• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược
  3. Trang 164

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 163
  • 164
  • 165
  • More pages
  • 173
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 163
  • 164
  • 165
  • More pages
  • 173
  • Sau

Phan Duy Nhân

102

  • Tên khai sinh: Nguyễn Chánh Dinh
  • Tên khác, biệt hiệu: Nguyễn Chính, Phan Duy Nhân, Dương Phù Sao, Thiết Sử…
  • Năm sinh: 1941
  • Nơi sinh: Quảng Trị
  • Thời gian bị bắt, tù đày:

- Năm 1966 bị bắt giam tại nhà lao số 11 Quảng Nam.

- Năm 1968, bị bắt giam tại nhà lao Kho đạn Đà Nẵng.

- Năm 1969: Lưu đày ngoài nhà tù Côn Đảo.

  • Tác phẩm viết về nhà tù, trại giam:

- Thơ: Thư nhà

- Hồi ký: Sắt son một lòng trong đội ngũ

  • Chức vụ đã qua:

- Quyền Trưởng Ban tôn giáo của chính phủ.

- Trưởng tiểu ban công tác tôn giáo thuộc Ban dân vận TW Đảng.

Thơ anh, đời anh

Anh là nhà thơ. Một ngọn cờ trong phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên miền Trung những năm 1960. Cha anh đã lập ban thờ vì nghe tin anh chết trong tù. Con anh được nhìn mặt cha lần đầu, khi nó lên mười. Cùng là bạn bè thân thiết nhưng người làm thơ ca ngợi anh người viết bài “chửi” anh. Sống giữa thủ đô Hà Nội, là cán bộ cấp cao của đảng nhưng suốt mười năm anh không biết mình mang nghi án kẻ phản bội. Trải qua một cuộc bể dâu… Anh về hưu, sống tại thành phố Hồ Chí Minh: “như một đại lão hòa thượng”. Và anh vẫn làm thơ…

Ngay từ thuở đi học, Phan Duy Nhân đã nổi tiếng thơ hay, những bài thơ tình của anh mượt mà, đằm thắm, trẻ trung:

... Anh sẽ cười buồn làm em rơi nước mắt

thế giới chúng mình lênh đênh mùa mưa

anh biến thành thuyền, em biến thành thơ

ta sẽ dong chơi cùng vầng trăng mời mọc.

(Thần Thoại, tạp chí Bách Khoa số 121,15/ 01/1962)

“... tay em dài mỗi ngón lá phong lan

hãy góp cho nhau mươi cánh phương thảo trắng

nước mắt làm mưa thu, môi hồng làm nắng sáng

để anh dựng lâu đài trên ngực cao nguyên

để anh ngó xuống đời bằng cặp mắt vành khuyên

bằng đôi cánh bồ câu vỗ lên vầng trán biếc…

(Bày tỏ, Bách Khoa số 126, 01/ 4/ 1962)

Một người trẻ đang miệt mài sách vở, đang say đắm trong mối tình đầu bỗng chốc nổi danh là một trong những chiến sĩ kiên cường trong phong trào đấu tranh cách mạng của học sinh sinh viên miền Trung. Ban đầu, có người nghi ngờ đây là tình cảm bột phát, là a dua phong trào. Nhưng hoàn toàn không phải. Trong một đoạn hồi ký, Nguyên Chánh Dinh tức Phan Duy Nhân kể lại:

“... Năm 14 tuổi Dinh đã biết cha mình là cơ sở hoạt động bí mật của cách mạng tại nội thành Đà Nẵng, thường xuyên đón cán bộ về họp tại nhà. Trong số cán bộ đó có ông Hồ Vinh, một thầy giáo dạy Dinh, trong kháng chiến chống Pháp từng là phóng viên của báo Nhân Dân tại Khu V. Cũng chính qua cha và người thầy giáo này mà Dinh sớm giác ngộ cách mạng, trở thành người liên lạc cho tổ chức hoạt động bí mật tại Đà Nẵng. Tháng 2-1957, vì một kẻ phản bội tố giác, thầy giáo Hồ Vinh bị địch bắt, bị tra tấn đến chết, nhiều cán bộ khác cũng bị bắt, tổ chức cách mạng bí mật bị phá vỡ, cha con Dinh phải tạm ngừng hoạt động. Những năm tháng học trung học tại trường Phan Chu Trinh, Đà Nẵng sau đó, tuy bị mất liên lạc với tổ chức nhưng sẵn lòng yêu nước, Dinh vẫn nung nấu một ý chí cách mạng, sẵn sàng “nổi loạn”, chống đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ…”

Và những vần thơ “nổi loạn” bật ra từ trái tim yêu nước của Phan Duy Nhân – người con họ Phan một lòng vì nhân dân – tên hiệu anh tự đặt cho mình.

