1 Xem Đinh Hồng Hải: Sáng tạo truyền thống và biểu tượng Kinh Dương Vương trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí Giáo dục nghệ thuật số 26, 2018. ISSN: 1859-4964.
1. Motif vua tổ Kinh Dương Vương từ góc nhìn biểu tượng luận
Con Lạc - cháu Hồng hay ‘‘con rồng cháu tiên‘‘ là những cụm từ diễn tả nguồn gốc người Việt là hậu duệ của nòi giống Rồng-Tiên. Nghiên cứu này sẽ bắt đầu từ một tác phẩm văn học thuộc loại sớm nhất còn tồn tại được ở Việt Nam, đó là Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (嶺南摭怪列傳). Bỏ qua những sự mơ hồ, thậm chí là phi lý trong các huyền sử, có thể thấy vua tổ là một motif được lặp lại nhiều lần trong các tư liệu thành văn ở Việt Nam, nổi bật với ba vị vua tổ là Hùng Vương, Lạc Long Quân, và Kinh Dương Vương.
Xét về độ đậm đặc của các chứng tích văn hóa thì Hùng Vương chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là Lạc Long Quân rồi mới đến Kinh Dương Vương. Hùng Vương chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng dân gian trong khi Lạc Long Quân đóng vai trò lớn trong các tư liệu thành văn nói về giai đoạn này. Mặc dù chiếm tỉ lệ ít hơn, cả trong văn hóa dân gian cũng như trong các tư liệu thành văn, nhưng Kinh Dương Vương (theo liệt truyện) lại chính là cha đẻ của Lạc Long Quân và là ông nội của Hùng Vương. Vì vậy tầm quan trọng của Kinh Dương Vương không hề thua kém các vị “tổ” khác (là con đẻ và cháu đích tôn của mình!).
Mặc dù là “ông nội” của Hùng Vương nhưng quy mô lễ hội và số lượng di tích thờ Kinh Dương Vương kém xa Hùng Vương. Mặt khác, các thông tin về Kinh Dương Vương cũng ít được nhắc đến trong các sử liệu nếu so sánh với “người con trai” Sùng Lãm - Lạc Long Quân. Đặc biệt, trong ba vị “tổ” nói trên chỉ có “người cháu” Hùng Vương được làm “quốc giỗ” tức ngày Giỗ tổ 10/3 âm lịch. Để truy nguyên những vấn đề nói trên, chúng ta không thể dựa vào quan hệ huyết thống gia đình theo logic thông thường của gia phả học mà phải làm rõ vai trò và vị trí của Kinh Dương Vương như một biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt Nam.
Thông qua các truyền thuyết về Lạc Long Quân - Âu Cơ thì Rồng chính là Lạc Long Quân (con của Kinh Dương Vương) và Tiên chính là Âu Cơ.1 Còn Hồng ở đây bắt nguồn từ họ Hồng Bàng (theo Kỷ Hồng Bàng Thị, mục Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, ĐVSKTT, tr.4-5; LNCQ, tr.5)2 và Kinh Dương Vương chính là vị vua tổ (thế hệ thứ nhất) của người Việt. Chúng ta có thể tóm tắt phả hệ của các “vị tổ” này trong sơ đồ sau:
1 Dẫn câu chuyện Lạc Long Quân đã nói: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên…” trong Truyền thuyết Trăm trứng.
2 Phần viết về Hồng Bàng Thị do được chép lại trong ĐVSKTT, KĐVSTGCM, VNSL,… đã được nhiều học giả thời hiện đại dẫn lại như một loại “sử liệu.” Về ý nghĩa của chữ Lạc, xem: Đinh Hồng Hải 2015. “Chim Lạc?” Trong Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam tập 3.Nxb. Thế giới, Hà Nội và “Motif tổ tiên” trong nghiên cứu này.
Biểu đồ 10. Tóm tắt phả hệ của họ Hồng Bàng (theo Kỷ Hồng Bàng Thị)1
1 Trong LNCQ ghi Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai và Âu Cơ là ái thê của Đế Lai nhưng ĐVSKTT lại ghi Âu Cơ là con gái Đế Lai.
Từ góc nhìn biểu tượng luận và lý thuyết sáng tạo truyền thống của Eric Hobsbawm, nghiên cứu này sẽ đi sâu tìm hiểu quá trình hình thành biểu tượng vị vua tổ này. Theo đó, biểu tượng Kinh Dương Vương sẽ được đặt trong vai trò cái biểu đạt (CBĐ) của một biểu tượng quốc gia để thể hiện cái được biểu đạt (CĐBĐ) về khát vọng độc lập của người Việt nhưng bị trói buộc trong khái niệm “vô tốn Trung Hoa” của các tầng lớp duy nho thời trung đại. Qua đó đưa ra một cách nhìn mới về vị vua tổ Kinh Dương Vương như là một biểu tượng được kiến tạo dựa trên sự mô phỏng văn hóa Trung Hoa.1
1 Góc nhìn này sẽ giúp cho các học giả tránh được những tranh cãi vô tiền khoáng hậu về nhân thân của Kinh Dương Vương. Nói cách khác, nhà nghiên cứu sẽ không cần trả lời câu hỏi: Kinh Dương Vương có thật hay không.
