1 Xem Đinh Hồng Hải: “Sáng tạo truyền thống qua biểu tượng Mẫu Liễu trong văn hóa Việt Nam”, Tạp Tạp chí Giáo dục nghệ thuật số 19-21, 2016-2017. ISSN: 1859-4964
Liễu Hạnh Công Chúa (柳杏公主) hay Thánh Mẫu Liễu Hạnh/Mẫu Liễu (母柳) là một đối tượng nghiên cứu nhận được nhiều sự quan tâm trong thời gian gần đây với nhiều công trình chuyên khảo và bài nghiên cứu khoa học của các học giả uy tín ở Việt Nam cũng như thế giới. Điều này có căn nguyên từ sự bùng nổ thực hành tôn giáo và tín ngưỡng sau giai đoạn ‘mở cửa’ và nhu cầu ‘tâm linh’ tăng cao đột biến sau gần nửa thế kỷ bị cấm đoán ở Việt Nam. Có thể nói, sự bùng nổ thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay không chỉ khiến cho biểu tượng Mẫu Liễu được thiêng hóa cao độ trong con mắt của các tín đồ mà còn gián tiếp tạo nên một cơn sốt gọi hồn, áp vong để ‘gặp gỡ’ linh hồn người chết vốn mô phỏng hình thức nghi lễ của tín ngưỡng này. Ngày 1/12/2016, UNESCO đã công nhận Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cần phải lưu ý rằng, UNESCO chỉ công nhận các giá trị văn hóa trong việc “thực hành” các tín ngưỡng nói trên. Tuy nhiên, một số cá nhân và nhóm xã hội đang mong muốn nhà nước công nhận loại hình tín ngưỡng này như một tôn giáo truyền thống của người Việt có tên gọi Đạo Mẫu.
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu đã được xuất bản nhưng có rất ít tác giả đi sâu tìm hiểu các đặc tính biểu tượng của Mẫu Liễu qua nguồn gốc và bối cảnh ra đời của nhân vật này. Dường như các công trình nghiên cứu đương đại lại có nhiều đóng góp hơn trong việc tập hợp những mảnh vụn truyền thuyết của tín ngưỡng thờ Mẫu thành một đại tự sự.1 Trong một nghiên cứu gần đây, các tác giả Chu Xuân Giao và Phan Lan Hương (CXG-PLH) khi đề cập đến các nghiên cứu về Mẫu Liễu thời hiện đại đã có những nhận định khiến giới học thuật hết sức bất ngờ khi cho rằng chính những nghiên cứu đó “đã tham gia, hoặc cố ý hoặc không, vào việc củng cố đại tự sự về Mẫu Liễu đã được tạo dựng từ trước thời cận hiện đại, bởi vậy, bản thân các nghiên cứu học thuật đã tựa như trở thành một nhánh của đại tự sự về Mẫu Liễu, mà nhánh này lại đang có uy lực không nhỏ trong việc góp phần định ra nếp nghĩ đương đại của tín đồ “Đạo Mẫu” [CXG-PLH 2008].2 Có thể nói, đại tự sự này chính là một trong những tiền đề để biểu tượng Mẫu Liễu tái định hình lại một tín ngưỡng quan trọng của người Việt có tên gọi Tín ngưỡng thờ Mẫu và trở thành một hiện tượng tôn giáo tín ngưỡng có tên gọi “Đạo Mẫu.”
1 Theo Lê Nguyên Cẩn thì thuật ngữ Đại tự sự mà J.F. Lyotard đưa ra, nhìn chung được các nhà nghiên cứu phương Tây quy về ba phương diện: Đó là đại tự sự về huyền thoại duy lý tính, về nhận thức luận và về sự giải phóng con người; cả ba đã chi phối và tác động mạnh mẽ đến hoạt động sáng tạo của phương Tây trong hai thế kỷ qua; hay dưới một góc độ khác là đại tự sự về khả năng vô hạn của phép biện chứng tinh thần (liên quan đến huyền thoại Hégel), huyền thoại về Giải thích học (hay Thông diễn học) về nghĩa và sự giải phóng chủ thể lí tính và chủ thể lao động.
