- Năm 1972 sáng lập và làm chủ tịch Mặt trận văn hóa dân tộc miền Trung.
Thành phố Huế có một đường phố mang tên nhà thơ, liệt sĩ Ngô Kha.
Nhà thơ Ngô Kha sinh ngày 2 tháng 3 năm 1935 tại làng Thế Lại Thượng, Huế, trong một gia đình khoa bảng. Tốt nghiệp Thủ khoa khóa 1 Đại học Sư phạm Huế, Cử nhân Luật khoa, Ngô Kha từng dạy Văn và Công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo - Huế từ năm 1960 cho đến ngày mất tích (Ngày 30/ 01/ 1973, Ngô Kha bị chính quyền cũ bắt âm thầm và từ đó không còn ai gặp lại nữa). Trên bục giảng, với tri thức, lòng nhiệt huyết và lý luận sắc bén, Thầy Ngô Kha là một người gây ảnh hưởng lớn cho nhiều thế hệ học sinh - sinh viên Huế. Trong phong trào đấu tranh đô thị, Ngô Kha cũng là một biểu tượng đầy bản lĩnh, ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ và thái độ của giới trí thức văn nghệ sỹ lúc bấy giờ. Tác phẩm của Ngô Kha đã xuất bản bao gồm: Hoa cô độc (thơ -1961), Ngụ ngôn người đãng trí (trường ca - 1969), Trường ca Hòa bình (1969). Năm 1991, Hội VHNT Thừa Thiên Huế đã xuất bản tuyển tập “Thơ Ngô Kha”. Tháng 10 năm 2005, bạn bè và học trò của nhà thơ đã tổ chức xuất bản cuốn sách “Ngô Kha, ngụ ngôn của một thế hệ”. Hằng năm, vào 25 tháng 12 âm lịch, anh em phong trào đô thị Huế và người yêu thơ Ngô Kha vẫn hội tụ về ngôi nhà cũ ở đường Bạch Đằng để tưởng niệm. Huế đã có tên đường Ngô Kha từ năm 2005.
NGÔ KHA
Bài ca bi tráng của Phong trào đô thị Huế
Tôi gặp anh Ngô Kha lần đầu vào đêm Giáng sinh năm 1964, trong phòng tranh của họa sĩ Đinh Cường, trưng bày tại Nhà Thông tin của chế độ cũ, ở đường Trần Hưng Đạo, thành phố Huế (nay là Nhà sách Phú Xuân). Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trịnh Công Sơn và Đinh Cường đang đứng trước bức tranh Biển nhớ, tác phẩm Đinh Cường vẽ tặng Trịnh Công Sơn. Hồi ấy, tôi mới lớn còn Ngô Kha đã thành danh với tập thơ Hoa cô độc (xuất bản năm 1961): Đại lộ 30/ mắt em tròn 16/ anh chán nản cuộc đời... Cái đêm 30 trên đại lộ cuộc đời ấy là thế giới của Ngô Kha lúc bấy giờ. Đây cũng là thời kỳ Trịnh Công Sơn viết Ướt mi, Diễm xưa, những tình khúc đầu tay.
Những năm 60 đầy những biến động chính trị, khởi đầu là cuộc đấu tranh của Phật giáo, là thời kỳ một loạt trí thức, văn nghệ sĩ Huế, không còn ngồi yên trong các giảng đường; các “tháp ngà viễn mơ” (trào lưu văn nghệ lúc bấy giờ), lần lượt dấn thân vào các cuộc đấu tranh chống chế độ Mỹ ngụy. Huế là nơi khởi phát các cuộc đấu tranh chính trị và sau này trở thành một chiến lũy kiên cường của mặt trận đường phố trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đam mê triết học Phương Tây, đứng ra chủ trương tờ báo đấu tranh Việt Nam! Việt Nam, rồi sau đó, năm 1966, thoát ly lên chiến khu. Cũng thời điểm đó, Ngô Kha, khi bị động viên đã bước ra khỏi bóng tối của đêm trừ tịch trong Hoa cô độc, tham gia “chiến đoàn Nguyễn Đại Thức”, chiến đoàn quân đội chế độ cũ ly khai chống Mỹ - Thiệu - Kỳ. Anh bị chế độ cũ bắt lần đầu năm đó.
