- Thiên nhiên học hiệu ký
- Sở Âm tập
Các bài thơ:
- Cảm tác (trong khám lớn Sài Gòn)
- Khóc Ngư Hải Đặng Thái Thân
- Ngày này năm trước đến Côn Lôn…
- Nhiều bài văn, thơ làm trong thời gian ở tù,
- Nhiều bài văn nổi tiếng khi làm báo Hữu Thanh, đáng chú ý là “Luận về chính học cùng tà thuyết” tranh luận về truyện Kiều.
- Biên soạn: Phan Tây Hồ di thảo, Đông Tây vĩ nhân
Ông nghè Ngô Đức Kế
Trăm cay nghìn đắng chí vẫn bền
Năm 1901 Ngô Đức Kế thi đỗ tiến sĩ nhưng không ra làm quan. Ngoài giờ dạy học, ông nghè Ngô ngồi đọc tân thư, liên kết đồng chí. Ông tích cực vận động bỏ khoa cử, đề xướng học quốc ngữ và hô hào mở mang việc công thương. Ngô Đức Kế đã cùng với Đặng Nguyên Cẩn, Lê Văn Huân lập Triêu Dương thương điếm ở Vinh, thường xuyên liên hệ với nhà ái quốc Phan Bội Châu, những lần cụ Phan ở nước ngoài trở về.
Năm 1908, trong đợt khủng bố dân các tỉnh miền Trung nổi lên chống thuế, Ngô Đức Kế bị bắt. Thực dân Pháp và tay sai bán nước vu cho ông tội “âm tập khai tương, âm hành trợ nghịch, tiềm thông dị quốc” (mở hội buôn bán, ngầm giúp bọn phiến loạn, tự ý giao thông với nước ngoài), kết án, lưu đày ra Côn Đảo. Trong nhà tù, Ngô Đức Kế “bách chiết thiên ma khí thượng tồn” (trăm cay nghìn đắng nhưng chí khí vẫn bền vững- bài thơ nhân ký niệm ba năm bị đày ra đảo Côn Lôn).
Theo Huỳnh Thúc Kháng thì văn thơ Ngô Đức Kế “kể có nghìn bài” nhưng khi ông được về đất liền bọn giặc trên đảo đã thu hủy hết. Những bài còn lại đến hôm nay là nhờ có Huỳnh Thúc Kháng lưu giữ được trong Thi tù tùng thoại. Ngô Đức Kế cũng nhớ và ghi lại được một phần trong Thiên nhiên học hiệu ký, Thái Nguyên thất nhật Quang phục ký… Sau này, ra Hà Nội, Ngô Đức Kế mở báo Hữu Thanh, mở Giác quần thư xã, ông càng có dịp sáng tác thơ ca yêu nước (Hỏi Gia Long, bài thơ đả kích Khải Định tổ chức mừng thọ tứ tuần đại khánh), viết bài tranh luận về truyện Kiều (Chánh học cùng tà thuyết), biên soạn sách (Phan Tây Hồ di thảo, Đông Tây vĩ nhân)…
Điếu Ngô Đức Kế
(của Huỳnh Thúc Kháng)
Ngổn ngang gò đống, bao nhiêu bụng sách chép chưa xong, phách người Á mà hồn người Âu, đến chuyện Vĩ nhân dừng ngọn bút;
Xơ xác non sông, những kẻ dư sanh còn được mấy, cờ họ Tô mà mão họ Quản, ngẫm bài Chính Khí dậy cơn dông.
(Câu trên nhắc chuyện cụ Nghè Ngô Đức Kế làm truyện Đông Tây vĩ nhân mới được quyển đầu, chưa xong.
Câu dưới ý nói cụ Nghè bị đày ở Côn Lôn như ông Tô Vũ, sau ra Hà thành như ông Quản Ninh, hai nhân vật trong Chính khí ca)
Ngày này năm trước đến Côn Lôn
Ngày 15/ 8/1908 các sĩ phu yêu nước bị đày ra đảo Côn Lôn; đến ngày 15/ 8/1911 là tròn ba năm. Các nhà thơ tổ chức kỷ niệm bằng cuộc “thi” thơ với yêu cầu trong bài bắt buộc phải có bảy chữ “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (ngày này năm trước đến Côn Lôn). Các cụ Huỳnh Thúc Kháng, My Sanh, Nghiêu Giang Hải Châu, Kim Giao, Thi Sơn, Lâm Ngu… đều có thơ. Riêng Ngô Đức Kế làm bốn bài tứ tuyệt dưới đây. Thơ chữ Hán, bản dịch của Huỳnh Thúc Kháng, in trong Thi tù tùng thoại.)
