Thu dạ lữ hoài ngâm (thơ bằng Hán văn theo thể song thất lục bát), “Những mối tình của người họa sĩ già ở quần đảo Mác-ki-dơ ” (thơ, tiếng Pháp, đã xuất bản ở Paris).
Chân dung cuối cùng của Gauguin, (Tranh sơn dầu, do Kỳ Đồng và Gauguin vẽ chung năm 1903, hiện trưng bày ở Bảo tàng nghệ thuật Thụy Sỹ.)
Không mất hồn quê lục bát trong thơ
Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cẩm sinh ngày 10 tháng 8 năm 1875, cha là Nguyễn Văn Tỵ đỗ nhị trường, làm nghề dạy học nên dân làng gọi là cụ Đồ Tỵ. Nguyễn Văn Cẩm sớm bộc lộ thông minh kỳ lạ từ khi mới bốn, năm tuổi. Năm 6 tuổi đã học chữ Nho, có tài ứng đối nhanh và rất tài tình. Lên bảy tuổi, đã biết làm thơ chữ Hán và thuộc nhiều câu sấm Trạng Trình. Nghe đồn Nguyễn Văn Cẩm thông minh kỳ lạ, nhiều nhà nho đến tận nơi thử tài.
Những huyền thoại đối đáp của Kỳ Đồng với những nhà nho, những vị khoa bảng nhiều và hết thảy người ra đối đều vô cùng thán phục. Điều đặc biệt là Kỳ Đồng chưa một lần bị thua cuộc.
Lên tám tuổi, Nguyễn Văn Cẩm được cha dẫn lên tỉnh Hưng Yên dự kỳ thi sát hạch, chuẩn bị cho kỳ thi Hương ở Nam Định. Các quan chấm thi, thấy Cẩm bé, ra câu đối cực khó, nhưng Kỳ Đồng lập tức đối lại rất chỉnh khiến quan trường đều phải phục tài. Kết quả Nguyễn Văn Cẩm đạt hạng ưu. Các quan tỉnh kinh dị làm sớ tâu về triều.
Vua Tự Đức có chỉ dụ: “Cấp cho trẻ lạ Hưng Yên Nguyễn Văn Kỳ (tức Cẩm) lên tám tuổi mà thông minh, nhà nghèo, chăm học, mỗi tháng ba quan tiền, một phương gạo, quần áo mỗi thứ hai cái, một năm cấp một lần.” Kỳ Đồng (cậu bé thông minh kỳ lạ) là do nhân dân và các nhà nho mến phục đặt tên, trong chỉ dụ của Tự Đức cũng gọi là Kỳ Đồng.
Tiếng tăm và những huyền thoại của Kỳ Đồng ngày càng vang xa. Nhân dân ở các tỉnh Bắc Kỳ, kể cả Thanh - Nghệ rất ngưỡng mộ và kính phục coi ông như Trạng Trình giáng sinh để cứu dân, cứu nước đã kéo nhau về xem mặt Kỳ Đồng đông như trẩy hội. Sau này, trong cuốn Lịch sử Đề Thám nhà văn Ngô Tất Tố còn kể: ông huấn đạo ra câu đối: “Đứng giữa làng Trung Lập” (“trung lập” có nghĩa là “đứng giữa”), Cẩm bèn đối: “Dấy trước phủ Tiên Hưng” (“tiên hưng” có nghĩa là “dấy lên trước”). Tác giả Lý Văn Hùng trong cuốn Việt Nam văn hiến (Sài Gòn, 1971) cũng chép nhiều giai thoại về cậu bé thông minh kỳ lạ Kỳ Đồng.
Năm 1887 người theo Kỳ Đồng rất đông, các sĩ phu yêu nước ở Nam Định, Thái Bình muốn nhân dịp này tổ chức lực lượng để đánh chiếm thành Nam Định. Thống sứ Bắc Kỳ Brière sợ Kỳ Đồng trở thành ngòi nổ cho một cuộc khởi nghĩa chống Pháp ra lệnh bắt Kỳ Đồng đưa đi tù. Lập tức nhân dân phản ứng mạnh mẽ đòi trả tự do cho thần tượng. Hắn liền đưa Kỳ Đồng sang học ở trường Louis Le Grand ở Alger thủ đô nước Algérie để tách ông ra khỏi phong trào chống Pháp và hy vọng đào tạo thành tay sai của chúng. Tháng 9 năm 1896, Kỳ Đồng đỗ tú tài toàn phần, chúng đưa ông về nước. Bọn cầm quyền Pháp giao cho ông nhiều chức vụ nhưng ông không nhận. Ông trở về quê mở trường dạy học chữ Hán và chữ Pháp. Người đến học rất đông. Ông làm giỗ bố thật to để bạn bè xa gần đến làng Ngọc Đình cùng nhau hội họp bàn việc cứu nước. Trước những hoạt động tích cực vận động phong trào chống Pháp của Kỳ Đồng, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường và giám sát ông chặt chẽ.