…Nòi giống Việt thương yêu đời sống Việt

Triệu con người vươn lên từ cõi chết

Yêu anh em, yêu xã hội công bằng

Người yêu người xây dựng đến muôn năm.

(Tiếng Hát của Người Đi Tới)

Một bài thơ tâm huyết nữa, hừng hực khí thế cách mạng có nhan đề Thư gửi các bạn thanh niên của Phan Duy Nhân được lưu truyền rất rộng rãi trong học sinh sinh viên miền Trung.

Thời gian này ở Huế, có tập san Nhận thức do một số anh chị em học sinh, sinh viên lập ra, đăng nhiều bài kêu gọi đồng bào tham gia phong trào yêu nước.

Từ Hội An, Phan Duy Nhân nhờ một người bạn đem bài thơ anh mới sáng tác ra Huế để đăng trên tờ Nhận thức. Bài thơ có đoạn:

Hãy đứng dậy tất cả

Đấu tranh không mất gì

Trừ cái gông trên cổ

Trừ dây xiềng trên tay.

Hãy chiếm mỗi ngã tư

Trái tim làm khí giới…

Cùng anh em đồng đội tiến lên!...”

Ngay lập tức Phan Duy Nhân bị bắt.

Tên thiếu tướng tư lệnh Vùng 1 chiến thuật Quân đội Sài Gòn trực tiếp tra hỏi Phan Duy Nhân:

- Ai dạy cho anh Tuyên ngôn Cộng sản để anh biến thành thơ ca kêu gọi nổi loạn?

Phan Duy Nhân trả lời:

- Tôi làm bài thơ này là từ suy nghĩ và cảm xúc của tôi.

Rồi anh nhớ lại: Quả thật mình đã đọc Tuyên ngôn Cộng sản, không biết ở đâu? Hình như ở thư viện Đại học Huế, cuốn sách nhỏ in bằng tiếng Pháp. Có một câu rất hay, in rất sâu vào trí nhớ của anh và nhuần nhuyễn chuyển thành vần điệu thơ anh. Đó là câu kêu gọi người nô lệ vùng lên đấu tranh, thắng lợi thì được cả thế giới và không mất gì cả, có mất chăng chỉ là mất cái xiềng. Trong bài thơ của mình Phan Duy Nhân đã chuyển thành cái gông.

Phan Duy Nhân bị An ninh Quân đội Sài Gòn dùng cực hình tra tấn cốt tìm ra đầu mối tổ chức cách mạng hoạt động bí mật tại Hội An và Đà Nẵng. Mọi cố gắng của đối phương vô ích, và vì chúng không có chứng cứ cụ thể gì, ngoài bài thơ anh viết, gửi qua một người bạn nhờ mang ra Huế tình cờ lọt vào tay bọn an ninh. Còn tác giả bài thơ thì nghiến răng chịu bao đâu đớn, chỉ có một lời khai duy nhất “Tôi làm bài thơ này là từ suy nghĩ và cảm xúc của tôi”. Sau nửa năm giam giữ, chúng đành thả anh ra.

Sau khi ra tù, Phan Duy Nhân chính thức được thường vụ thành ủy Đà Nẵng cử tham gia hoạt động công khai trong phong trào đấu tranh của Phật giáo, thanh niên, học sinh, sinh viên Đà Nẵng.

Anh là Ủy viên Thường vụ của Ban lãnh đạo “lực lượng nhân dân tranh thủ cách mạng”, Ủy viên liên lạc miền Vạn Hạnh của Phật giáo miền Trung (từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi). Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, anh được giao làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Lâm thời Thành phố Đà Nẵng. Sáng mùng 1 Tết, anh dẫn đầu cuộc biểu tình, thị uy của bà con phật tử và nhân dân thành phố Đà Nẵng chiếm trụ sở chính quyền. Đoàn biểu tình bị đàn áp. Phan Duy Nhân bị bắn gãy chân và bị bắt đem về Ty Cảnh sát Gia Long, giải qua Trung tâm thẩm vấn Thanh Bình, giam tại nhà lao Kho Đạn, Đà Nẵng.