2 Xem Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương (2008), “Truy tìm những khoảnh chân thực riêng lẻ: Về thời điểm xuất hiện của Phủ Tây Hồ từ góc nhìn nhân loại học lịch sử”, Tạp chí Văn hóa dân gian số 3 (117) - 2008. Từ những phân tích về ‘đại tự sự Mẫu Liễu,’ trong một nghiên cứu mới nhất được xuất bản năm 2014, CXG đã đi đến một kết luận quan trọng và hoàn toàn mới về hiện tượng Tứ bất tử, coi đó như một sự ngộ nhận của các học giả thời hiện đại về Tứ bất tử. Xin xem đầy đủ bài viết: “Về một ngộ nhận liên quan đến Tứ bất tử: Soạn giả Thanh Hòa Tử và cuốn Hội Chân Biên,” trong tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 1/2014, tr.64-86 và số 2/2014, tr. 82-91.
Để tìm hiểu nguồn gốc và bối cảnh ra đời của biểu tượng Mẫu Liễu, nghiên cứu này sẽ bắt đầu từ việc tìm hiểu từ nguyên của đồng cốt và quá trình biểu tượng hóa Mẫu Liễu bằng một hướng tiếp cận lý thuyết mới, đó là sáng tạo truyền thống qua góc nhìn của Eric Hobsbawm bên cạnh góc nhìn đại tự sự mà CXG-PLH đã đề cập ở trên. Từ đó, soi chiếu lại quá trình hình thành và phát triển của biểu tượng Mẫu Liễu trong văn hóa Việt Nam và vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội đối với sự ra đời và phát triển của biểu tượng Mẫu Liễu. Xa hơn, nghiên cứu này cũng bước đầu giải mã một số “dịch vụ tâm linh” từ quan điểm của Marx về thị trường với các loại hàng hóa mang tính tôn giáo hay thị trường tôn giáo (religious commodification 1 ) đang diễn ra hết sức sôi động trong xã hội Việt Nam đương đại.
1 Thị trường tôn giáo coi tôn giáo như một sự trao đổi giữa người cung cấp dịch vụ và người thụ hưởng dịch vụ mang tính hàng hóa trên cơ sở cung-cầu, theo Arjun Appadurai, thị trường này là “bất cứ điều gì dành cho trao đổi” (hoặc bất kỳ đối tượng nào có giá trị kinh tế). Xem thêm Phan Ngọc Chiến trong Tltk.
1. Đồng cốt và quá trình hình thành Mẫu Liễu trong văn hóa Việt Nam
1.1. Đồng cốt là gì?
Để đi sâu tìm hiểu nguồn gốc cũng như bối cảnh ra đời của biểu tượng Mẫu Liễu thì chúng ta không thể không tìm hiểu về sự tồn tại và phát triển của hiện tượng đồng cốt trong văn hóa Việt Nam. Vậy đồng cốt là gì? Câu trả lời phổ biến hiện nay là một hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng đã và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, xét dưới góc độ từ nguyên học và góc nhìn chức năng thì đồng và cốt tuy có liên quan chặt chẽ với nhau nhưng về bản chất lại rất khác nhau. Chính sự lẫn lộn giữa các chức năng này mà việc giải nghĩa thuật ngữ đồng cốt trong các từ điển ở Việt Nam luôn gây ra nhiều tranh luận, thậm chí là mâu thuẫn.
Điểm qua một số bộ từ điển có uy tín ở Việt Nam có mục từ đồng cốt, chúng ta có thể thống kê được một số cách lý giải căn bản như sau:
Theo Alexandre de Rhodes thì “Đồng, cái đồng: Gương, kiếng. Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú.Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính” [de Rhodes 1991].
Còn Đào Duy Anh thì cho rằng: “Người đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự xưng là đồng tử của thần tiên nên người ta thường gọi là ông đồng” [ Đào Duy Anh 1974, tr.136].
Huỳnh-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quốc âm tự vị (tr.323) giải nghĩa chữ đồng (童) ở đây là đứa trẻ và từ lên đồng là “Thần quỷ nhập vào người nào, bắt phải nóng nảy, nói thàm như đứa trẻ điên; lời người ấy nói ra, nhiều người tin là lời quỷ thần”.