Tôi quen và gần gũi anh Ngô Kha từ năm 1968, khi tôi trở lại Huế, sau 3 năm lang thang phiêu bạt ở Sài Gòn. Thành phố Huế sau cuộc tổng tấn công nổi dậy Tết Mậu Thân vô cùng ngột ngạt bị ghìm trong vòng vây của cảnh sát, an ninh, mật vụ, mọi người như đều giấu mình trong những lớp vỏ bọc. Năm ấy, anh Ngô Kha đang dạy văn ở trường Quốc học, tôi và Lê Văn Ngăn trốn trong căn phòng của anh em nhóm Việt ở tầng 2, Thư viện Đại học Huế (nay là Trung tâm học liệu) ở đường Lê Lợi. Mỗi buổi chiều, từ trường về anh Ngô Kha thường ghé lại, anh em nói chuyện lan man về thời sự, về thơ ca. Thỉnh thoảng anh chở tôi trên chiếc xe Dame xộc xệch của anh lên quán cà phê Cô Ba, ở đầu cầu Nam Giao, hoặc về nhà anh ở Thế Lại. Anh em mỗi người một tâm trạng, tôi thì đang tìm đường thoát khỏi vòng vây của cảnh sát, quân cảnh, còn anh thì đang náu mình trong những mê cung của bản trường ca ngụ ngôn của người đãng trí.
Hồi ấy, anh thường đọc cho tôi và Lê Văn Ngăn từng đoạn trường ca vừa viết xong như để giãi bày, để thoát ra khỏi nỗi buồn, nỗi đau của cuộc hôn nhân vừa tan vỡ. Thế giới của Ngụ ngôn, một nửa huyễn hoặc, một nửa hiện thực, với tôi, là cái địa đạo mà anh Ngô Kha tự đào và thắp lên những ngọn nến thần thoại để che lấp tiếng gầm thét của chiến tranh ngày một khốc liệt trên mặt đất và nỗi buồn riêng của anh. Bây giờ trên mặt đất quê hương/ tôi thắp muôn nến hồng nến trắng/ những nến hồng đưa em vào mùa hè hốt hoảng/ những nến trắng tiễn chân người chiến sĩ về hư vô/ ôi em/ xin nguyện cầu/ lời cổ ngữ hằn đau trên phiến đá... Bản trường ca này được tác giả xuất bản vào năm sau (1969). Và có lẽ đây là bản trường ca, tác phẩm siêu thực đầu tiên trong văn học miền Nam trước năm 1975. Sau này, khi Ngô Kha không còn nữa, đọc tác phẩm của bạn mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: “Ngụ ngôn của người đãng trí mang đầy đủ cấu trúc của một mê cung, trong đó đã diễn ra cuộc giác đấu đẫm máu giữa nhà thơ bức xúc vì khát vọng sống và phía bên kia thần Chết mang sừng bò. Điều nghịch lý đau đớn mà cuối cùng chàng đã phát hiện ra, rằng chẳng phải là con Minotaure nào khác cả, nó chính là bản thân chàng và đó chính là trận đấu vật vã với Chính Mình, của Người Đãng Trí”. “Trận đấu vật vã” ấy trong bối cảnh năm 1968 có lẽ là tâm trạng chung của nhiều trí thức văn nghệ sĩ thời ấy.
Bước vào năm 1970, khi phong trào đô thị bùng phát dữ dội ở cả Sài Gòn và Huế, cũng là lúc Ngô Kha rời khỏi cái địa đạo trú ẩn, mở tung cánh cửa cuối đường hầm, trở lại vai trò người chiến sĩ trong “chiến đoàn Nguyễn Đại Thức” năm nào. Từ việc thành lập nhóm trí thức đấu tranh Tự Quyết (với Trịnh Công Sơn, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn và tôi) xuất bản 2 số báo, đến việc thành lập Mặt trận Văn hóa Dân tộc miền Trung, và có mặt trên tất cả các mặt trận đấu tranh của sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ và nhân dân thành phố Huế. Thầy giáo Ngô Kha và nhà thơ Ngô Kha bây giờ là một, anh xuất hiện như một ngọn cờ, hô hào bãi khóa, xuống đường và khởi thảo các bản tuyên ngôn, tuyên chiến với chế độ Mỹ ngụy. Những bài thơ mới của Ngô Kha lúc này là những khúc tráng ca mang đầy dấu ấn của thời cuộc: Bài ca tự quyết, Cho những người nằm xuống, Trường ca hòa bình...
Từ quan điểm “đòi hòa bình, độc lập, chống bạo lực, đứng ngoài mọi phe phái chủ nghĩa” (của nhóm Tự Quyết) đến việc công khai tuyên bố ủng hộ lập trường của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, con đường đến với cách mạng của Ngô Kha như một lẽ tất yếu, bùng cháy theo ngọn lửa của mặt trận đường phố. Mừng anh em như mới chào đời/ ngày Việt Nam khai sinh ngôn ngữ mới/ ba mươi triệu đồng bào anh em đứng dậy/ như Trường Sơn hùng vỹ đời đời... (Trường ca hòa bình). Chính vì sự tuyên chiến và dứt khoát đứng về phía “Trường Sơn hùng vỹ” ấy mà bộ máy ngụy quyền của Huế điên cuồng tìm cách triệt hạ ngọn cờ Ngô Kha. Chúng đã bắt anh lần thứ 2 năm 1971, rồi bắt lần thứ 3 năm 1972, và đã thủ tiêu anh một cách dã man sau Hiệp định Paris 1973.
Một đêm trước ngày anh Ngô Kha bị bắt rồi bị thủ tiêu (do Trưởng ty cảnh sát Liên Thành, cùng thuộc hạ đánh đập tàn bạo cho đến chết, sau đó chúng đem vùi xác anh ở một mảnh đất hoang vùng cửa ngõ phía Nam thành phố Huế, đến nay vẫn chưa tìm thấy dấu vết), anh đưa tôi về nhà anh ở Thế Lại. Đêm ấy, ngồi bên bậc cửa cạnh lối ra khu vườn nhà có cây vải trạng đầy kỷ niệm, anh Ngô
Kha tâm sự với tôi một điều tận tâm can mà anh muốn thổ lộ từ lâu ngày: anh muốn gặp lãnh đạo cách mạng nội thành Huế để tâm tình, nhờ tôi tìm cách liên lạc giúp anh. Không ngờ lời bộc bạch tâm can ấy trở thành lời trăn trối, bởi vì sau đó anh bị bắt, còn tôi thoát ly lên chiến khu và vĩnh viễn không bao giờ còn gặp anh. Đêm hôm ấy, suốt đời tôi sẽ còn âm vang mãi tiếng gió thổi trong khu vườn nhà anh Ngô Kha, gió thổi lao xao suốt đêm, cây vải trạng cứ rung lên từng hồi như tin báo về một trận bão lớn...
Thái Ngọc San
(Sông Hương 287 tháng 1/2013)
Nhớ Ngô Kha
Từ năm 1963 trở đi cho tới ngày anh hy sinh, khuôn mặt của Ngô Kha nổi bật lên trong phong trào Sinh viên Học sinh Huế và các đô thị miền Nam, như một con người trí thức và một nhà thơ tranh đấu. Con người hành động mãnh liệt đã đến với anh sau nhiều năm đầy day dứt và ám ảnh về lẽ sống, về tuổi trẻ và vận mệnh đất nước, và điều đó còn để lại những dấu tích thật sâu đậm trên chặng đường dài gian khổ của thơ anh.
Trong không khí náo nhiệt và nhiễm độc của văn nghệ tâm lý chiến được tung ra khắp phố phường miền Nam vào những năm 60, thơ Ngô Kha (Hoa cô độc) xuất hiện như một nỗi buồn lặng lẽ và trong sạch, thực chất là một thái độ hoài nghi và dừng lại trước cái lẽ sống bịa đặt mà bọn Mỹ và Ngô Đình Diệm đang rao hàng hết hơi trong tuổi trẻ thời buổi ấy. Ngô Kha nói thủng thẳng với bóng mình:
Lần hồi sinh trên con tàu cuối cùng
Chung quanh anh phù sa cát đỏ
Anh hỏi thầm về đời mình:
Gỗ đá có buồn không?