2. Motif vua tổ và biểu tượng Kinh Dương Vương trong lịch sử Việt Nam
2.1. Biểu tượng vua tổ ở Việt Nam trong sự đối sánh với văn hóa Trung Hoa
Theo phân tích của một nhà sử học có nhiều đóng góp về vấn đề này gần đây, đoạn mở đầu của Hồng Bàng Thị Truyện “bàn về cách một hậu duệ của thủ lĩnh huyền thoại Trung Hoa là Thần Nông, cưới một người con gái phương Nam, và cách đứa trẻ của cuộc hôn nhân đó, tức Kinh Dương Vương, được giao nhiệm vụ cai trị phương Nam. Việc tấn phong này cho thấy rằng Kinh Dương Vương đứng ở một vị trí thấp hơn so với người anh cùng cha khác mẹ là người cai trị phương Bắc. Một sự sắp đặt như thế dĩ nhiên phản ánh mối quan hệ chủ-thần mà Trung Hoa và Việt Nam duy trì trong thời đại Liệt truyện được viết ra” [Kelly 2012, tr. 139].
Trong khi đó, Keith Taylor và Jean Pryzluski lại cho rằng “ý tưởng về một thủy thần là một nguồn lực chính trị và chính đáng vốn chú ý đến sự hình thành dân tộc Việt Nam thời tiền sử là một dấu vết sớm nhất của khái niệm dân tộc Việt Nam như một dân tộc khác biệt và có ý thức về dân tộc mình” [Taylor 2016, tr.33]. Toàn bộ câu chuyện này mô phỏng cuốn Hoa Dương quốc chí một tác phẩm ra đời trước ở Trung Quốc. Góc nhìn này tuy có cơ sở (mô phỏng Hoa Dương quốc chí) nhưng lại dẫn chúng ta đến một câu hỏi không dễ trả lời: Ai sắp đặt mối quan hệ thần-chủ nói trên? Dĩ nhiên là “không ai cả”! Như chính Liam Kelly đã xác nhận “những nhân vật như Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân không được đề cập trong các nguồn tư liệu Trung Hoa” [Kelly 2012, tr.162].
Vậy nếu không có sự sắp đặt nào từng diễn ra thì nguyên nhân nào đã khiến cho biểu tượng Kinh Dương Vương hình thành như chúng ta thấy? Nếu tìm kiếm thông qua các tư liệu lịch sử thành văn hay hiện vật khảo cổ học thì chúng ta sẽ hoàn toàn bế tắc hoặc sẽ đưa ra những kiến giải sai. Thực tế cho thấy, các tác phẩm như Việt Điện U Linh hay Lĩnh Nam Chích Quái được soạn sau hàng nghìn năm vào đời Trần (1225-1400) và được căn cứ trên các nguồn tư liệu là truyện kể hay truyền thuyết. Vì vậy, tính xác thực của các tài liệu này luôn là một chủ đề gây bàn cãi trong giới học thuật nhưng lại là niềm cảm hứng vô tận cho các tác phẩm văn học và nghệ thuật truyền miệng cũng như thành văn.
Có thể thấy rõ hai quan điểm đối lập của các học giả đã và đang nghiên cứu về giai đoạn này ở Việt Nam: Quan điểm thứ nhất thông qua huyền thoại, truyền thuyết (dựa vào cả dữ liệu truyền miệng và cứ liệu thành văn) và quan điểm thứ hai dựa vào chứng cứ khảo cổ học để tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử “tiền nhà nước” của người Việt. Tuy nhiên, cả hai quan điểm này đều có những khoảng trống khó có thể lấp đầy: Nếu căn cứ vào dữ liệu truyền miệng và cứ liệu thành văn thì rất khó thuyết phục vì các tư liệu này được viết ra hay chép lại bằng chữ Hán sau hàng nghìn năm bởi các nhà nho ở giai đoạn trung đại. Nếu căn cứ vào di vết khảo cổ học để khẳng định về một giai đoạn tiền nhà nước thì e rằng cũng khó thuyết phục vì các chứng cứ khảo cổ học giai đoạn này đều không có minh văn mà chỉ là những suy đoán dựa trên ngôn ngữ tạo hình. Thậm chí, ngay cả những hiện vật khảo cổ đặc biệt quan trọng như trống đồng Ngọc Lũ cũng không (hoặc chưa chứng minh được) là có minh văn nên các sử gia Việt Nam đành phải suy đoán, và đã có nhiều suy đoán sai.1
1 Như cách của Đào Duy Anh là ghép thuyết vật tổ của thế kỷ XX với hình chim trên trống đồng Đông Sơn để tạo nên huyền thoại về vật tổ của người Việt là chim Lạc.
Vậy nếu như các huyền thoại, truyền thuyết hay liệt truyện không đủ độ tin cậy và các hiện vật khảo cổ vẫn chưa đủ chứng cứ thì các vị vua tổ (như Kinh Dương Vương) ở đây phải được đặt vào góc nhìn nào cho phù hợp? Nghiên cứu này sẽ bắt đầu từ việc tìm hiểu motif vua tổ và nhu cầu “tìm về cội nguồn” của người dân ở các nền văn hóa khác nhau (trong đó có người Việt) để khám phá sự hình thành motif vua tổ qua biểu tượng Kinh Dương Vương ở Việt Nam trong mối quan hệ với quá trình giành độc lập của người Việt và khát vọng độc lập của người Việt trong lịch sử. Đặt vai trò của Kinh Dương Vương như một biểu tượng văn hóa dưới góc nhìn ký hiệu học, chúng ta hoàn toàn có thể tìm được lý do vì sao biểu tượng này ra đời và tồn tại một cách sống động trong xã hội Việt Nam cho đến nay.
