(1838 – 1891)
- Năm 1867: Tri huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh), tri phủ Nho Quan (Ninh Bình)
- Năm 1873: Án sát tỉnh Ninh Bình
- Năm 1882: Tuần phủ Lạng Bằng (Lạng Sơn, Cao Bằng)
- Năm 1885: Tổng đốc Lạng Sơn - Cao Bằng kiêm tham tán quân vụ
- Năm 1889: Chỉ huy cuộc khởi nghĩa Thượng Đồng
Hiện nay Nhà thờ họ Lã ở Thượng Đồng là một Di tích Lịch sử văn hóa quốc gia.
Tên Lã Xuân Oai được đặt cho trường học, đường phố ở Nam Định, Thành phố Hồ Chí Minh…
Côn Đảo thi tập
(Hiện lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam)
Còn ít người biết tên Lã Xuân Oai,
Còn nhiều người chưa biết tập thơ Côn Đảo thi tập.
Lã Xuân Oai quê ở Nam Định, đỗ Phó bảng năm Khi triều đình nhà Nguyễn ký hàng ước Harmand với Pháp, ra lệnh cho quan quân ở Bắc Kỳ phải triệt binh để tỏ lòng “tín nghĩa”. Nhưng Lã Xuân Oai, năm đó là tuần phủ Lạng - Bằng (Lạng Sơn, Cao Bằng) cũng như nhiều sĩ phu, quan lại yêu nước đã cự tuyệt lệnh trên và kiên quyết kháng chiến đến cùng.
Ông đã cùng Nguyễn Đình Nhuận (Tổng đốc Sơn- Hưng-Tuyên), Nguyễn Văn Giáp (Tuần phủ Sơn Tây), Đề đốc Tạ Hiện, Tán lý Nguyễn Cao, Tán tương quân thứ Nguyễn Thiện Thuật… liên tiếp gây cho quân đội thực dân Pháp nhiều thiệt hại đáng kể.
Năm 1885 vua Hàm Nghi xuất bôn, hạ chiếu Cần vương, thăng chức Lã Xuân Oai làm Tổng đốc Lạng Bằng kiêm tham tán quân vụ. Thanh thế nghĩa quân càng mạnh. Khi Tôn Thất Thuyết qua biên giới mưu việc viện trợ thì phong trào chống Pháp ở trong nước càng phát triển. Bản thân Lã Xuân Oai đã có thời gian liên hệ mật thiết với Từ Diên Húc, tuần phủ Quảng Tây yêu cầu họ giúp đỡ vũ khí, lương thực liên minh chống Pháp, bảo vệ chủ quyền Việt Nam cũng là bảo toàn biên giới Trung Hoa. Trong quyển 2 bộ Trung Pháp chiến tranh của Tân tri thức xuất bản và in năm 1955 còn ghi lại 42 bức thư của Lã Xuân Oai gửi Từ Diên Húc và 7 cuộc bút đàm giữa hai người. Qua những lá thư, thấy rõ Lã Xuân Oai mưu lược tài tình, có chiến thuật chiến lược trong cuộc đối đầu với kẻ thù hơn hẳn quân ta về vũ khí hiện đại: “Đánh chúng lúc này tỏ ra bằng thực không bằng tỏ ra bằng hư, chống nó có hình tích không bằng chống nó vô hình, có thể dùng kế phá, có thể dùng mưu thắng.” Ông tin tưởng ở lòng dân và tính sự đánh lâu dài nên đề nghị chế lương khô cho quân đội tiện dùng: “Mỗi doanh dự đem 5.000 cân gạo thổi chín phơi khô, lại tẩm thêm cam thảo, mười lần nấu, mười lần phơi khô, cơm sẽ nhẹ đi, dễ mang theo, khi dùng chỉ lấy nước nóng dội qua là ăn được.”
Nhưng rồi nhà Thanh bắt tay với Pháp (điều ước Thiên Tân, 1885) Lã Xuân Oai luẩn quẩn ở biên giới 3 năm, rồi vì sức yếu, mẹ già, ông trở lại quê nhà (1887), mở trường dạy học ở Ninh Bình.
Ngồi một chỗ nhưng ông vẫn ngầm liên hệ với những người yêu nước. Trường học chỉ là hình thức bên ngoài. Thực chất đây là trường dạy võ, phần lớn nho sinh đều tham gia nghĩa đảng.