Tháng 9 năm 1968, Phan Duy Nhân bị đày ra Côn Đảo. Năm 1970, nhận được tin anh đã hi sinh, Báo Văn nghệ giải phóng và Đài phát thanh giải phóng đã phát bài “Phan Duy Nhân, một nhà thơ trẻ biết xung phong”, tác giả là Hoàng Phủ Ngọc Phan, bạn anh, một sinh viên cùng hoạt động trong phong trào đấu tranh ở Huế, lúc đó đang công tác ở chiến khu. Báo Đất nước của một nhóm trí thức và sinh viên yêu nước xuất bản ở Sài Gòn cũng đăng bài tưởng niệm anh.

Tại một quán cà phê trên đường Lê Lợi, Sài Gòn, một số bạn bè của anh ngày trước, trong đó có cả P.N.N., một cây bút chống Cộng nhiều người biết, đã tổ chức buổi gặp mặt để tưởng nhớ anh.

Tin anh bị chết trong tù đến tai cha mẹ anh. Tin dữ đến, liên tiếp sau tin em gái anh bị chết đuối, tin người em trai bị bom Mỹ giết, nay lại đến tin anh - người con duy nhất còn lại bị chết trong tù, mẹ anh phát bệnh tâm thần, ngẩn ngơ.

Còn cha anh nghẹn ngào tìm tấm ảnh anh để lại, phóng to, lập bàn thờ anh.

Cuối tháng 3/1975, Đà Nẵng được giải phóng, Phan Duy Nhân, báo tin cho cha mẹ biết anh đã trở về. Và anh đã trở về, gỡ khỏi ban thờ tấm ảnh mình phóng to, đặt sau bát hương đã 5 năm tỏa khói từ những nén hương bàn tay người cha đau khổ thầm lặng đốt lên. Anh nhìn mẹ, nhưng mẹ anh hoàn toàn lú lẫn, vĩnh viễn không nhận ra anh, hỏi “ông” gặp ai? Anh vào thành phố Hồ Chí Minh tìm gặp vợ. Vợ anh, sau ngày chồng bị bắt ít lâu đã phải ôm con vào Sài Gòn kiếm sống. Những năm bị giam ở Côn Đảo, nhân có người bạn tù được tha, Phan Duy Nhân viết thư nhờ bạn chuyển tận tay cho vợ mình và cũng là để nhắn tin cho đồng đội biết mình còn sống. Đề phòng thư thất lạc, anh yêu cầu bạn học thuộc lòng những lời tâm sư, dặn dò của mình. Dễ thuộc dễ nhớ thôi bởi đó là những vần thơ. Thơ mà lại là thư! Rất tiếc anh bạn tù không tìm gặp được chị Hà vợ Phan Duy Nhân, nhưng bài thơ được in trên báo Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ dưới tiêu đề Thư nhà. Hôm nay, anh gặp lại vợ, ôm con vào lòng, đứa con đã gần mười tuổi, bây giờ cha con mới biết mặt nhau!

Nước nhà thống nhất, sau những năm tháng vất vả, cuộc đời Phan Duy Nhân dễ chịu an nhàn hơn. Ông lần lượt đảm nhiệm nhiều cương vị công tác khác nhau tại địa phương, và đến năm 1990, ra Hà Nội, làm Phó Trưởng ban Tôn giáo của Chính phủ. Thơ Phan Duy Nhân thời gian này lấp lánh những niềm vui:

Mới gió Lào khô đã heo may Hà Nội

Chon von đỉnh núi giong buồm

Thuở trước thiền sư làm chính ủy

Câu thơ tới giờ còn mang gươm!

Thơm dấu hài thêu khuya chuyện cũ

Giữa Hàng Đào cô Tấm có là em?


Ôi em đẹp với vô cùng mà đời ta có hạn

Gió lộng vẫn ngang trời

Trong đáy mắt hồ Gươm...

(Vĩ Thanh - Hà Nội, những mùa sen 1990)


Em đến bao giờ với thủ đô

Tái tê sương giá mặt Tây Hồ

Đào ơi anh vượt bao sông núi

Chẳng kịp về em cũng nở ư?