Nếu như vậy thì chúng ta không nhất thiết phải đi tìm sự “có thật” của Kinh Dương Vương trong các huyền thoại, truyền thuyết hay liệt truyện vì đây là một motif khá phổ biến ở nhiều nền văn hóa, trong đó có Việt Nam và Trung Hoa. Mặt khác, trong lúc chúng ta chờ đợi những chứng cứ khảo cổ học hay một loại minh văn nào đó để có thể khẳng định về một giai đoạn tiền nhà nước của người Việt “thời Kinh Dương Vương” thì việc tìm hiểu các di vết “khảo cổ học nhân văn” trong chính đời sống văn hóa và nghệ thuật dân gian của người Việt sẽ cho chúng ta nhiều thông tin hơn. Đây cũng là cách mà chúng tôi tìm hiểu về một giấc mơ lớn vốn đã định hình nên nền văn hóa Việt Nam ngày nay, đó là khát vọng độc lập của người Việt.
2.2. Khát vọng độc lập và ước muốn về vị vua tổ của người Việt
Khát vọng độc lập của người Việt là một khái niệm mà chúng tôi đã đề cập trong các nghiên cứu trước. Từ giai đoạn cuối của “nghìn năm bắc thuộc,” người Việt đã liên tục tiến hành các cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình Trung Hoa với những trận chiến đấu ác liệt mà chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền đã ghi một dấu mốc quan trọng trong lịch sử. Nhờ đó mà quốc gia Đại Cồ Việt ra đời và kinh đô Hoa Lư mới hình thành. Nhà Đinh không thể không biết đến các lợi thế về kinh tế, văn hóa và chính trị của Tống Bình, phủ trị của nhà Hán (hay còn gọi là An Nam đô hộ phủ) nhưng nếu triều đình sơ khai của nhà Đinh đóng đô ở Tống Bình thì sẽ không có lợi thế phòng thủ. Mặt khác, cái tên đô hộ phủ đương thời gợi nhớ đến sự lệ thuộc vào triều đình đô hộ nhà Hán. Vì vậy, chọn Hoa Lư là một cách lựa chọn “nhất cử lưỡng tiện” vừa có lợi thế phòng thủ của núi non hiểm trở vừa khẳng định được vị thế nền độc lập sơ khai của nhà Đinh.1
1 Xét bối cảnh đương đại của nhà Đinh hoàn toàn khác với nhà Lý sau này khi mà chủ quyền quốc gia đã được xác lập và nền kinh tế chính trị cũng đã có nhiều tiến bộ, khi đó việc dời đô về Thăng Long (một phần của Tống Bình khi xưa) lại là một quyết định đúng đắn và hợp thời của Lý Công Uẩn.
Có thể nói, khát vọng độc lập không phải chỉ nhà Đinh hay người Việt mới có mà là một khái niệm phổ quát ở nhiều cộng đồng (đặc biệt là với các cộng đồng vong quốc mà người Do Thái là một ví dụ điển hình). Cộng đồng người Việt tồn tại bên cạnh cộng đồng người Hán hàng thiên niên kỷ qua nên cả hai bên đều hiểu rất rõ về nhau. Có lẽ vì vậy mà khát vọng độc lập là một trong những nhu cầu luôn được đặt ra ở mọi triều đại của người Việt trong lịch sử, đặc biệt là khi nền độc lập của họ bị đe dọa bởi kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Chính vì khát vọng độc lập luôn thường trực trong tâm tưởng của tầng lớp trí thức trong xã hội nên các tư liệu lịch sử của Việt Nam cho đến nay chủ yếu là lịch sử quân sự, tập trung đề cập đến công cuộc “đấu tranh giành độc lập” hay “bảo vệ nền độc lập” của dân tộc.
Trên thực tế, muốn bảo vệ nền độc lập thì một quốc gia phải có sức mạnh quân sự (điều này người Việt đã làm được trong hàng nghìn năm qua), nhưng để khẳng định nền độc lập của một quốc gia thì với sức mạnh quân sự là chưa đủ mà phải có nền văn hiến. Và để có nền văn hiến riêng của quốc gia, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sử dụng chữ Hán làm công cụ ghi chép về lịch sử của mình. Đây chính là yếu tố đã khiến cho các triều đại phong kiến Việt Nam giành được nhiều thành tựu Hán học nhưng rất khó tìm ra một kịch bản “thoát Trung” cho dân tộc. Nền văn hóa duy nho thời trung đại giống như một sợi xích vô hình níu chặt chân các nhà nho cấp tiến, càng muốn thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Hoa thì họ lại càng bị tư tưởng Nho gia (như tam cương, ngũ thường,…) trói chặt. Quan niệm “vô tốn Trung Hoa” chính là một biểu hiện rõ nét nhất cho sự ràng buộc này và sự hình thành biểu tượng vua tổ Kinh Dương Vương chính là một trong những CBĐ rõ nét nhất.