Bạn bè thân tín cùng chí hướng của ông là Phạm Trung Thứ, cử nhân; Lã Xuân Trung, nguyên tri huyện Hậu Lộc; Lã Xuân Đôn, tú tài; Phạm Doãn Tế, nguyên huấn đạo huyện Yên Mô… Các nho sinh yêu nước ở các huyện Phong Doanh, Ý Yên, Vụ Bản, Đại An… tham gia rất đông. Thời kỳ làm chánh xứ sơn phòng Ninh Bình Lã Xuân Oai đã kết giao nhiều thổ ty dân tộc Mường, nay họ cũng là những chỉ huy của nghĩa quân. Ngoài ra phải kể đến lực lượng sẵn sàng ứng chiến. Đó là những người dân nghèo ở hai huyện Phong Doanh, Đại An. Nhiều năm trước đó họ được Lã Xuân Oai chiêu mộ lên phủ Nho Quan khẩn hoang mở ra 13 ấp lớn thành tổng Tam Đồng tên ghép Tam Đăng và Thượng Đồng, nay thuộc xã Lạng Phong huyện Nho Quan (Dân ấp đã xây ngôi đình thờ hai vị Lã Xuân Oai và Phạm Đăng Thuyết làm thành hoàng).
Lã Xuân Oai định khởi nghĩa chiếm tỉnh Ninh Bình rồi phát lệnh kêu gọi nghĩa quân các tỉnh hưởng ứng. Nhưng do tổ chức thiếu chặt chẽ, bọn cuờng hào tôn giáo phản động mật báo quân Pháp nên buộc ông phải khởi sự sớm hơn dự tính. Đêm 8/12/1889, nghĩa quân bao vậy huyện lỵ Phong Doanh (nay hợp vào huyện Ý Yên Nam Định), bắt viên tri huyện, tịch thu ấn tín, xóa bỏ bộ máy cai trị của Pháp đăt ra rồi truyền hịch cứu nước tinh thần hết sức hăng hái.
Sớm hôm sau quân Pháp từ Ninh Bình kéo xuống “dẹp loạn”. Nghĩa quân đã đánh giáp lá cà, bắn chết tên trung úy Chaudron, chém xả vai thiếu úy Maugin, dùng loa kêu gọi hai đội lính khố xanh quay súng bắn lại quân Pháp, trở về với nhân dân.
Quân Pháp buộc phải rút về Ninh Bình, chờ tăng viện binh. Hôm sau nữa chúng bao vây Thượng Đồng, dùng đại bác yểm trợ tối đa rồi mới thúc lính tràn vào đàn áp, triệt hạ các ngõ xóm. Nhưng nghĩa quân đã rút lui từ đêm, dân làng cũng sơ tán hết.
Khởi nghĩa Thượng Đồng nổ ra vang dội. Trong báo cáo gửi lên cấp trên, sĩ quan Pháp Daufès Avignon đã phải thú nhận những thiệt hại của quân Pháp trong cuộc chiến này. Trong sách Những điều ghi chép về xứ Bắc Kỳ của cố đạo Puginier xác nhận “Phong Doanh và Ý Yên là hai huyện rối loạn nhất trong tỉnh và làng Thượng Đồng đã trở thành trung tâm của cuộc phiến loạn”.
Ít lâu sau Pháp bắt được Lã Xuân Oai, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Thượng Đồng, kết án 10 năm tù, đày ông ra Côn Đảo.
Trong nhà tù khủng khiếp giữa biển Đông quan Phó Bảng, Tổng đốc Lạng-Bằng Lã Xuân Oai phải đập đá, kéo hồ lô lăn đường, quét lá cây rụng… Hậu quả của những trận đòn tra tấn dã man cùng với cuộc sống khắc nghiệt ở đảo tù đã khiến sức khỏe ông nhanh chóng kiệt quệ. Lã Xuân Oai hy sinh ngày 24/11/1891.
Tin dữ đưa về, các nho sĩ, văn thân… Bắc kỳ đã cùng môn sinh, gia đình Lã Xuân Oai tổ chức trọng thể lễ truy điệu nhà chí sĩ sống oanh liệt chết vinh quang. Trướng điếu do Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến viết. Tổng đốc Nam Định Cao Xuân Dục hô hào nghĩa cử xây dựng ngôi nhà thờ liệt sĩ Lã Xuân Oai đồng thời là nơi ở cho con cháu họ Lã vì nhà cũ bị quân Pháp đốt phá hoàn toàn1.
1 Năm 1999 Nhà thờ họ Lã được gắn biển Di tích lịch sử cách mạng.
Ngoài tấm gương trung kiên bất khuất, nhà thơ Lã Xuân Oai để lại cho đời tập thơ Côn Đảo thi tập. Đây là tác phẩm văn học đầu tiên viết về nhà tù trại giam dưới chế độ thực dân đế quốc ở Việt Nam2.