(Hồ Tây hoa đào nở sớm)

Nhưng. Có phải số phận mỗi người như đại thi hào Nguyễn Du đã than thở Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Nhiều đồng chí, bạn bè mừng khi thấy ông trở thành nhà nghiên cứu sâu sắc về tôn giáo. Và cũng không ít đồng chí bạn bè chê bai dè bỉu ông, đặc biệt trong số này có một người bạn trước đây rất thân với ông. Người bạn này, năm trước, khi nghe tin ông chết trong lao tù đã tham gia tổ chức truy điệu ông ngay tại một quán cà phê trên đường Lê Lợi giữa thành phố Huế còn giăng đầy, cánh sát lính cộng hòa. Giờ đây bạn lại viết bài dè bỉu ông, lời lẽ nặng nề và cho rằng cái chức ông nhận được chỉ là hư danh! Cùng thời gian này có đơn tố cáo Nguyễn Chính trong thời gian bị bắt và bị tù đã đầu hàng địch, khai báo và có hành động phản bội. Thế là đang chuẩn bị nhận quyết định bổ nhiệm làm Trưởng Tôn giáo chính phủ, ông bị điều về làm chuyên viên cao cấp của Ban dân vận Trung ương ương đảng. Về gia đình, những năm này Nguyễn Chính cũng nhiều chuyện đau buồn: Cha ông đau ốm, một mình tìm vào bệnh viện rồi chết trong đó. Đứa con gái đang học đại học, bị tai nạn bỏng nặng toàn thân. Nhà tâm linh bảo mấy chục năm Nguyễn Chính vẫn trong vòng đại hạn. Nhà “khoa học” nói ông như tên lửa vũ trụ vùng vẫy mãi vẫn không thoát ra khỏi từ trường của vầng “Mặt trời đen”. Phan Duy Nhân chôn nỗi đau vào thơ (Những nỗi đau âm thầm/ Khối tình chôn giữa ngực).

Các chiến sĩ cách mạng khi sa vào tay kẻ địch, bị bắt, bị tù đày là đứng trước thử thách ác liệt: Chỉ có một mình đối mặt với kẻ thù độc ác, thâm hiểm. Dũng cảm, trung kiên một mình mình biết. Nhiều người bị kẻ địch phao tin đầu hàng, hợp tác với chúng.Vì thế, khi được trở về với đội ngũ những cựu tù chính trị đều phải chịu sự kiểm tra khá nghiêm khắc của tổ chức. Và không tránh khỏi có những thiệt thòi đáng tiếc đã sảy ra mà Nguyễn Chính là một trường hợp cụ thể. Thì ra suốt 25 năm qua, Nguyễn Chính bị nghi ngờ vì lá đơn tố cáo nọ mà ông không hề hay biết. Cũng “may” là nhân dịp đề bạt ông, nội dung đơn tố cáo được đưa ra xem xét, điều tra, làm sáng tỏ. Lúc này mới phát hiện lầm lẫn chết người: Có một Nguyễn Chính nữa cũng bị bắt và bị tù Côn Đảo đã đầu hàng, phản bội. Nhưng người này nhiều tuổi hơn ông, bị bắt trước ông, ra tù cũng trước ông, khi ra tù đã trình báo với tổ chức tất cả những việc mình làm và đã bị xử lý kỷ luật. Người đó vẫn còn sống và đã gặp những cán bộ được giao đi xác minh sự việc. Thế là sự thật được sáng tỏ!

Năm 1998, ông trở lại làm Phó ban Tôn giáo của Chính phủ, phụ trách phía Nam. Ba năm sau thì nghỉ hưu.

Phan Duy Nhân, chàng sinh viên trẻ tuổi tính tình sôi nổi, tranh luận hùng hồn, có trí nhớ tuyệt vời. Hôm nay ông trong bộ đồ nâu như một đại lão hòa thượng. Ông vẫn vui vẻ thấy mình còn may mắn hơn rất nhiều người. Những người đã nằm xuống vĩnh viễn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc, tự do cho nhân dân. Ông thấy may mắn còn sống ở đời để được gặp lại những người bạn và cả những người quen cũ mình gia ơn và chịu ơn họ. Như trường hợp một lần về Ninh Thuận, tình cờ Phan Duy Nhân thấy ảnh mình treo trang trọng trong một gia đình nọ. Hỏi ra mới biết đây là nhà N.C viên cựu sĩ quan cảnh sát dã chiến Sài Gòn , người đã cầm cẳng chân bị bắn gãy của ông, xoay qua xoay lại nhiều lần để tra hỏi ông tại Ty Cảnh sát Gia Long. Đó là dịp Tết Mậu Thân 1968. Năm 1975, ta giải phóng Đà Nẵng, N.C. ra trình diện cách mạng. Nhìn thấy ông, viên sĩ quan cảnh sát Sài Gòn này sợ đến khiếp đảm. Nhưng Phan Duy Nhân nhẹ nhàng hỏi thăm N.C. chuyện gia đình, nói hãy quên đi chuyện cũ, thành tâm cải tạo cho tốt để sớm được về. Đúng 10 năm, hai người xúc động gặp lại nhau, xiết chặt tay, ôm chặt vai nhau. NC kể đã tìm được tấm ảnh Phan Duy Nhân trên một tờ báo, đem chụp lại, phóng to và treo cao trong nhà.