Để khẳng định sự “không thua kém Trung Hoa,” các triều đại phong kiến sơ khai trong lịch sử Việt Nam đã tiến hành xây dựng một thiết chế chính trị xã hội của quốc gia theo mô hình Trung Hoa với người đứng đầu là Hoàng đế (với các vị vua đầu tiên dám xưng “đế” như Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng Đế,…) thay cho các vị thủ lĩnh của các cộng đồng tự trị. Thiết chế này được hoàn thiện dần trong quá trình xây dựng quốc gia và bảo vệ nền độc lập rồi phát triển hưng thịnh trong giai đoạn Lý - Trần. Nhưng cuộc xâm lăng của nhà Minh đã tận diệt những thành tựu văn hóa rực rỡ của giai đoạn này, đến mức gần như bị xóa sổ. Đây chính là lý do vì sao các tư liệu thành văn được in ấn ở giai đoạn Lý - Trần hiện nay lại trở nên hiếm hoi đến như vậy.1
Sau khi đánh đuổi quâm xâm lược nhà Minh ra khỏi bờ cõi, nhà Lê đã xây dựng một quốc gia vững về kinh tế, mạnh về quân sự và nghiêm ngặt về pháp chế nhưng về văn hóa lại phát triển theo hướng duy nho thay cho “thế đối trọng văn hóa” đã được thiết lập ở giai đoạn Lý - Trần.2 Đây chính là điều kiện thuận lợi để biểu tượng vua tổ theo mô hình Trung Hoa được lịch sử hóa mà minh chứng rõ nét nhất là việc các sử thần nhà Lê đưa các truyền thuyết có liên quan đến Kinh Dương Vương hay Lạc Long Quân vào Đại Việt Sử ký toàn thư. Có lẽ nhờ vậy mà biểu tượng Kinh Dương Vương với dòng dõi Viêm Đế sánh ngang các vị vua Trung Hoa được coi như thủy tổ của dân tộc với tên hiệu Nam Bang thủy tổ được khắc bằng chữ Hán tại đền Kinh Dương Vương. Đây cũng là cách “làm đẹp” nhân thân người cha trong bản “lý lịch” của Vua Rồng - Lạc Long Quân (cha đẻ của Hùng Vương!) theo quan niệm long đích truyền nhân (龍的傳人) của người Hán.
1 Xem chỉ dụ của Minh Thành Tổ đã dẫn ở phần trước.
2 Xem thêm: Đinh Hồng Hải 2015. Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam tập 2 – Các vị thần. Phần “Thánh Gióng,” Nxb. Thế giới, Hà Nội.
2.3. Biểu tượng Kinh Dương Vương trong vai trò vua tổ của người Việt
Hiện nay trong nhiều tài liệu chính thống tại Việt Nam đều gọi cả ba vị Hùng Vương, Lạc Long Quân và Kinh Dương Vương là quốc tổ hay vua tổ. Vậy vị nào mới thực sự là vua tổ của người Việt? Nói cách khác, trong ba vị vua tổ nói trên thì vị nào là quan trọng nhất? Trong các nghiên cứu trước, chúng tôi đã đề cập đến sự “ra đời” của biểu tượng quốc tổ Hùng Vương, tiếp theo là “người cha” Lạc Long Quân và cuối cùng là “ông nội” Kinh Dương Vương. Sự hình thành các biểu tượng này dường như đã diễn biến theo đúng quan niệm “sinh con rồi mới sinh cha” của người Việt. Và do vậy, vị trí biểu tượng của “ông nội” Kinh Dương Vương là tối cao, bất luận vai trò của Lạc Long Quân và Hùng Vương quan trọng đến mức nào.
Biểu tượng Hùng Vương đã được thờ phụng từ nhiều thế kỷ qua tại vùng Phong Châu, Phú Thọ - nơi được coi như đất phát tích của các đời Vua Hùng trị vì nước Văn Lang, đóng đô ở ngã ba Bạch Hạc. Đền Hùng là một quần thể di tích quan trọng đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt và Lễ hội Đền Hùng cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại. Đặc biệt, Hùng Vương đã được chính thức công nhận là vua tổ của người Việt mà bằng chứng sinh động nhất là nhà nước Việt Nam đã chọn ngày 10/3 âm lịch là ngày “Quốc giỗ” thờ vị Quốc tổ Hùng Vương. Tưởng chừng như vị Quốc tổ Hùng Vương đã là một biểu tượng tối linh của tổ tiên người Việt nhưng sự “ra đời” của biểu tượng Lạc Long Quân có thể đã khiến cho nhiều nhà “chép sử” lúng túng khi không thể giải thích được vị nào thực sự là Quốc tổ của người Việt. Việc “đặt vào, nhấc ra” ở nhiều bộ sử quan trọng cho thấy rõ điều này.1
Tuy nhiên, thực tế đã diễn ra không như các nhà chép sử lo ngại, sự “ra đời” của biểu tượng Lạc Long Quân không làm mất đi vị thế Quốc tổ của biểu tượng Hùng Vương. Hơn thế, Lạc Long Quân còn giúp khẳng định một quan niệm “vô tốn Trung Hoa” khác, đó là chứng minh cho dòng dõi con rồng cháu tiên của người Việt (tương đương với quan niệm “long đích truyền nhân” của người Hán. Biểu tượng cha rồng - mẹ tiên được các trí thức duy nho tạo dựng nên trong quá trình khẳng định vị thế quốc gia của người Việt trước người Hán. Có lẽ vì vậy mà các cụm từ “thuần Việt” (như nòi giống tiên - rồng, dòng máu Lạc Hồng, con rồng cháu tiên,…) ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong các tài liệu chính thức và phi chính thức ở Việt Nam khiến cho nhiều người Việt Nam nghĩ rằng họ mang dòng máu rồng thực sự.2
1 Chẳng hạn như việc các sử thần thời Lê đưa vào phần “Ngoại kỷ” của ĐVSKTT nhưng đến thời Nguyễn thì lại bị loại ra khỏi Khâm Định Việt sử Thông giám Cương mục.
2 Trong khi đó, ở Trung Quốc hiện nay lại đang có trào lưu đi tìm một “vật tổ” khác thay thế cho rồng. Tiêu biểu là cuốn Totem sói (Lang đồ đằng của Khương Nhung) xuất bản năm 2004 đã tạo nên một cơn sốt cho thị trường sách Trung Quốc với hàng triệu bản được bán ngay trong lần đầu ra mắt và được chuyển thể thành phim năm 2015. Loại totem mới này đã giải cơn “khát” tâm lý cho nhiều người Trung Quốc mang trong mình Trung Quốc mộng. Sự cổ súy của Khương Nhung cho sói tính Trung Quốc đã bị chỉ trích là mang tư tưởng phát xít mới, đó là chưa nói đến sự mâu thuẫn của nó với quan niệm long đích truyền nhân trong truyền thống văn hóa Hán.