2 Có hai mốc thời gian đáng chú ý: Thúc Bào Lã Xuân Oai ra nhà tù Côn Đảo năm 1890 chết năm 1891, còn Minh Viên Huỳnh Thúc Kháng ra đây năm 1895, tức 5 năm sau. Nhưng tập Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng được dịch ra quốc ngữ, in trên báo Tiếng Dân rất sớm. Còn Côn Đảo thi tập của Lã Xuân Oai tròn 75 năm sau ngày ông mất mới được giới thiệu tên và lần đầu trích in một số bài thơ trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 69, tháng 8/1966.
Côn Đảo thi tập được nhà sử học Trần Huy Liệu, trưởng ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa hết sức quan tâm giúp đỡ. Cụ đồ Tỉnh (Nguyễn Ngọc Tỉnh) cũng là một tù nhân Côn Đảo chép lại bản chữ Hán bằng bút sắt rất công phu (vì bản gốc bị mờ, nhòe rất khó đọc). Các nhà thơ Chu Thiên, Bùi Hạnh Cẩn, Ngô Linh Ngọc, Trần Lê Văn… dịch xuôi và dịch thơ quốc ngữ.
Trong cuốn Văn thơ yêu nước cách mạng Hà Nam Ninh do Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh (thời kỳ ba tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình sáp nhập) biên soạn, NXB Khoa học và xã hội in (năm 1981) đã giới thiệu một số bài thơ của Lã Xuân Oai. Mãi tới năm 2005 Côn Đảo thi tập mới được in đầy đủ, giới thiệu trân trọng (NXB Lao Động ấn hành).
Sở dĩ Côn Đảo thi tập còn được đến hôm nay là nhờ công lao góp sức của rất nhiều người:
Năm 1894, con trai nhà thơ là tú tài Lã Xuân Đồng đã cùng người nhà vào Gia Định nhờ đốc phủ Phương giúp đỡ, thuê thuyền vượt biển ra Côn Đảo đưa hài cốt cha về quê cùng tập thơ Côn Đảo thi tập và cái tráp sơn sinh thời Lã Xuân Oai thường mang theo bên mình. Những kỷ vật quý giá này còn giữ được là nhờ một người tù trẻ tên Mười Câu, quê Nam Bộ, là học trò của Lã Xuân Oai đã hết lòng chăm sóc, thuốc men cho thầy, chôn cất, ghi dấu phần mộ thầy chu đáo. Mười Câu còn theo về tận Nam Định, được cả gia đình, dòng họ Lã quý mến như ruột thịt với tên gọi trìu mến “chú Mười Câu”.
Ngày 01/ 10/ 1964 Bảo tàng cách mạng Việt Nam đã trân trọng đón nhận kỷ vật quý giá Côn Đảo thi tập do con cháu họ Lã kính tặng.
Côn Đảo thi tập gồm 76 bài thơ chữ Hán, 4 bài thơ Nôm, 02 bài phú cũng bằng chữ Nôm.
Có thể nói đây là cuốn nhật ký bằng thơ của một người tù thi sĩ chiến sĩ. Từ lúc ra đi ở Hải Phòng, ghé lại Quảng Nam, nhận quà của đồng bào Gia Định đến thăm hỏi, lúc bị thẩm vấn ở Sài Gòn, lênh đênh trên biển Đông, nằm trong ngục tối ở Côn Lôn, những tháng ngày bị đày đọa nơi địa ngục trần gian… đều được ghi lại qua những bài thơ ý tứ hàm xúc, nhận xét tinh tế, tình cảm chân thành, tinh thần lạc quan và bao trùm lên tất cả là tấm lòng yêu nước khát vọng giải phóng dân tộc.
Rời cửa bể Hải Phòng, Lã Xuân Oai coi án 10 năm biệt xứ như một cuộc xuất dương du ngoại:
Cối Kê mộng cũ từng hay
Thỏa vui Cần Hải chuyến này dạo chơi
Tác giả nhắc lại sự tích Việt vương Câu Tiễn bên Tàu thua trận Cối Kê nhưng nuôi chí phục thù thắng lại vua Ngô Phù Sai rửa nhục mất nước.
Khi qua bờ biển Quảng Nam, nhìn lên thành quách năm xưa dù bị tàn phá, ông vẫn tin tưởng:
Ngước nhìn thành quách đều thay đổi
Ngoảnh mặt đời người lắm éo le.
Vần chuyển lại qua vòng tạo hóa,
Hoa xuân sơm sớm báo tin về.