Phan Duy Nhân cho biết: “Bữa ấy, được về Tổng y viện Duy Tân, nhìn những người mặc áo blouse trắng đứng quanh và cái chân gãy nát, tôi nghĩ chắc họ cưa chân của mình. Song lúc đó có một bác sĩ đã quyết định mổ để cứu cái chân của tôi rồi băng bó rất cẩn thận. Ông ta còn giấu cả thuốc viên trụ sinh, kháng sinh trong lớp vải băng và ở băng-ca dưới lưng tôi nằm”. Người bác sĩ đó tên là Lê Ngọc Dũng. Khi quân ta tiến công giải phóng tỉnh Quảng Đà, bác sĩ Dũng đã cùng mọi người tìm cách giữ lại nguyên vẹn trang thiết bị của Tổng y viện Duy Tân, nay là bệnh viện Đà Nẵng.

Nhà thơ, người thương binh Phan Duy Nhân đã gặp lại và chân thành cảm ơn Bác sĩ Dũng hiện là giám đốc bệnh viện.

Đời người có hạn, nhưng đích thực thơ thì trường tồn. Kể từ những bài thơ tình đầu đời, những bài thơ gọi đấu tranh, cho đến những bài thơ thiền triết hôm nay, Phan Duy Nhân nguyên vẹn một nhà thơ :

Biển như vầng trán rộng

Thương đời triệu nếp nhăn

Người còn trong hữu hạn

Cứ nghĩ ngoài xa xăm

…Biển muôn đời dào dạt

Mà tĩnh lặng khôn cùng

Ra tới ngoài vô hạn

Biển chảy vào không trung.

(Biển - Phan Duy Nhân )

Dương – Hà - Mai

Sắt son một lòng trong đội ngũ

(Hồi ký của Phan Duy Nhân)

Tôi bị địch bắt cả thảy ba lần, lần đầu năm 1959, lần cuối bị giam ở Côn Đảo gần 7 năm.

Từ năm 1969 đến 1973, do kết quả đấu tranh liên tục của gần một vạn tù nhân cộng với sự hỗ trợ của chiến trường và phong trào ở bên ngoài mà các trại tù ở Côn Đảo gần như được tự quản. Chúng tôi tổ chức sinh hoạt nội bộ, đẩy mạnh việc học tập chính trị, văn hóa và xây dựng lực lượng, củng cố khối đoàn kết tù nhân. Chúng tôi nắm được nhiều tin tức phấn khởi dồn dập từ chiến trường, từ hội nghị Paris và phong trào đấu tranh ủng hộ của nhân dân thế giới. Tổ chức đảng bí mật của nhà tù đã theo dõi thường xuyên tình hình tin tức thời sự qua đài thu thanh được bảo quản tuyệt mật qua số cơ sở trong binh lính, giám thị và các đợt anh em tù mới từ đất liền ra. Nhờ vậy chúng tôi nắm được toàn văn hiệp định và các nghị định thư của hội nghị Paris, cả những lời kêu gọi chiến đấu hào hùng, kiên quyết của Đảng và Mặt trận ở chiến trường. Các lao Côn Đảo vẫn trong cảnh lao tù nhưng tràn ngập tinh thần phấn khởi ở thắng lợi cuối cùng và chờ ngày giải phóng.