Tuy nhiên, sự “ra đời” của biểu tượng Kinh Dương Vương là một vấn đề nan giải hơn rất nhiều. Bởi vì vị Vua Rồng - Lạc Long Quân đã khẳng định vị trí là “thủy tổ” của người Việt mang dòng máu rồng không hề thua kém người Hán. Vì vậy, “cha đẻ” của Lạc Long Quân (tức ông nội của Hùng Vương) cần phải thuộc “dòng dõi” cao quý hơn. Để “giải quyết” vấn đề này, các trí thức duy nho đã hết sức khôn ngoan khi sáng tạo nên một “nhân thân hoàng tộc” của Kinh Dương Vương là con của Đế Minh - cháu ba đời của Viêm Đế Thần Nông ở Trung Hoa. Như vậy, sự ra đời của biểu tượng Kinh Dương Vương vừa khẳng định dòng dõi hoàng tộc của tổ tiên người Việt lại vừa tập hợp ba vị Quốc tổ vào chung một nhà (một gia đình), tránh được những xung đột về vị trí cũng như nhân thân của các vị vua tổ này.1
1 Trên thực tế, người Việt thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Vietic), ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic) trong khi người Hán thuộc ngữ hệ Hán - Tạng (Sino-Tibetan). Đây chính là lý do chúng tôi coi các vị vua tổ này là những biểu tượng và coi đây là một sự sáng tạo của các trí thức duy nho thời trung đại.
Qua đó có thể thấy, quan niệm “vô tốn Trung Hoa” chính là tiền đề cho sự ra đời của hai trong ba biểu tượng vua tổ quan trọng nhất của người Việt. Đặc biệt, sự “ra đời” của biểu tượng Kinh Dương Vương đã kết nối hai biểu tượng quốc tổ khác là Hùng Vương và Lạc Long Quân thành một khối (gia đình hay thân tộc) để tránh xung đột. Xa hơn, biểu tượng Kinh Dương Vương còn là sự khẳng định sự tồn tại lâu đời (gần 5000 năm!) của dân tộc Việt để đối sánh với lịch sử 5000 năm của Trung Hoa.1 Để khẳng định sự “có thật” của Nam bang thủy tổ - Kinh Dương Vương, người dân cùng các triều đại phong kiến Việt Nam đã kiến tạo nên vô số “chứng tích” có liên quan đến biểu tượng này. Dưới đây là một số biểu hiện trong vô vàn sáng tạo (CĐBĐ) trong những thế kỷ qua và cả trong giai đoạn hiện tại.
1 Ngày 25/2/2013, tỉnh Bắc Ninh tổ chức Lễ hội kỷ niệm 4892 năm Đức thủy tổ Kinh Dương Vương lập nước và khởi công Dự án tu bổ, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương với vốn đầu tư gần 500 tỷ đồng. Xem: Việt Cường. Bắc Ninh khai hội Kinh Dương Vương. http://vtv.vn. Tuy nhiên, mong muốn thoát Trung rất khó thực hiện chỉ bằng những “sáng tạo truyền thống” như vậy mà cần phải có cơ sở khoa học (như cách mà người Nhật đã làm để “thoát Trung” để xây dựng nên một Nhật Bản hùng mạnh).
3. Sáng tạo truyền thống qua biểu tượng Kinh Dương Vương trong văn hóa Việt Nam
Truyền thống, một khái niệm được sử dụng thường xuyên trong các nghiên cứu về văn hóa, “là thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” [Hoàng Phê Cb. tr. 1017]. Tưởng như truyền thống không thay đổi vì được truyền lại qua nhiều thế hệ, nhưng trên thực tế, truyền thống (cũng như văn hóa) không phải là một yếu tố bất biến mà nó luôn luôn biến đổi và liên tục được sáng tạo thêm. Chính quá trình biến đổi có sáng tạo này đã góp phần làm giàu thêm những giá trị văn hóa trong nền văn minh nhân loại.
Sáng tạo truyền thống (the invention of tradition) là một tập hợp các thực hành (thường chi phối bởi các quy tắc công khai hoặc ngầm chấp nhận và có tính chất nghi lễ hay tượng trưng) tạo dựng những giá trị nhất định và chuẩn mực về hành vi bằng cách lặp đi lặp lại liên tục với ngụ ý rằng chúng có liên quan đến quá khứ. Theo Eric Hobsbawm,“truyền thống qua sáng tạo được hiểu là một tập hợp những thực hành, thường nằm dưới sự chi phối của những luật lệ thành văn hay bất thành văn, có bản chất nặng tính nghi thức hoặc hình tượng, nhằm khắc sâu các giá trị và tiêu chuẩn hành vi nhất định vào tâm thức cộng đồng qua hình thức tái diễn, đồng thời ngụ ý một dòng chảy tiếp nối từ quá khứ [Hobsbawm 2011, tr.128].
Kinh Dương Vương trong văn hóa Việt Nam là một biểu tượng văn hóa đặc sắc được hình thành (hay được ghi lại) từ giai đoạn trung đại qua “Hồng Bàng Thị Truyện” trong Lĩnh Nam chích quái liệt truyện (嶺南摭怪列傳/gọi tắt: Liệt truyện) và sau đó được đưa vào Đại Việt sử ký toàn thư. Theo quan điểm xuyên suốt từ các nghiên cứu trước, chúng tôi sẽ không đi tìm “nhân thân” của Kinh Dương Vương vì nguồn gốc huyền thoại của nhân vật này mà chỉ đặt Kinh Dương Vương trong vai trò của một biểu tượng văn hóa Việt Nam (CBĐ).
