầm

(trích)

(Bài thơ này tác giả viết sau khi ra tù)


Các anh nằm trong sỏi đá

Vùi dưới gốc cây

Đá nhói, rễ đâm tháng ngày ròng rã.


Một đêm đông

Mười ba năm về trước

“Quỷ dữ miền Trung” lùa tù xuống vực

Đẩy vào địa ngục.


Đoàn tử tù mắt bịt, tay xiềng

Rời mặt đất xuống hầm đen lạnh lẽo.

Mang trên người những vết thương thành sẹo

Chỉ tấm lòng còn lành lặn y nguyên

Rồi mỗi anh một chuồng, đằng đẵng nghìn ngày đêm

Sống cực, sống đau, chết mòn, chết héo.

Các anh: Những người hầm thế kỷ hai mươi

Như người cổ sơ trần trụi giữa hang dơi

Các anh ở: Hai thước chuồng lạnh hơn hốc đá

Ngày thiếu ánh mặt trời đêm không ánh lửa

Các anh thở rặt mùi phân

Nằm trên ván trét bùn

Đánh nhau với chuột

Bạn cùng dế giun

Các anh ăn:

Cơm sống trộn dầu hôi mắm tanh mùi thịt rữa

Các anh uống: Nước khe nước lá

Quần áo các anh là giẻ rách tả tơi

Lộ rõ hình tù bụng hở lưng phơi

Tấm thân gầy nghìn ngày không tắm rửa

“Ghét đóng thành chai/Râu rậm dài tua tủa

Tóc rối xù xuống vai ....


…Như những thây ma gọi bầy quạ xám

Cơ thể các anh làm mồi cho bệnh hoạn

Anh thì bị sưng

To như trâu trương

Lưng nằm chật ván

Trở mình không đặng.

Anh thì bị teo

Chân cẳng lèo khèo

Đứng lên lẩy bảy

Có anh bị liệt

Tay tê sức kiệt

Chẳng bưng được cơm

Đành phải há mồm

Úp mặt xuống bát

Mà liếm từng hạt.


Có những anh mê sảng lên cơn

Kêu rú thất thanh như bị ăn đòn

Nghe đá nặng đè lên ngực lép

Xác bị căng ra xuyên muôn dùi thép.


Các anh đau đớn triền miên

Trơ trọi chuồng đen, một mình vật vã

Nhưng vẫn nhắc nhau nuôi dưỡng niềm tin

Quyết gan lỳ chống đỡ…


…Đất nước còn chia đôi

Quê hương đầy tang tóc

Không! Không thể sống như những thằng mất gốc!

Sống làm người, có tim có óc

Các anh-dù ở đáy mồ-vẫn sống với nhân gian

Sống giữa chiều sâu của nghĩa nước tình dân

Nhìn cái chết như nhìn mặt kẻ thù không hề sợ hãi

Lòng bình yên trước phút lìa trần

Chết quằn quại âm thầm nhưng đầy thắng lợi!


Ôi phút thiêng liêng từ giã bạn chung hầm

Người đi trước thều thào câu vĩnh biệt

Kẻ ở lại sau lắng nghe lời tâm huyết

Lòng quặn đau thương xót bạn khôn cầm.


Lời trăng trối mang hồn người sắp chết

Vọng qua vách trang nghiêm mà thống thiết.


“Các anh ơi cố sống lấy một người

Về với đồng bào, dù chỉ một người thôi!

Để tố cáo kiểu hầm giam vô cùng tàn bạo

Bắt Mỹ ác ngụy gian phải đền nợ máu!”


Ôi tiếng gào xé ruột, tiếng thét hờn căm

Vang mãi lên từ địa ngục Chín hầm!

Mười mấy năm qua, nằm trong hố sỏi

Các anh không ngừng thiết tha kêu gọi


Lời các anh không riêng của các anh

Mà của vạn hồn oan từng bị cực hình

Ở Phú Lợi, Ô-ma… ở Chí Hòa, Côn Đảo…

Ở tất cả các nhà giam của phường hung bạo.


Và giờ đây từ hố xương khô

Hồn các anh thoát lên thành ngọn lửa căm thù

Tiếng các anh gọi truyền đi như lửa réo

Ngùn ngụt bốc cao tỏa đi khắp nẻo…

1973

Nguyễn Dân Trung

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 162
  • 163
  • 164
  • More pages
  • 173
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 162
  • 163
  • 164
  • More pages
  • 173
  • Sau