- Năm 1896, Trần Cao Vân làm cố vấn cho cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ (Phú Yên). Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị bắt giam 11 tháng ở nhà ngục Phú Yên.
- Năm 1900, ông dạy học ở Bình Định, bị bắt và bị kết tội “yêu thơ, yêu ngôn”, “xúi giục dân làm loạn”; bị kết án tử hình, tư về triều, sau hạ xuống còn 3 năm khổ sai.
- Năm 1908, khi phong trào Kháng thuế, cự sưu nổ ra ở Quảng Nam, Trần Cao Vân bị bắt và bị kết án khổ sai chung thân, đày ra Côn Đảo cho đến năm 1914 mới được về.
- Năm 1915 Trần Cao Vân cùng Thái Phiên liên hệ với vua Duy Tân mưu cuộc khởi nghĩa không thành. Ông bị bắt và ngày 17/ 5/1916 lĩnh án tử hình.
Không chỉ là một chí sĩ, một nhà tổ chức cách mạng... Trần Cao Vân còn là tác giả công trình nghiên cứu về Kinh Dịch mà ông gọi là Trung thiên dịch (Gọi là Trung thiên dịch vì ông đã phối hợp dịch Tiên Thiên của Phục Hi và dịch Hậu thiên của Văn Vương. Do đó bản thảo của ông gọi là Trung Thiên Dịch. Bản thảo này đã thất lạc vì hồi đó với cái án kết cho ông với tội “yêu thơ yêu ngôn”, nên không ai dám giữ) và một số thơ văn bằng chữ Hán, chữ Nôm rất xuất sắc.
Bài Vịnh Tam tài là một thi phẩm triết học nói lên được hoài bão, chí hướng cũng như thế giới quan của ông về con người và vũ trụ của một triết gia:
Trời đất sinh ta có ý không?
Chưa sinh trời đất có ta trong.
Ta cùng trời đất ba ngôi sánh.
Trời đất in ta một chữ đồng.
Đất nứt ta ra trời chuyển động.
Ta thay trời mở đất mênh mông.
Trời che đất chở ta thong thả,
Trời, đất, ta đây đủ hoá công.
Liệt sĩ Trần Cao Vân
Hai lần nhận án tù chung thân, hai lần lĩnh án tử hình
Trần Cao Vân quê làng Tư Phú, tổng Đa Hoà, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Khi đi thi ông lấy tên là Trần Cao Đệ, lúc vào chùa lấy pháp danh là Như Ý, biệt hiệu Hồng Việt, Chánh Minh, Bạch Sĩ. Lúc hoạt động chống Pháp ông mới đổi tên là Trần Cao Vân.
Thuở nhỏ, Trần Cao Vân nổi tiếng thông minh hiếu học nhưng khi thấy tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, nhân dân sống trong cảnh ngựa trâu nô lệ, ông bỏ luôn cử nghiệp, dấn thân vào công cuộc cứu nước.
Ông hoạt động trên khắp các vùng Quảng nam, Bình Định, Phú Yên… cùng các chiến hữu (học trò, thầy chùa) tạo nhiều cơ sở chống Pháp.
Năm 1898, cuộc khởi nghĩa của Võ Trứ ở Phú Yên, do ông làm cố vấn, bị thất bại. Vì Võ Trứ khảng khái nhận mọi trách nhiệm về mình nên Trần Cao Vân chỉ bị ngồi tù 11 tháng.
Ra tù chưa được 2 năm, ông lại bị bắt giam tại Bình Định vì vụ án “Trung thiên dịch” bị kết tội “Yêu thơ loạn ngôn”, “xúi nhân dân phiến loạn”, bị đưa về giam ở Quảng Nam, bị kết án tử hình sau giảm xuống 3 năm lưu đày, đến năm 1907 mới được trả tự do.
Vừa ra khỏi nhà tù, năm 1908, ông tham gia phong trào “xin xâu chống thuế” nên lại bị bắt, bị kết án khổ sai chung thân và đày đi Côn Đảo.
Sáu năm sau ông được tha. Trở về quê hương ông lại tiếp tục hoạt động chống thực dân Pháp. Ông tham gia Việt Nam Quang phục Hội và năm 1916 cùng với Thái Phiên trở thành hai nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Duy Tân.
Ông và Thái Phiên trực tiếp gặp vua Duy Tân ở một địa điểm bí mật ngoài hoàng cung rồi cùng Tú Ngung, Cử Sụy trù liệu kế hoạch phát triển lực lượng, tích cực chuẩn bị khởi nghĩa.
Theo kế hoạch đề ra: Chủ lực quân sẽ dựa vào đội lính mộ sắp đưa sang Pháp tham chiến (nước Pháp đang có chiến tranh với nước Đức). Các binh sĩ ấy sẽ quay súng bắn lại kẻ thù; tổ chức sẵn sàng bộ máy hành chánh cai trị thay thế vào các cấp quan lại Nam triều, Bảo hộ, khi chính quyền về tay cách mạng; chế tạo võ khí, mua sắm quân nhu, quân phục. Tạm đúc bốn cái ấn kinh lược: 1. Bình - Trị, 2. Nam Ngãi, 3. Bình - Phú, 4. Khánh - Thuận để dùng vào các giấy tờ chỉ thị.
Cuộc khởi nghĩa năm 1916 tuy không thành nhưng đã khiến thực dân Pháp hết sức lo ngại và vô cùng tức giận nên chúng thẳng tay đàn áp.