Chim chóc có buồn không?
“Ngụ ngôn của người đãng trí” viết theo thể trường ca, chứa đựng trong tất cả ngôn ngữ và hình tượng xô bồ của nó nỗi ám ảnh kinh hoàng về chiến tranh, lời tự tố cáo đau đớn của một con người đang cố tìm cách thoát thân trên một mảnh đất bị chiếm đóng bởi quạ đen pháo sáng và lưỡi lê, ở đó như anh nói, “tên mọi người đã ghi vào viên đạn”. Ở đây nhà thơ sống hết lòng nỗi bàng hoàng trước chiến tranh, nhưng chưa thật sự bước vào cuộc chiến đấu. Tuy nhiên, ẩn hiện trên từng trang của bài ca bi ai kia, con người “đãng trí” của Ngô Kha vẫn lắng nghe trái tim lay nhịp sống hàng giờ:
Tôi vốn mang trong người muôn quả tim
Như cây trên rừng nhiều lá
Sự sống từng giờ lay động bằng tiếng khóc trẻ thơ
Và chính trong những giây phút lắng nghe ấy, Ngô Kha đã nắm bắt được nguồn suối của khát vọng sống, tuy ẩn giấu nhưng chưa bao giờ nguôi trong tâm hồn chàng, khát vọng ấy là mảnh đất đứng được khẳng định sau cùng để từ đó tâm hồn day dứt của chàng tự vượt lên trong một niềm tin chắt chiu tội nghiệp, nhưng quả thật đã mang theo nó thông điệp của hy vọng:
Vì trái tim như một quả đồng hồ treo
Em nhớ mỗi ngày lên giây
Sự sống đã bắt đầu từ đó...
Đây chỉ là những tín hiệu định hướng, nhưng người ta không phải chờ đợi lâu hơn nữa. Một năm sau khi xuất bản “Ngụ ngôn...”, Ngô Kha đã dứt khoát từ bỏ cái thế giới ảm đạm của “Người đãng trí” để gia nhập vào cuộc chiến đấu của thành phố, thực sự nhập ngũ vào phong trào tuổi trẻ đô thị. Đó là bước ngoặt đã làm thay đổi tâm linh và cả thơ Ngô Kha.
Thực ra con người trầm tư của Ngô Kha đã không ngăn nổi cái xu thế hành động nơi anh, vốn là một trí thức tâm huyết luôn luôn được đánh thức, lay động và thôi thúc bởi cao trào hành động yêu nước của nhân dân thành phố quê hương anh.
Năm 1964, địch đàn áp nhóm Quán Bạn, cùng với nhà thơ Trần Quang Long, Ngô Kha đã bị chúng bắt giam. Năm 1966, giữa phong trào chống Mỹ - Thiệu - Kỳ của Huế, Ngô Kha tổ chức “Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức”, quàng phu-la tím và cầm súng đánh nhau với lính thủy quân lục chiến trong nhiều ngày trên đèo Hải Vân, sau đó anh lại bị tù. Từ 1970 trở đi, Ngô Kha có mặt thường trực trong cuộc chiến đấu liên tục của mặt trận đô thị. Trong năm 1970, Ngô Kha chủ biên tập san “Tự Quyết” của văn nghệ sĩ và trí thức Huế (cùng với Trịnh Công Sơn, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn, Thái Ngọc San, Trần Viết Ngạc...). Năm 1971, Ngô Kha chủ biên tập san “Mặt trận Văn hóa Dân tộc”, đặt dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Huế. Trong không khí sôi sục của những năm 71 - 72, địch đã hai lần bắt giam Ngô Kha, và anh chỉ ra khỏi nhà tù sau những đợt đấu tranh quyết liệt của sinh viên học sinh đòi trả tự do cho anh. Căn gác của anh ở số 42 đường Bạch Đằng bỏ trống quanh năm, dù vậy đã có lần bị ném chất nổ cửa sổ và bị đốt cháy. Nơi trú ngụ chính của Ngô Kha trong những năm này là trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế ở 22 Trương Định, “căn cứ lõm” kiên cố nhất của phong trào tuổi trẻ Huế chống Mỹ, lúc này đã do lực lượng cách mạng hợp pháp chiếm lĩnh.