Sự ra đời và phát triển của biểu tượng Kinh Dương Vương từ “liệt truyện” đến “toàn thư” đã phản ánh một cách rõ nét quá trình sáng tạo truyền thống của các trí thức nho học để hình thành nên một biểu tượng vua tổ với một nhu cầu mãnh liệt của người Việt, đó là tìm về cội nguồn. Không chỉ được “chính danh hóa” trong lịch sử thành văn qua toàn thư và cụ thể hóa bằng các di tích cũng như lễ hội, biểu tượng Kinh Dương Vương hiện nay vẫn tiếp tục được sáng tạo ngay trong thế kỷ XXI với nhiều công trình mới đang tiếp tục được xây dựng trong hành trình tìm về cội nguồn.
3.1. Biểu tượng Kinh Dương Vương từ “liệt truyện” đến “toàn thư”
Theo Liam Kelly (2012), sự ra đời của biểu tượng Kinh Dương Vương trong Lĩnh Nam chích quái liệt truyện phản ánh cái nhìn của Khổng giáo. Tuy nhiên, để kiến tạo nên một vị vua tổ quan trọng như Kinh Dương Vương (trong vai trò “thủy tổ của người Việt” với tên hiệu Nam bang Thủy tổ) thì các trí thức duy nho xưa không thể thành công nếu chỉ áp đặt cái nhìn của Khổng giáo với người Việt. Trên thực tế họ đã sử dụng đặc tính mờ ảo, trừu tượng của huyền thoại và truyền thuyết để xây dựng nên các biểu tượng gắn với lịch sử và văn hóa Việt bằng ngôn ngữ Hán – Việt.
Cách làm trên cũng được sử dụng với một số nhân vật lịch sử nổi tiếng khác như Đinh Bộ Lĩnh (vua tổ họ Đinh) với Truyền thuyết rái cá hay Lê Lợi (vua tổ họ Lê) với Truyền thuyết hồ gươm.1 Với các nhân vật có thật này, thao tác “huyền thoại hóa” nhân vật lịch sử nhằm làm tăng thêm uy linh của nhà vua, điều này luôn có lợi cho quá trình cai trị với nền tảng tam cương (quân-sư-phụ) và ngũ thường (nhân-lễ-nghĩa-trí-tín) theo quan điểm Nho giáo.
1 Theo truyền thuyết thì mẹ của Đinh Bộ Lĩnh bị tinh rái cá hãm hiếp sinh ra ông nhưng trên thực tế cha ông là Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ. Còn truyền thuyết về hồ Gươm (Hoàn Kiếm) thì mô tả là nhờ có kiếm thần nên Lê Lợi mới đánh thắng giặc Minh, nhưng lịch sử đã cho thấy Lê Lợi thực sự là một vị tướng có tài thao lược, điều binh khiển tướng đánh tan giặc Minh.
Các nhân vật lịch sử sau khi đã được huyền thoại hóa sẽ trở thành những “con người huyền thoại” có những khả năng siêu phàm (được trời ban cho, hoặc chí ít, những việc họ làm đều là hợp ý trời - thuận thiên).1 Điều này nhằm làm tăng thêm niềm tin của đại chúng rằng vua của họ chính là Thiên tử - con trời. Cuối cùng, những con người huyền thoại đó lại được đưa vào trong chính sử để khẳng định tính chính thống của các nhân vật lịch sử (sau khi đã được huyền thoại hóa). Có thể mô hình hóa quy trình nói trên trong biểu đồ sau:
1 Vì vậy mà trong các bản chiếu, chỉ của nhà vua đều mở đầu bằng “Phụng Thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết” hoặc “Thừa Thiên hưng vận, Hoàng Đế chế viết.”
NHÂN VẬT LỊCH SỬ ⇒ NHÂN VẬT HUYỀN THOẠI ⇒ TƯ LIỆU LỊCH SỬ
Biểu đồ 11. Quy trình lịch sử hóa vua tổ
Qua đó có thể thấy, nhân vật Kinh Dương Vương, dù có thật hay không, cũng đã được lịch sử hóa “đúng quy trình” để hình thành nên một biểu tượng vua tổ của người Việt. Vì vậy, sự xuất hiện của Kinh Dương Vương trong toàn thư không phải là một điều quá bất ngờ. Và điều bất ngờ, nếu có, chính là niềm tin mãnh liệt của một số học giả thời hiện đại đối với các “tư liệu lịch sử” được hình thành từ quy trình này.2
2 Xem: “Đi tìm mộ tổ Kinh Dương Vương” trong: https://khoahoc.tv/di-tim-mo-to-kinh-duong-vuong-50784. Truy cập: 12/11/2018.
Bên cạnh quy trình lịch sử hóa vua tổ nói trên thì sự sao chép các kinh điển Nho học cũng là một thao tác thường thấy trong quá trình sáng tạo truyền thống của các trí thức duy nho ở Việt Nam. Rõ ràng, việc sử dụng Hán tự và kinh điển Trung Hoa làm nền tảng giáo dục qua hàng nghìn năm đã khiến cho nền học thuật hàn lâm của người Việt bị lệ thuộc vào kinh điển văn chương và truyền thống văn hóa Hán. Đúng như Henri Goudon, Giám đốc đầu tiên của Nha học chính Đông Dương (1918), đã nhận xét: “Nền văn chương non trẻ của người An Nam, vốn chỉ được bắt chước, thậm chí phỏng theo văn chương của thiên triều trong suốt một thời gian dài, mới chỉ bắt đầu thể hiện bản sắc riêng dưới tác động của nền giáo dục mới…” [Henri Goudon 2017, tr.127].