Thời gian này, do tin tức nhầm lẫn, ở nhà nghe tin tôi đã hy sinh ở hầm đá trại 2 (Sự thực người hy sinh là đồng chí Nguyên Việt Hùng sinh viên, biệt động Sài Gòn, hồi 1964 -1965 từng là cơ sở ở Đà Nẵng - Huế, công tác với tôi). Trên tạp chí Trí thức mới và báo Văn nghệ giải phóng phát hành từ căn cứ Trung ương cục miền Nam năm 1971 đăng bài “Truy niệm” Phan Duy Nhân một nhà thơ trẻ biết xung phong”. Tin tức lan tới một số đồng đội và bạn bè tôi ở Huế, Sài Gòn; anh em cũng bí mật tổ chức tưởng niệm khéo léo loan tin” Về sự mất tích của một người làm thơ” (là tôi) trên một vài tờ báo tiến bộ. Cha tôi lập bàn thờ con, đặt bát hương và ảnh thờ, lấy ngày tôi thoát ly 30 - 6 làm ngày giỗ. Mẹ tôi khóc ngất, mấy hôm sau bị loạn thần cho đến ngày nay. Vợ con tôi bị địch o ép khủng bố phải bỏ quê vào Sài Gòn kiếm sống.

Qua một đồng chí được giải về đất liền để trả tự do, tôi viết cho gia đình và cũng để thông tin cho đồng đội ở nhà một bài thơ dài, nhờ đồng chí này học thuộc. Đồng chí đã không tìm gặp được vợ con tôi nhưng bài thơ thì báo Văn nghệ giải phóng khu Trung Trung bộ nhận được và sau này đã cho đăng dưới nhan đề Thư nhà.

Đó là bài thơ dưới đây:

Thư nhà

(Trích)

Hồi anh vượt núi về Tiên Phước

Có nhận thư em ở dọc đường

Giấy đã nhàu hoen nhiều nước mắt

Anh nhìn nhòe nét chữ em run…


Em kể:

“Anh đi, nhà bị đuổi

Ngày sinh em nhớ thấy chiêm bao

Ôm con em cũng theo lên núi

Đi kiếm anh hoài mới gặp nhau

Có khổ nghèo chi em chẳng sợ

Cái chi anh dặn cũng vâng lời

Nhưng còn anh bảo đừng thương nhớ

Đừng khóc vì anh, em chịu thôi

Đôi lần em cũng nguôi đi được

Nhưng mỗi lần nguôi lại giận mình:

Anh của em nằm trên mặt trận

Ở nhà yên ấm hóa em quên…”

Rừng cũng rưng rưng màu nắng nhạt

Người thương theo mỗi chữ thư em:

“Mơ màng nhớ tiếng tim anh đập

Có bữa bồng con thức suốt đêm

Anh ở xa hoài đâu biết được

Bữa nay em cũng khá hơn rồi

Nghe tin mỗi trận bên mình thắng

Em thấy gần thêm những nỗi vui

Anh đi đường sẽ bao nhiêu dặm


Em quyết dài theo một tấm lòng

”Con biết bò rồi, gần đứng được

Mỗi ngày trông mỗi giống cha hơn”…

…Cô chú vẫn thường hay ghé lại

Quà mua cho cháu, nhắc tin anh

Mấy bác trong tù còn nhắn dặn:

Có chồng kháng chiến, nhớ vui lên”

Em ơi, chiều đó dầm chân xuống

Dòng nước sông Tranh mát rợi người

Những nụ hôn thầm trong gió núi

Gửi về có tới được xa xôi...?

Trong anh một bóng cờ bay đỏ

Một biển yêu thương sóng dạt dào

Vẫn ngọt câu Kiều trong lửa đạn

Nằm hầm bí mật nhớ thương nhau

Anh qua nhiều lắm làng thiêu rụi

Khét khói bom trên xác mẹ già

Đất uất căm hờn người nổi giận

Lửa bừng trong mắt kẻ không cha…


…Trưa này trong khám nằm nghe biển

Ngoài gió mênh mông gợi nhớ nhà

Em chắc đang cùng con tập nói

Mỗi chiều thắc thỏm nhắc tên cha

Con ạ, chưa làm tròn nhiệm vụ

Ở tù ba cứ thấy băn khoăn

Bên ngoài các bác cùng cô chú

Chắc phải bù thêm những máu xương...

Nhớ bữa về thành nằm bí mật

Gan bào ruột xót nhớ thương con

Mấy lần ba nóng ran trong ngực

Đêm lạnh ngang nhà lặng bước luôn

Thôi thế phải còn mươi trận nữa

Sẽ về để nắm chặt tay nhau

Để nhìn đăm đắm vào trong mắt

Xem có ngời vui những ánh sao!

Anh nhớ điên cuồng yêu dữ dội

Xóm làng giữa ngực núi trong tim

Sáng hoài giữa cõi thiêng liêng ấy

Có bóng con cười cạnh dáng em.

Hầm đá lao 2 - Côn Đảo 1969

Phan Duy Nhân