Khi ở nhà lao Gia Định ông có bài thơ (chữ Nôm) họa vần với một người bạn, giọng mỉa mai pha lẫn sót thương cho cảnh ngộ:
Này những đồ hay, những thức ngon,
Hỏi ra mới biết “thú Sài Gòn”
Nghe xe ngựa khách, tai nhường lạ
Trông nước non ta, mắt đã chồn...
Được tin Lã Xuân Oai bị đưa lên thuyền sắp sửa ra Côn Đảo, đồng bào Gia Định Sài Gòn bảo nhau đi tiễn đưa, tặng quà. Họ đi đông đảo, dắt theo cả con cháu, bất chấp nhà cầm quyền ngăn cản. Tình dân nghĩa nước cao vời vợi, Lã Xuân Oai cảm động gửi lại mấy vần tha thiết:
Quà ngon đem lại trên thuyền tặng
Con trẻ theo ra trước mặt chờ.
Sáu tỉnh phồn hoa như thế đấy
Hai kỳ thân thiện tự bao giờ…
Lòng dân, đó là nguồn sức mạnh cho ông tin tưởng ở ngày mai tươi sáng:
Cánh buồm vun vút gió xuân
Mênh mông sóng dữ, sạch lâng bóng kình.
Trong Côn Đảo thi tập có những bài in đậm tấm lòng nhà thơ da diết nhớ quê hương:
Ngày ngày buồn mưa gió
Tối tối, mơ cha anh.
Việc nước nhiều gian khó
Quê hương muôn dặm tình.
Trong một bài khác, ông kể lại giấc mộng thấy Hoàng Giáp Phạm Văn Thụ, người thầy học, bạn văn chương và cũng là tấm gương chói lọi về tinh thần yêu nước và ý chí diệt thù:
Nửa mừng, nửa sợ ngóng tin
Đêm mơ rõ Phạm tiên sinh hiện về.
Gió xuân đâu lại gần kề
Biển xa lặng hẳn bốn bề sóng khơi...
Và từ nơi góc biển chân trời, ông vẫn lo lắng cho người thân ở quê nhà:
Hoạn nạn hiểm nghèo, ai giúp đỡ?
Lặn lội năm qua mảnh áo sờn…
Ông nhắc nhở con cháu:
Vui gìn giữ nếp nhà thi lễ
Vận tốt cơ may khắp chốn còn.
Thơ Lã Xuân Oai bài nào cũng một giọng khỏe khoắn, tin yêu. Tết trong tù, ông đằm thắm:
Màu xuân thành Vị giờ sao đấy?
Cành liễu vương bay khói ít nhiều?..
…Sóng gió Côn Lôn rồi phẳng lặng
Cỏ cây Phong huyện lại xanh rờn.
Bị phạt giam trong ngục tối, hồn thơ ông vẫn vượt ra khỏi bốn bức tường chật hẹp, lắng nghe ngoài đời vận chuyển:
Chẳng muốn bụi trần nhơ mắt lão
Tạm tìm nơi vắng lặng ngâm bình.
Nhà thơ ung dung bình thản:
Ngoài đời rối tựa bồng,
Trong chí vững như núi.
Và mùa xuân bao giờ cũng tràn đầy hy vọng:
Núi sông há nhẽ đành tan, cạn?
Thân thế đâu toàn những hẩm hôi?
Cho dù phải đi rải đá, kéo hồ lô lăn đường, quét lá rụng… Lã Xuân Oai vẫn nghĩa khí ngang tàng:
Những muốn non sông thay diện mạo
Xin vì nhân thế quét trần ai
Một bài thơ khác:
Phen này quét sạch mùi hôi bẩn
Về Bắc, buồm tiên phơi phới bay.
Trong Côn Đảo thi tập có hai bài phú. Bài phú Tĩnh ông ngẫu thành khái quát rõ nét cảnh sinh hoạt và lao động khổ sai của tù nhân đồng thời ca ngợi khí phách của những chiến sĩ gang thép đợi thời cơ trở về giải phóng non sông:
Anh em ta
Thực đáng anh hùng,
Vốn trang hào kiệt...
…Vốn thực ngọc lành đợi giá, ngang tàng công cổ sĩ nông
Rõ ràng báu quý chờ thời, trộn trạo ngư tiều canh mục
...Căm giận đời chưa Nghiêu Thuấn, chỗ thì quần tam, nơi thì tụ ngũ, múa tay thề chẳng chung trời,
Nhác quân mang lưới Sở Tần, kẻ phải án trọng, người phải phép khinh, hết thảy đâu ra nhà phức…
… Từ đó đã mặt đành tủi mặt, nhưng sen thực chẳng xá bùn
Sau này rồi tay phải ra tay, chém cỏ đào cho hết gốc.