Kỳ Đồng xin phép mở đồn điền tại Yên Thế (Bắc Giang) và có những liên hệ chặt chẽ với nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Mật thám Pháp vẫn theo sát từng hành động nhỏ của ông.
Trước nguy cơ bùng phát một cuộc khởi nghĩa mới, toàn quyền Đông Dương ra lệnh cho Péroz chỉ huy đạo quân Yên Thế bí mật bắt Kỳ Đồng, dùng thuyền máy đưa ông về Hải Phòng. Từ Hải Phòng chúng đưa thẳng vào Sài Gòn theo đường biển. Chúng cùm xích ông, canh gác rất chặt rồi đưa đi đầy ở đảo Tahiti thuộc quần đảo Poleynési, Nam Mỹ. Được tin Nguyễn Văn Cẩm bị Pháp bắt đầy sang đảo Tahiti, lập tức Hội Bảo vệ và bênh vực nhân dân bản xứ tại Pháp, bác sĩ Ghia người cùng Kỳ Đồng khai phá đồn điền chợ Kỳ ở Yên Thế đã gửi thư cho Toàn quyền P. Doumer đòi trả tự do cho Kỳ Đồng nhưng không kết quả. Có lẽ thấy Kỳ Đồng sớm có ảnh hưởng ở Tahiti nên nhà cầm quyền lại đày ông tới quần đảo Marquise, cách Tahiti 1.000 km về hướng Đông (mất khoảng 10 ngày đường thuỷ).
Và trên hòn đảo xa xôi cách biệt, ngót 30 năm lưu đày, Kỳ Đồng, trong con mắt người bản địa, một con người văn hóa Pháp.
Kỳ Đồng đã giao du thân mật với nhà danh họa Gauguin người Pháp đến đây tìm cảm hứng năm 1901 nên ông cầm bút vẽ cũng xuất sắc.
Bức tranh Chân dung cuối cùng của Gauguin do Kỳ Đồng và Gauguin vẽ chung năm 1903, sau nhiều năm lưu lạc, hiện đang được chưng bày ở viện bảo tàng nghệ thuật Basel (Thuỵ sĩ.) Phong cách dị biệt của bức tranh này mang ấn tích của một tình bạn hi hữu giữa hai con người đặc biệt.
Kỳ Đồng còn viết rất thuần thục thơ tiếng Pháp. Một trong những tác phẩm đặc sắc của Kỳ Đồng có tên Les Amours d’un vieux peintre aux Iles Marquises (Những mối tình của người hoạ sĩ già ở quần đảo Marquises). Đó là bài thơ dài 1500 câu, theo kiểu “12 chân” nước Pháp, đã được xuất bản tại Paris. Đây cũng là vở hài kịch, ba hồi, về một họa sĩ già phong lưu nhưng mắt kém lại rơi mất kính, (do đó phải “quan sát” bằng tay) nên không thấy người đẹp bên mình… bị gù và thọt chân! Biết Kỳ Đồng lỡm mình nhưng Gauguin rất vui.
Trong những năm sống lưu đày Kỳ Đồng có bài Cảm tác nói lên tâm sự của mình:
Cô đăng khiêu tận vị thành niên,
Tinh nhật ôi ôi ốc thượng huyền.
Thân ngọa cô sàng vô bản địa,
Nguyệt lâm tiểu địa bất cao thiên.
Kim triêu vị tác trần trung khách,
Tha nhật nhưng thành thi thượng liên.
Thử nội tài hoa chân bất thiểu,
Thi ngôn vương đạo đăng biền biên.
Bản dịch:
Đèn riêng bấc lụi còn thao thức,
Vằng vặc trăng sao bạc mái nhà.
Xứ lạ giường riêng càng thấy lẻ,
Trăng soi chốn hẹp chiếu bao la.
Hôm nay chưa phải là tân khách,
Ngày khác thành tiên ắt chăng ngoa.
Đất Việt người tài đâu phải hiếm,
Còn cơ hưng vượng đẹp như hoa.
Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm mất ngày 17/7/1929.
Cậu bé thông minh kỳ lạ miền đồng bằng Bắc Bộ năm nào, sau 30 năm lưu đày không được gặp một đồng bào, nghe một tiếng nói của ông cha, biết một tin gì về đất nước quê hương. Ba mươi năm trên hòn đảo mịt mù sóng gió Thái Bình Dương với những người thổ dân Nam Mỹ… Ghê gớm thay chế độ tù đày thực dân đế quốc. Vì thấy ông làm thơ tiếng Pháp nên có người than trách ông trở thành người khác: “Mất hồn quê lục bát trong thơ rồi”, “Đâu có mái đình, cây đa trong nét vẽ”.
Sao chẳng thương ông, sao chẳng thấy ông Đèn riêng bấc lụi còn thao thức/Vằng vặc trăng sao bạc mái nhà…
Cương kiện thay sức sống tâm hồn Việt trong con người Việt Nam!