Dịch nghĩa
I
Hăm bốn cây bàng rủ bóng um tùm
Sắc núi, tiếng sóng suốt từ sáng đến tối
Ngắm cảnh ở chân trời vô tận
Ngày này năm trước đến Côn Lôn
II
Ngày này năm trước đến Côn Lôn
Trăm cay nghìn đắng nhưng chí khí vẫn còn
Riêng có tấm lòng quyến luyến cha mẹ con cái
Ngấn lệ cũ còn ướt đẫm áo xanh1
III
Thuyền từ không có chước gì để đưa nhân dân qua sông
Ý ấy, biết bảo ai gõ cửa trời mà kêu lên
Mưa lạnh vắng vẻ, mùa thu đã muộn rồi
Ngày này năm trước đến Côn Lôn
1 Áo tù màu xanh
IV
Ngày này năm trước đến Côn Lôn
Tiếng chim quyên khắc khoải gọi hồn nước
Gần đây không biết non sông như thế nào
Sóng kình lúc cuối thu đang nhằm trời mà phun lên.
Dịch thơ
I
Diềm dà hăm bốn cụm bàng con,
Chiều sớm, màu non sóng biển dồn
Ngắm cảnh thiên nhai chừng chửa chán
Ngày này, năm ngoái đến Côn Lôn.
II
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn
Ma chiết trăm chiều, khí vẫn còn
Lưa có lòng do cha mẹ nhớ
Áo xanh đẫm lệ tủi lòng con
III
Thuyền từ khó vớt cuộc sinh tồn
Trời thẳm, nhờ ai tỏ tấc son
Mưa lạnh thu già trông quạnh quẽ
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn
IV
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn
Réo rắt chim quyên tiếng gọi hồn
Non nước gần đây sao đó tá
Sóng kình thu muộn cuối trời phun.
Thái Nguyên thất nhật Quang Phục ký
Trong những ngày ở Côn Đảo, Ngô Đức Kế có viết một tập ký sự bằng chữ Hán ca ngợi cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên do Trịnh Đạt tức Trịnh Văn Cấn thường gọi Đội Cấn chỉ huy, giành chính quyền được 7 ngày.
Giữa đất bằng nghe trận sét rền
Tiếng gươm ngục tối dội gầm lên!
Sử Nam cách mạng nào ai đấy?
Trịnh Đạt ngàn năm hẳn có tên.
* * *
Quanh thành cờ phất rọi năm sao1
Quang Phục quân reo tiếng nổi phào
Sáu chục năm trời im nước bệnh
Oai nghi nay bỗng thấy quan trào.
* * *
Đạn mưa súng khói, góc trời mù
Gươm liệt. cờ giăng suốt một màu
Thành quách Nam, người Nam chủ lấy
Bảy ngày dai dẳng xếp ngàn thu.
* * *
Tấn kịch xin xâu đã hạ màn
Quả bom ngòi tắt, đảng vua tan2.
Non sông còn có mùi sinh khí
Tuồng Thái Nguyên lưa một tiếng vang.
Cốt vì cả nước mở đường đầu
Trời chửa chiều người, biết tính sao?
Thế sự không bàn thành với bại
Vũ Xương nào kém nghĩa quân Tàu3.
* * *
Bút chả xong, gươm cũng dở dang
Mười năm nín tiếng chốn đảo hoang
Non sông un đúc người sau đấy
Câu chuyện thường đêm cứ đốt hương4.
(Huỳnh Thúc Kháng dịch)
1 Cờ của Việt Nam Quang phục Hội màu vàng có 5 ngôi sao màu đỏ.
2 Chỉ cuộc vua Duy Tân bỏ ngôi cùng Trần Cao Vân, Thái Phiên khởi nghĩa chống Pháp, không thành.
3 Khởi nghĩa Vũ Xương mở đầu cách mạng Tân Hợi năm 1911 đánh đổ nhà Mãn Thanh bên Tàu.
4 Ý nói đêm đêm đốt hương cầu chúc cho lớp người sau làm nên sự nghiệp.
Lời tạ lỗi
Trong các phong trào Cần vương, Đông Du, cuộc vận động chống sưu thuế ở miền Trung, Khởi nghĩa Duy Tân 1916, phong trào Đông kinh Nghĩa Thục, Khởi nghĩa Yên Bái 1930… nhiều chí sĩ cách mạng, nhà nho yêu nước bị thực dân Pháp bắt, giam giữ tù đày. Bình sinh, các tiên liệt đều là những nhà thơ nên thời gian ở tù thường có thơ, văn tỏ rõ ý chí cách mạng, tả cảnh lưu đày, hy vọng tương lai dân tộc tươi sáng.
Rất tiếc trong quá trình làm cuốn sách này, do nhiều nguyên nhân, chúng tôi đã không sưu tầm được nhiều hơn di ảnh, tiểu sử và văn, thơ của những người đã khuất đặc biệt là văn, thơ các cụ viết trong thời gian ở tù. Chúng tôi đành tạ lỗi và xin ghi lại dưới đây bản danh sách và những ghi chép sơ lược, rất mong bạn đọc xa gần bổ khuyết để đưa vào những lần tái bản sau. Xin vô cùng cảm tạ!
Địa chỉ gửi tài liệu: Lê Văn Ba, 14 phố Trần Nhân Tông, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Điện thoại: (04)38226098 - 0977278937
Thư điện tử: [email protected]
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả