I. Đại cương
Mỗi nhịp đập của tim, máu được chảy vào tim và được bơm ra khỏi tim. Van tim đóng mở nhịp nhàng theo từng nhịp đập của tim để đảm bảo cho máu lưu thông theo những chiều nhất định. Cứ mỗi giờ có đến 379 lít máu được tim bơm đi nuôi cơ thể.
Trước khi ra khỏi tim, máu được luân chuyển từ buồng tim phía trên (gọi là tâm nhĩ), xuống buồng tim phía dưới (gọi là tâm thất), rồi sau đó mới được bơm ra hệ thống động mạch. Mặc dù hoạt động bơm máu của tim rất mạnh mẽ, nhưng máu lưu thông trong tim lại theo một trật tự nhất định, đó là nhờ hệ thống van trong tim. Có 4 van tim như sau:
- Van hai lá (2 lá) nằm giữa tâm nhĩ trái (buồng tim phía trên) và tâm thất trái (buồng tim phía dưới).
- Van ba lá (3 lá): nằm giữa tâm nhĩ phải (buồng tim phía trên) và tâm thất phải (buồng tim phía dưới).
- Van động mạch phổi nằm giữa tâm thất phải và các mạch máu lớn từ tim đi lên phổi.
- Van động mạch chủ: nằm giữa tâm thất trái và mạch máu lớn từ tim đi vào động mạch chủ.
Van tim được ví như các cánh cửa, mở và đóng cùng với từng nhịp đập của tim, giúp điều hướng dòng chảy của máu ra, vào tim theo nguyên tắc một chiều:
Khi máu được bơm từ buồng tim trên xuống buồng tim dưới:
Van 2 lá và van 3 lá mở; van động mạch phổi và van động mạch chủ đóng lại.
Khi máu được bơm từ hai buồng tim phía dưới lên phổi, ra hệ thống tuần hoàn: van động mạch phổi, van động mạch chủ mở; van 2 lá và van 3 lá đóng lại để máu không trào ngược về tim.
Bệnh van tim xảy ra khi một hoặc nhiều van tim không thực hiện tốt chức năng đóng mở mỗi khi dòng máu đi qua. Có hai dạng thường gặp trong bệnh van tim, đó là bệnh hở van và hẹp van.
- Hẹp van tim: là khi lá van không còn mềm mại, nó dày hoặc dính các mép van, làm hạn chế khả năng mở và cản trở sự lưu thông của máu qua đó. Tim phải bơm mạnh hơn để buộc máu qua chỗ hẹp.
- Hở van tim: là khi van không thể đóng khít, làm cho một phần máu bị rò rỉ và trào ngược trở lại buồng tim đã bơm máu trước đó. Hở van thường là do van bị co rút, thoái hóa hoặc giãn vòng van, hay dây chằng van quá dài. Khi hở van, tim phải làm việc nhiều hơn để bù đắp khối lượng máu bị thiếu hụt do trào ngược. Một số trường hợp có thể gặp cả hẹp và hở van tim trong một hoặc nhiều van.
Vị trí của van 2 lá, 3 lá, van động mạch phổi và van động mạch chủ
II. Nguyên nhân gây bệnh van tim?
- Van tim khiếm khuyết bẩm sinh. Điều này có nghĩa là van bị lỗi ngay khi còn ở bào thai, thường gặp ở van động mạch chủ. Khuyết tật van tim bẩm sinh thường được chẩn đoán trong thời thơ ấu.
- Bệnh cơ tim (cardiomyopathy): Có thể mắc từ trước khi sinh hoặc là biến chứng của bệnh khác trong quá trình phát triển, như sốt do vi rút hay viêm nội tâm mạc. Bệnh cơ tim làm thay đổi cấu trúc tim và gây hở van.
- Nhồi máu cơ tim: Nhồi máu cơ tim làm tổn thương dây chằng van 2 lá và gây hở van.
- Tuổi cao: Khi có tuổi, van trở nên kém linh hoạt, dễ bị rách, dễ bị mảng bám canxi tại van (vôi hóa van tim) làm van bị dày lên và xơ cứng, hạn chế lưu lượng máu đi qua.
- Bệnh thấp tim: gây ra bởi liên cầu khuẩn gặp ở trẻ em tuổi từ năm đến mười lăm. Tổn thương van tim do liên cầu khuẩn còn được gọi là bệnh thấp tim. Nó gây viêm cơ tim, một hoặc nhiều van tim có thể bị dính lại với nhau hoặc bị sẹo. Nhưng các triệu chứng của tổn thương van tim có thể chỉ xuất hiện khi trẻ ở tuổi trưởng thành. Việc sử dụng của penicillin để điều trị viêm họng có thể ngăn ngừa bệnh này.
- Một số bệnh khác: Bệnh động mạch vành, tăng huyết áp, phình động mạch chủ, hoặc một số thuốc, phương pháp điều trị (bức xạ) cũng có thể gây hẹp, hở van tim.
- Sa van hai lá: Sa van hai lá xảy ra khi van nằm giữa buồng tim trên và buồng tim dưới bên trái đóng không đúng cách, nó lồi lên vào trong buồng tim phía trên (nhĩ trái).
III. Triệu chứng
Nhiều người mang bệnh van tim mà không có triệu chứng và không có khó khăn sức khỏe. Một số khác thì tình trạng trầm trọng hơn, có thể đưa tới suy tim, tai biến não, máu cục thậm chí thiệt mạng bất thình lình vì ngưng tim.
Triệu chứng chính của bệnh là tiếng thổi của tim (heart murmur) nghe qua ống nghe, gây ra do máu lưu hành hỗn loạn khi van tim bị hư hại, khuyết tật, thu hẹp… Đây là tiếng động thêm hoặc bất thường khi tim co bóp, có thể rất nhỏ hoặc ồn to.
Các triệu chứng khác gồm có:
- Mệt mỏi bất thường.
- Thở hụt hơi nhất là khi cố sức hoặc nằm.
- Phù sưng chân, cổ chân, bàn chân, bụng.
- Chóng mặt quay cuồng, rối loạn nhịp tim.
Không được theo dõi, điều trị, bệnh van tim có thể đưa tới suy tim, cao áp và phù nề phổi, rối loạn nhịp tim, huyết cục, tai biến não.
IV. Chẩn đoán
Bệnh van tim có thể được chẩn đoán dễ dàng qua thăm khám. Bác sỹ sẽ hỏi về các triệu chứng bạn đang gặp phải, tiền sử gia đình của bạn. Một số trường hợp, bác sỹ có thể tình cờ phát hiện tiếng thổi bất thường khi nghe tim của bạn. Khi đó, bạn sẽ được làm thêm một số xét nghiệm chẩn đoán khác.
- Siêu âm tim Doppler màu và Doppler để phát hiện mức độ hẹp, hở van thông qua những thay đổi của dòng máu chảy qua các van tim và áp suất trong buồng tim.
- Siêu âm tim qua thực quản. Đây là một loại siêu âm tim, trong đó sử dụng sóng âm để tạo ra một hình ảnh chuyển động của tim khi đập. Nó cho thấy các hoạt động bơm của tim và các chức năng của van tim chính xác hơn siêu âm bình thường.
- Chụp X-quang ngực: nhằm loại trừ các bệnh khác có thể có những triệu chứng giống bệnh tim. Đồng thời nó cũng có thể hiển thị sự thay đổi cấu trúc của tim (tim to, dày thất, vôi hóa van, ứ máu trong tim (tim sung huyết).
- Điện tâm đồ (ECG): Giúp đo hoạt động điện của tim, nhằm đánh giá chức năng tim.
- CT scan hoặc chụp cộng hưởng từ tim (MRI) - Kỹ thuật này cung cấp hình ảnh 3 chiều của cơ tim và van tim.
- Chụp mạch (hoặc catheterisation tim) để đánh giá tình trạng của van và giúp các bác sỹ có căn cứ chuẩn xác trước khi quyết định phẫu thuật van.
V. Điều trị
Điều trị bệnh van tim tùy thuộc loại van bị hư, tình trạng nặng hay nhẹ của bệnh. Có 3 phương thức trị liệu:
1- Theo dõi bệnh nhân: Trường hợp bệnh nhẹ hoặc trung bình, chưa có các triệu chứng trầm trọng ảnh hưởng tới hoạt động của bệnh nhân, bệnh có thể được đặt trong tình trạng theo dõi. Bác sĩ sẽ làm các thử nghiệm để quan sát diễn tiến bệnh, đưa ra các hướng dẫn để giảm thiểu biến chứng. Bệnh nhân cũng cần thay đổi nếp sống sao cho thích hợp với bệnh tình.
2- Điều trị nội khoa: Thực ra không có dược phẩm nào để trị dứt được bệnh của van tim mà chỉ hỗ trợ tim, giúp tim làm việc hữu hiệu hơn, trì hoãn sự trầm trọng của bệnh, tránh biến chứng. Dược phẩm có thể là thuốc lợi tiểu, hạ cao huyết áp, điều chỉnh rối loạn nhịp tim, chống đông máu… Cần một bác sĩ chuyên môn tim mạch chăm sóc thường xuyên.
3- Điều trị ngoại khoa: Tùy theo tình trạng bệnh, giải phẫu có thể là nong van, sửa van hoặc thay van.
- Nong van bị hẹp với quả bóng xẹp bé tí teo đưa vào van rồi bơm phồng lên, khiến cho van mở rộng rồi rút bóng ra. Được áp dụng trong vài loại bệnh của van, thay cho việc đặt van mới.
- Sửa van, đặc biệt là van 2 lá mitral, để van hư hao hoạt động bình thường trở lại được
- Thay van với 2 loại van:
Van làm bằng các vật liệu như vải, kim loại thép không rỉ, titanium hoặc gốm sứ. Lợi điểm của loại này là kéo dài lâu hơn, từ 10 - 20 năm. Tuy nhiên, bệnh nhân phải uống thuốc chống đông máu suốt đời để tránh huyết cục ở tim hoặc trên van.
Van làm bằng tế bào người hoặc súc vật như heo, bò, dùng được từ 10 - 15 năm nhưng bệnh nhân có thể không phải uống thuốc chống đông máu.
Sau khi ổn định với điều trị, bệnh nhân tiếp tục cần được bác sĩ theo dõi. Báo cho bác sĩ nếu có thay đổi, biến chứng bất thường. Uống thuốc theo đúng chỉ định. Giữ hẹn với bác sĩ. Thay đổi nếp sống sao cho thích hợp với tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.