Cùng với bản thân anh, thơ của Ngô Kha xuống đường và nhanh chóng hấp thụ sức sống mãnh liệt của quần chúng nổi dậy. Ngô Kha đọc thơ giữa quảng trường, trong giảng đường hội thảo, trước lửa trại “đêm không ngủ”, và thường xuyên trên bục giảng của anh ở trường Quốc học. Có một thời kỳ, cái từ “thầy Ngô Kha” đầy trìu mến được dùng để gọi tên một nhà thơ tranh đấu hơn là một thầy giáo. Thơ Ngô Kha trở thành một thứ nhiên liệu để đốt bùng ngọn lửa tâm hồn của tuổi trẻ học đường trước những cuộc bãi khóa xuống đường liên miên năm tháng:
Từ sự thật ẩn thân trong cõi hẹp
Đến vô cùng văn hóa của nhân gian
Ta hăng say
Những con tàu vượt sóng
Như rạng đông mới mọc trong tim
Xua ủy mị
Đánh tan ngày địa ngục
Ta đứng lên dựng mặt nhìn trời
Ta đứng lên giáp mặt với tương lai
Đó là sức bật cường tráng của thơ Ngô Kha, cả ngôn ngữ, hình tượng và tư tưởng. Trong thơ anh bây giờ không còn bóng của cái tôi cô độc và khắc khoải của 10 năm trước, thay vào đó là một cái ta dũng cảm và cương quyết, cái ta chủ thể của một đám đông đang vươn vai đón gió lớn của thời đại mình:
Người vươn vai đứng dậy
Như núi đồi có đôi tay nắm lấy vừng đông
Mùa xuân 1971, thơ ca tranh đấu của đô thị miền Nam dậy lên tiếng gào thét chống lại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ ngụy ở đường 9 - Nam Lào. Thơ Ngô Kha vang dội trong chủ đề ấy để đưa lực lượng vào mũi tiến công phối hợp của thành phố “đánh vu hồi vào sau lưng địch”. Chính vì thế, như một hình tượng lớn nóng bỏng của thành phố, con “đường mòn Hồ Chí Minh” hiện bóng đường bệ trong thơ Ngô Kha, là sự khẳng định của chính nhà thơ về con đường lớn của lịch sử:
Ta nghe từng đoàn người ngựa Thăng Long
Đang phá vỡ trùng vây đập tan quân cướp nước
Ta đã thấy
Vòng đai mở rộng
Thành phố rộn ràng khoác áo tứ thân.
Bạn bè gởi đến lời chúc mừng cho riêng anh về con đường tìm thấy, qua suốt cuộc hành trình tìm về lịch sử. Anh đã khởi đi như vậy, trong cái mặc cảm bơ vơ trước đường dài, “mai về ngồi nghĩ một mình bóng nghiêng”. Anh đã đau đớn dằn vặt đến như vậy, khi định tìm câu giải đáp cho muôn vàn câu hỏi trong lòng hai tay ôm lấy vầng trán để suýt chạm vào cái chết của tâm hồn. “Tự sát bằng cô đơn nên chẳng bao giờ chết”. Và như một phản ứng vượt thoát sau cùng, rũ sạch áo khỏi những tro xám của tư duy để chọn con đường hành động, từ đó tâm hồn Ngô Kha bắt gặp đường chân trời để vụt lớn dậy bằng sức quật khởi của cả thế hệ mình.
Trên bầu trời quê hương ta đã xuất hiện
Một ráng mây hồng
Trong lòng người
Và trong lòng ta
Mãi mãi niềm tin thuộc về những con người chiến đấu, Ngô Kha đã tin vì anh đã thực sự dấn thân và đã hy sinh.
Như bông hoa bách hợp héo tàn
Chàng nằm đó mảnh mai, nhợt nhạt
Đẹp vẻ đẹp của hình hài bằng đất.
Nơi sườn đồi nào ở ngoại ô, chàng nằm úp mặt trên cỏ xanh, trong tư thế vĩnh hằng đó của câu thơ Byron - viên đạn xuyên qua gáy.
Hoàng Phủ Ngọc Tường (SH287/01-13)