3.2. Sáng tạo truyền thống và biểu tượng Kinh Dương Vương qua một số “di tích” và lễ hội đương đại
Bên cạnh quá trình sáng tạo truyền thống bằng một quy trình mang tính hàn lâm như đã nêu ở trên, người Việt cũng đã sáng tạo nên nhiều thành tố văn hóa vật chất khác nhằm minh chứng cho sự tồn tại của Kinh Dương Vương. Điều này cho thấy dường như các trí thức duy nho vẫn chưa thực sự yên tâm với thành quả sáng tạo của mình dù đã được sao chép và lịch sử hóa “đúng quy trình.” Quá trình hiện thực hóa biểu tượng vua tổ Kinh Dương Vương không chỉ được thể hiện bằng các “di tích lịch sử” trong giai đoạn phong kiến mà còn được xây dựng một cách vô cùng nhanh chóng ngay trong giai đoạn đương đại.
Như đã đề cập đến ở phần đầu nghiên cứu này, nếu xét về số lượng cũng như quy mô thì các di tích thờ Kinh Dương Vương kém xa Hùng Vương và Lạc Long Quân. Nhưng với vai trò là cha đẻ của Lạc Long Quân và là ông nội của Hùng Vương nên các di tích thờ Kinh Dương Vương thậm chí còn có tầm quan trọng lớn hơn dưới con mắt của tầng lớp trí thức giai đoạn trung đại. Di vết sớm nhất của đền Kinh Dương Vương, mộ Kinh Dương Vương ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh mới chỉ hình thành ở giai đoạn nhà Lê cách nay hơn 300 năm (Tk. XVII). Tấm bia “Kinh Dương Vương lăng” còn được tạo ra muộn hơn rất nhiều (Tk. XIX) và các bức đại tự như “Nam Tổ miếu” mới chỉ được dựng gần đây (Tk. XX) và nhiều thành tố kiến trúc phía ngoài thì đã và đang được xây mới trong giai đoạn đương đại (Tk. XXI). Thậm chí, phần xây dựng hiện nay còn nhiều hơn và có quy mô to lớn hơn do nhận được sự quan tâm đặc biệt của tầng lớp lãnh đạo.
Liên tiếp từ năm 2000 đến nay, nhiều vị lãnh đạo đã đến thăm đền Kinh Dương Vương và kết quả là tỉnh Bắc Ninh có được một dự án Quy hoạch bảo tồn tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia lăng và đền thờ Kinh Dương Vương với tổng mức đầu tư gần 500 tỷ đồng (Đoàn Thế Cường 2012). Ngày 23/2/2016, “tỉnh Bắc Ninh long trọng tổ chức lễ dâng hương và khai hội Kinh Dương Vương. Tại lễ hội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 4, Cục Lưu trữ Nhà nước (Bộ Nội vụ) trao tặng phiên bản Mộc bản triều Nguyễn về Vua Thủy tổ Kinh Dương Vương cho đại diện Sở VH, TT&DL tỉnh Bắc Ninh” [Nguyễn Trường 2016].
Trong bối cảnh các vị lãnh đạo giành sự quan tâm và đầu tư to lớn cho Quốc tổ Kinh Dương Vương ở Bắc Ninh, tỉnh Gia Lai cũng đã xây dựng được một quần thể tượng Quốc tổ và 18 vị vua Hùng lập kỷ lục quốc gia về tượng Quốc tổ to nhất.1 Nhiều quần thể tượng đài Quốc tổ Hùng Vương “hoành tráng” khác cũng đã được xây ở Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh,... cùng với quy mô ngày càng lớn của các công trình thì “nhân thân” của vị tổ ngày càng được chi tiết hóa (Hình 12). Tương tự, mộ Quốc tổ Lạc Long Quân còn được tìm thấy ở Bình Đà, ngoại thành Hà Nội [Chương – Hằng 2015].
1 Ngày 20/4/2015, ông Nguyễn Trần Hanh, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Gia Lai CTC cho biết: Hội Kỷ lục gia Việt Nam đã có văn bản xác nhận “Tượng Quốc Tổ và 18 vua Hùng lớn nhất” đặt tại Công viên Đồng Xanh, Pleiku, Gia Lai. Theo Huỳnh Kiên (2015), “Tượng Quốc tổ và 18 vua Hùng đạt kỷ lục lớn nhất quốc gia”, báo Tiền Phong http://www.tienphong.vn/xa-hoi/tuong-quoc-to-va-18-vua-hung-dat-ky-luc-lon-nhat-quoc-gia-851074.tpo truy cập: ngày 12/2/2017.
Có thể nói, hiện tượng sáng tạo truyền thống trong xã hội đương đại gắn với xây dựng tượng đài đã trở thành một “phong trào sâu rộng” của nhiều tỉnh thành với quy mô ngày càng to lớn, đặc biệt là khi được các cấp lãnh đạo quan tâm. Nguy cơ nổ ra cuộc chiến giữa các chủ thầu hay chủ đầu tư dự án tượng đài Quốc tổ (là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân hay Hùng Vương) có thể xảy ra. Điều này dường như đã được các trí thức duy nho xưa tính đến nên đã “nhất thể hóa” các vị Quốc tổ vào cùng một gia đình. Tuy nhiên, sự tranh chấp danh hiệu Quốc tổ hiện nay đang vượt tầm kiểm soát khi mà chủ đầu tư ở mỗi tỉnh thành có quy trình sáng tạo truyền thống khác nhau và cách diễn giải quy trình khác nhau.