Ở tỉnh Quảng Ngãi nhiều nghĩa sĩ bị bắt, bị tử hình, bị tịch thu gia sản. Gần hai trăm người bị án khổ sai đày Côn Lôn, Lao Bảo. Hai ông Lê Ngung, Nguyễn Sụy tuy đã tự sát bằng thuốc độc ngay trong nhà tù, nhưng vẫn bị kết án “lục thi trảm niệu”, nghĩa là chết rồi cũng vẫn đem thi hài ra chém, bêu đầu ở làng Cam Lộ (Quảng Ngãi).
Ở Quảng Nam Phan Thành Tài và một số bị tử hình, còn thì lớp đày Lao Bảo, lớp đày Thái Nguyên, và lớp đày trở ra Côn Lôn.
Trong những nhân sĩ bị đày, có những tay cách mạng kiệt xuất, như Trần Chương, trước kia cũng đã bị bắt, bị tra tấn cực hình, nhưng vẫn ngang nhiên không khai một lời, giả câm ba năm không nói chờ đến ngày trắng án; lần này cũng bị đày và chết tại ngục Lao Bảo.
Trong nhà giam, Trần Cao Vân cố tìm cách để cứu vua và che chở một phần nào cho các môn đệ, đồng chí. Bấy giờ có Hồ Đắc Trung, đương chức Thượng thư bộ Học kiêm Cơ mật đại thần, là người có uy thế trong triều đình và được giao phụ trách việc thảo án. Trần Cao Vân đã viết thư cho Hồ thượng thư, nhận việc bạo động do ông và Thái Phiên chủ xướng.
Thư viết trong cuộn giấy hút thuốc, cho người bí mật đưa đến tận tay Hồ Đắc Trung.
Buổi ra trước phiên tòa, Trần Cao Vân khẳng khái tự nhận chức chánh quân sự, Thái Phiên chức phó quân sự, công việc bạo động do hai ông thủ xướng, thế nên triều đình Huế chỉ kết tội vua Duy Tân:
“Vọng thính sàm ngôn, khuynh nguy xã tắc”
(Nghe theo lời dua nịnh, làm cho đất nước nghiêng ngửa)
Và các nhà cách mạng phải chịu tội giục vua xúi dân gây nên cuộc chính biến.
Mùa hè năm Bính Thìn (1916), hoàng đế Duy Tân bị đày sang đảo Reunion, châu Phi. Ngày 17/5/1916, Trần Cao Vân cùng Thái Phiên bị chém ở cửa An Hoà (Huế). Trước giờ hành quyết, Trần Cao Vân đã đọc 4 câu thơ:
“Trời chung không đội với thù Tây
Quyết trả ơn vua nợ nước này
Một mối ba giềng xin giữ chặt
Thân dù thác xuống rạng đài mây”
Tờ Nông Cổ Mín Đàm số ra ngày 08 tháng 6 năm 1916 đã đăng bài tường thuật cảnh thi hành án chém các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu ở bãi chém An Hòa, mà tác giả cho biết là diễn ra lúc 4 giờ rưỡi chiều ngày 16/5/1916. Với chí sĩ Trần Cao Vân, tác giả gọi là “thầy pháp”. Tác giả bài báo miêu tả: “Đến 4 giờ rưỡi chiều, 4 cái đầu đã rớt xuống, song le cái đầu tiên thầy pháp phải chém 6 lần; mặt trời rọi xuống ngó ghê gớm, hễ gươm chém xuống rồi lại dội lại làm như vậy ai nấy đều day mặt chỗ khác không dám ngó. Ấy là lời thầy pháp đã tiên tri trước như vậy đó. Mấy đứa xử tử không có phiền trách than van chi hết. Chỉ có thầy pháp khi lâm chung có tụng kinh lớn... Trảm huyết như vậy thật là ghê gớm...”.
Thơ Trần Cao Vân:
Đến Côn Lôn
I
Hỏi ta sao lại đến Côn Lôn,
Tựa ngục trông ra biển dập dờn.
Thù nước chưa nguôi cơn báo phục
Hiếu thân khồn thấu nỗi hàn ôn1.
Bức thư hải ngoại truyền tâm huyết2,
Tiếng súng bên trời tỉnh mộng hồn3.
Nhờ tổ Lạc Hồng công dựng nước
Thân này thề phải có kiền khôn4.
1 Hàn, ôn: lạnh, ấm, ý nói việc chăm sóc cha mẹ.
2 Chỉ bức thư hải ngoại của Phan Bội Châu gửi về nước năm 1906.
3 Chỉ cuộc Âu chiến 1914 -1918
4 Kiền khôn: Trời đất.
II
Phương châm chưa định, dạ chưa yên,
Tâm sự bao năm chửa phỉ nguyền
Chẳng đến Côn Lôn nơi thắng cảnh
Biết đâu hoàn hải cõi toàn thiên.
Khuyên cùng bè bạn đừng ta thán
Đã có cao xanh tự chủ quyền.
Rèn đúc anh hùng đây đá sẵn
Nghìn xưa kỳ cục cũng kỳ duyên.
1908
(Nguyên tác chữ Hán, dịch thơ bài I: Phong Mai, bài II: Hành Sơn)
Bài thơ tuyệt mệnh
Đứng giữa càn khôn thế chẳng dời
Việt Nam văn vật tự bao đời.
Vua, dân chung dạ tinh sao hội1,
Tôi tớ bền lòng nhật nguyệt soi.
Đất Việt dẫu không còn Bạch Sĩ2
Khí trung kia vẫn ngập bầu trời
Anh hùng xá kể cơn thành bại
Sử sách ngàn thu chép rạch ròi.
Nguyễn Văn Bách dịch (Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập IV-NXB Văn Hóa, 1963)
1 Như các vì tinh tú hội tụ làm sáng cả bầu trời.
2 Bạch Sĩ là hiệu của Trần Cao Vân