Vân Lĩnh, Hành Sơn cao thế ấy!
Trần Quý Cáp đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn 1901, ông là một trong Ngũ hổ, năm người học trò giỏi xứ Quảng bấy giờ.
Từ ba năm trước đó, Trần Quý Cáp đã nổi tiếng với bài phú “Hoàn binh quy Triệu” (kể chuyện Lạn Tương Như nước Triệu chống lại Tần Thủy Hoàng) bộc lộ tấm lòng yêu nước thiết tha, kích động tinh thần các sĩ phu đương thời. Ông có ý định trốn sang Nhật Bản theo cụ Phan Bội Châu nhưng không được sau cùng Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng cổ động cho phong trào Duy Tân, bài xích cách học từ chương, đề xướng lối học mới ích nước lợi dân. Phan Chu Trinh đã đề cao Trần Quý Cáp “lãnh tụ trong làng tân học”.
Năm 1905, ông cùng với các đồng chí là Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng vào Nam hô hào công cuộc Duy Tân. Khi đến Bình Định gặp lúc quan tỉnh mở kỳ thi khảo hạch, ra đầu bài thơ là Chí thành thông thánh và bài phú Danh sơn Lương Ngọc ra hạn phú Cầu lương ngọc tất danh sơn (tìm ngọc quý tất ở nơi danh sơn), cả ba ông định nhân dịp cổ động việc nước, liền nộp quyển làm chung một bài ký tên Đào Mộng Giác. Nhưng bài của 3 ông nội dung lại là đả kích lối học từ chương, hô hào sĩ tử bỏ thi khiến quan tỉnh phải điên đầu, báo cáo về triều đình Huế.
Lễ tất nhiên khi ra làm việc Trần Quý Cáp đã tìm mọi cơ hội giúp ích nước nhà. Năm 1907 khi làm giáo thụ ở Thăng Bình (Quảng Nam), ông mời thầy đến dạy quốc ngữ và tiếng Pháp ở trường phủ Thăng Bình. Vì công kích bọn quan lại địa phương nên ông càng bị chúng ghét và để phá việc cải cách học tập ở trường phủ, chúng đổi ông ra huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1908, xảy ra việc dân Quảng Nam biểu tình chống sưu thuế gây chấn động cả nước thực dân Pháp tìm mọi cách đàn áp, bắt giam nhiều người mà chúng nghi là cầm đầu, xúi giục trong số này có Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh đều bị đày ra Côn Đảo. Từ Khánh Hòa, Trần Quý Cáp gửi cho các bạn hữu ở Quảng Nam một bức thư có câu lời lẽ bóng bảy như sau:
Cận văn ngô châu cử nhứt khoái sự, ngô văn chi, khoái nhậm, khoái thậm
Nghĩa là:
Gần đây nghe trong tỉnh nhà làm một việc rất thú, tôi lấy làm thích lắm, thích lắm
Mặc dù kẻ thù không có chứng cớ cụ thể, chúng cứ bắt giam và khép ông vào tội mưu phản, xử tử hình.
Trần Quý Cáp là tác giả nhiều bài ca trù, thơ Nôm nhằm mục đích tuyên truyền phong trào Duy Tân như bài “Tôn chỉ Duy Tân”, “Nhắn các nhà vọng tộc”, “Khuyến nông ca”, “Đánh đổ tham quan lại nhũng”… Bài thơ “Khuyên học chữ quốc ngữ” sáng tác năm 1906, đến 1931, báo “Tiếng dân” mới tìm thấy, cho công bố. Các bài thơ Quá Hải Vân Quan cảm xúc, Đà Nẵng hoài cảm… đều nói lên tình cảm yêu nước của nhà thơ.
Đà Nẵng hoài cảm
Chiến họa vì sao nảy đất này?
Khắp nơi chỉ những rắn, heo đầy.
Bến bờ thuyền tới treo cờ lạ
Quan ải xe qua suốt dặm dài
Tiếng sáo vang lừng sông núi cũ
Bóng chiều chói dọi phố lầu ai.
Ước gì lại khởi Trần Hưng Đạo
Cùng dấy sông Đằng trận thứ hai.
(Nguyên tác chữ Hán, Nguyễn Đình Chú dịch thơ)
Khi nghe tin Trần Quý Cáp thụ án, Huỳnh Thúc Kháng cũng đang ở trong tù, làm bài thơ khóc bạn:
Gươm, sách xăm xăm tách dặm miền
Làm quan vì mẹ há vì tiền
Quyết đem học mới thay nô kiếp
Ai biết quyền dân nảy họa nguyên
Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng
Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng
Chia tay chén rượu còn đương nóng
Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.
Bài này nguyên văn chữ Hán, Huỳnh Thúc Kháng dịch thơ quốc ngữ. Câu 2 và câu 5 ý nói Trần Quý Cáp nhận ra làm quan cũng như không xuất dương theo Phan Bội Châu được đều vì nghĩ đến mẹ già ở nhà. Hai câu cuối nhắc đến tình bạn kỷ niệm chuyến đi vào Nam cổ động cứu nước, khi đến vịnh Cam Ranh, biết có chiến hạm Nga vào đó lánh nạn, các ông thuê thuyền ra tận nơi xem. Huỳnh Thúc Kháng với Trần Quý Cáp là bạn đồng song, đồng niên. Giữa Phan Bội Châu với Trần Quý Cáp cũng có tình thân đặc biệt. Năm 1903 trong một chuyến đi vào Nam lần đầu tiên Phan Bội Châu gặp Trần Quý Cáp, hai người tâm đắc làm thơ, câu đối tặng nhau. Câu đối Trần Quý Cáp tặng Phan Bội Châu:
Bác đã tới miền Nam, Vân Lĩnh, Hành Sơn cao thế ấy,
Tôi từng nghe đất Bắc, Hồng sơn, Lam thủy lớn dường bao!
(Nguyên văn chữ Hán, bản dịch của Đặng Thai Mai)