3.3. Sáng tạo truyền thống với nhu cầu “tìm về cội nguồn” của người Việt
Bên cạnh khát vọng độc lập mà chúng tôi đã đề cập ở nghiên cứu trước, sáng tạo truyền thống còn thể hiện một nhu cầu chính đáng khác đó là nhu cầu tìm về cội nguồn của người Việt. Tuy nhiên, sự mờ ảo (của tổ tiên người Việt nói riêng và các tộc người ở Đông Nam Á nói chung) đã khiến cho các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều giả thuyết trái ngược nhau. Nổi bật trong đó là thuyết Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam của Bình Nguyên Lộc (cũng là tên cuốn sách nổi tiếng của ông) và thuyết của Đào Duy Anh cho rằng tổ tiên của người Việt đến từ Trung Quốc. Sự “mù mờ” đó đã khiến cho người Việt dễ dãi trong việc chấp nhận các con vật tổ (như rồng, bò, chim, rắn, cá sấu, rái cá,…) gán cho tổ tiên của mình trong khi thuyết vật tổ thì đã được chứng minh là một lý thuyết sai. Hiển nhiên, tổ tiên của người Việt chắc chắn phải là người chứ không thể là động vật dù đó là chim, thú hay bò sát,...
Nhu cầu tìm về cội nguồn này còn được đặt trên quan niệm “vô tốn Trung Hoa” như một số trí thức duy nho đã tự nhận người Việt là con cháu của người Hán một cách công khai như:
Lập thạch kỷ công Nam thánh tổ - Phong phần tố tích Bắc thần tôn
Tạm dịch: Lập bia là để ghi lại công đức thánh tổ nước Nam - Đắp mộ là để nhớ lại dấu tích thần tôn đất Bắc.
Việt Nam sơ đầu xuất - Thần Nông tứ thế phân
Tạm dịch: Ông tổ Việt Nam chính là từ đây - Cháu 4 đời của Thần Nông chia ra [Nguyễn Văn Đáp 2007].
Khác với giai đoạn trung đại, trong giai đoạn hiện nay sáng tạo truyền thống dường như chỉ để lập kỷ lục về sự xa hoa, đắt đỏ hoặc hướng đến việc “được công nhận” là di sản văn hóa. Sự sáng tạo các vị “tổ” hiện nay được làm ở nhiều cấp, từ cấp tỉnh như Văn Miếu tỉnh Vĩnh Phúc với kinh phí gần 300 tỷ đồng [Tình Lê 2015] đến đình làng thờ thành hoàng Nguyễn Thảo Lâm1. Thậm chí là ở “cấp cá nhân” như nhà thờ tổ nghề của Hoài Linh với gần 100 tỷ đồng đang khiến cho các cơ quan quản lý lúng túng. 2
1 Một vị thành hoàng mới được sáng tạo trong những năm đầu TK XXI ở xã Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội.
2 “Nhà thờ Tổ nghề Hoài Linh cho xây dựng và thờ là ai?” (Theo Giadinhvietnam.com). Dẫn theo ngoisao.vn ngày 3/3/2016. Thậm chí, khi nhu cầu thực hiện các dự án được đẩy nhanh tiến độ để “thiết thực lập thành tích kỷ niệm” một ngày nào đó thì các cơ quan quản lý hầu như mất quyền kiểm soát.
* * *
Có thể nói, sáng tạo truyền thống là một hiện tượng phổ biến trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là từ giai đoạn trung đại đến nay. Trên thực tế, đó vừa là một nhu cầu mang tính tự nhiên của văn hóa vừa là một quy trình “biến đổi có điều kiện” của lịch sử Việt Nam. Sự sáng tạo nên biểu tượng Kinh Dương Vương, một mặt góp phần làm giàu thêm các giá trị văn hóa, mặt khác cũng tạo nên một lớp “sương mù” dày đặc bao quanh các biểu tượng cội nguồn của người Việt. Quá trình này vừa tạo nên các giá trị văn hóa nghệ thuật vừa làm trừu tượng hóa các di vết lịch sử. Có lẽ vì vậy mà lịch sử Việt Nam là một sự đan xen giữa lịch sử, huyền sử, thần thoại, truyền thuyết và văn học truyền miệng. Điều này khiến cho tranh luận giữa các nhà sử học thường xuyên nổ ra. Trong khi đó, chính quá trình này lại tạo nguồn cảm hứng cho các thi nhân, văn sĩ cho ra đời nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật, đặc biệt là sự góp mặt của dã sử và liệt truyện.
Để hiểu rõ lịch sử Việt Nam chúng ta cần bóc tách các lớp văn hóa bao phủ bên ngoài như huyền thoại, truyền thuyết nhưng công việc này không hề dễ dàng. Trong bối cảnh hiện nay khi mà chúng ta đã và đang hội nhập với nền học thuật của thế giới thì vấn đề phương pháp luận sẽ là chiếc chìa khóa có thể giúp các nhà nghiên cứu ở Việt Nam mở ra những cánh cửa mới. Những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề có liên quan đến lịch sử như khu vực học, ngôn ngữ học, nhân học bằng những hệ thống lý thuyết như biểu tượng luận hay sáng tạo truyền thống mà chúng tôi sử dụng ở đây sẽ góp thêm một góc nhìn mới đối với lịch sử Việt Nam dù nó đan lồng trong các huyền thoại hay tàng ẩn trong đời sống của con người.