Người quân tử lấy quyền xử biến, nghiệp cũ đã lâu
Cuộc thế gian có nhục mới vinh, cơ trời mấy chốc.
Bốn biển trời soi đuốc ngọc, chán chi gác tía lầu son
Nghìn năm nước vững âu vàng, hiếm những chè lan ruợu cúc…
Ở bất cứ bài thơ, phú nào, Lã Xuân Oai cũng tỏ ra tin tưởng lạc quan:
Non sông bờ cõi nhà ta lẽ nào sạch lóc.
Cứu diệt nhờ tay ái quốc, lâng lâng quét hết ưu phiền
Nghênh ngang mở mặt cố cương, chốn chốn vang lừng tơ trúc.
Cỏ cây hớn hở đền xuân,
Nam Bắc xum vầy tiệc ngọc.
Côn Đảo thi tập, thơ của Lã Xuân Oai người tù chí sĩ hào hoa, phơi phới hòa quyện hồn thơ người tù chiến sĩ bất khuất, lạc quan… Đấy là nét riêng Lã Xuân Oai và cũng là nét chung nổi bật trong bất cứ tác phẩm nào của những nhà văn Việt Nam có số phận đặc biệt, từng sống những ngày đau đớn và không thể không cầm bút viết về bạn, đồng chí, mình,và kẻ thù. Lã Xuân Oai, Côn Đảo thi tập, người mở đầu, tác phẩm mở đầu dòng văn học không ai muốn có này.
Ngoài Côn Đảo thi Tập, Lã Xuân Oai còn nhiều bài thơ viết trong tù:
Tham thiền khẩu chiếm
(Nguyên tác thơ chữ Hán, tác giả làm khi đến nhà tù Côn Lôn, bị cạo trọc đầu)
Dịch thơ:
Khẩu chiếm khi trọc đầu như sư
Đã từng sang Bắc giả người Tàu
Sao lại xuôi Nam hóa ở chùa?
Hải đảo mở toang tầm mắt mới
Doanh châu thêm rạng vẻ mày râu.
Cõi đời luống tựa hồng xoay chuyển
Cười chúng lừa nhau quạ trắng đầu.
Phụng sự non sông không biến đổi
Trở về con trẻ khỏi ngờ nhau.
Người dịch: ChuThiên
Ngẫu thành
(Nguyên tác chữ Hán)
Dịch xuôi:
Ngẫu thành
Cửa sổ phía nam trăng cao vằng vặc
Trằn trọc canh tàn nỗi buồn vương vấn.
Ngược xuôi đi lại toàn do chúng sai khiến
Bạn bè khắp nước ai người thương ta?
Mưu kế trở về hãy cứ lo toan
Tai vạ trước mắt lại tới.
Biết có tấm lòng son là sống mãi
Vẫn tin rằng trời xanh sẽ xoay chuyển (tốt đẹp).
Dịch thơ:
Ngẫu thành
Song nam vằng vặc ánh trăng thanh
Trằn trọc vương buồn mãi cuối canh
Xuôi ngược đường giờ do lệnh chúng
Trí giao một nước mấy thương mình?
Chước về đành nhẽ lo toan nữa
Vạ gió ngờ đâu trước mắt nhanh
Một tấm lòng son không để thác
Vần xoay tin chắc có ông xanh.
Người dịch: Bùi Hạnh Cẩn
Gia tiên phụ, tiên huynh mộng ký biến
(Nguyên tác chữ Hán)
Dịch thơ:
Mơ thấy cha và anh đã khuất
Ngày chất sầu mưa gió
Đêm liền mơ cha anh
Thương nhớ bao năm trải
Đón gặp ngoài trời xanh.
Nỗi nước nghìn bước nhớ
Cửa nhà muôn dặm tình.
Bất tài gặp tai ách
Che chở cậy uy linh.
Người dịch: Trần Lê Văn
Câu đối của văn thân, chí sĩ viếng Lã Xuân Oai
(nguyên tác chữ Hán)
* Bảng vàng áo tía vinh hàng tổng
Dạ sắt lòng son dãi thấu trời
* Thân gửi biển trời soi nhật nguyệt
Thần về miếu xã rạng non sông
* Hồn về đây, mưa gió chẳng tan hồn nước cũ
Khó thay con ấy, biển trời thêm tỏ hiếu tâm cao.
Người dịch: Tân Dân