Những cách lý giải này được các học giả về sau như Nguyễn Văn Huyên, Ngô Đức Thịnh, Vũ Ngọc Khánh sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu về ‘Đạo Mẫu’ nhưng chữ cốt trong đồng cốt lại hầu như bị các học giả nói trên bỏ qua. Trên thực tế, để tìm hiểu một cách cặn kẽ về từ nguyên của các thuật ngữ như đã đề cập ở trên và chức năng của chúng, chúng ta cần phải đi từ gốc Hán tự.
Trong các bộ từ điển Hán-Việt/Việt-Hán ở Việt Nam hiện nay hầu như không tìm được mục từ đồng cốt mà chỉ có mục từ đồng. Nhưng khi tra các từ điển Hán- Anh/Anh-Hán thì dễ dàng tìm thấy các mục từ tương đương, chẳng hạn các từ wizard (thầy pháp, thầy phù thủy), shaman (pháp sư, thầy cúng), witch (phù thủy) đều có các kết quả dẫn đến hai từ vu (巫) và hích (觋). Tra nghĩa của từ vu và hích trong từ điển (chẳng hạn như trong Việt Nam từ điển) chúng ta có các kết quả như sau:
巫 vu, phiên âm: wū, wú
1. (Danh từ) Đồng cốt, kẻ cúng quỷ thần cầu phúc cho người. Như: Nữ vu 女巫 bà đồng cốt.
2. (Danh từ) Họ Vu.
覡 hích, phiên âm: Xí 1. (Danh) Thầy cúng, ông đồng. Thuyết văn giải tự (說文解 字): Năng trai túc sự thần minh giả, tại nam viết hích, tại nữ viết vu (能齋肅事神明 者 , 在男 曰覡 , 在女曰 巫 ) Biết giữ mình trong sạch thờ cúng thần minh, đàn ông gọi là hích, đàn bà gọi là vu.
Như vậy, vu hích là cụm từ chỉ những người hành nghề cúng bái đã tồn tại từ lâu đời trong văn hóa Trung Hoa như Thuyết văn giải tự đã nêu. Vu hích (巫覡) có âm Hán là wu-xí hay phù thủy.
Chữ đồng trong cách giải thích của Alexandre de Rhodes (bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú) xem ra hết sức khiên cưỡng cho dù đó là chiếc gương được làm bằng kim loại đồng. Cách giải thích của Đào Duy Anh (đồng tử của thần tiên) tuy đúng hướng nhưng cũng mới chỉ nêu được một khía cạnh của vấn đề. Để đi sâu hơn trong việc giải nghĩa thuật ngữ này, cần phải tìm hiểu thêm các mục từ cận nghĩa như 仙童/tiên đồng, 童乩/đồng kê. Kết quả là chữ đồng xuất phát từ âm Hán Việt được sử dụng trong đồng cốt có mục từ tương đương là đồng kê (âm Hán là tóngjī) được giải nghĩa là người trung gian kết nối với hồn người chết.1
1 Nguyên văn: tóngjī 童乩: medium who communicates with the dead (Daoism). Xem thêm trong: http://dictionary.pinpinchinese.com/ Truy cập 12/8/2016.
Trong khi đó, mục từ cốt trong Việt Nam từ điển tuy có nhiều nghĩa khác nhau nhưng hai nghĩa gần nhất là ‘xương cốt, gân cốt’ (骨 phiên âm:gŏ, gū, gú) và ‘bà đồng cốt’ (巫 phiên âm: wū, wú). Như vậy, cốt ở đây chính là bà đồng cốt hay đúng ra là bà cốt (trong ông đồng, bà cốt) vốn bắt nguồn từ Hán tự.
Có thể thấy nếu chỉ hoàn toàn dựa vào âm tiếng Việt mà bỏ qua gốc Hán tự thì chúng ta sẽ bỏ sót một phần quan trọng của ý nghĩa, thậm chí có thể nhầm lẫn do hiện tượng đồng âm khác nghĩa gây nên, chẳng hạn như: “Cốt có nghĩa là Bà Cốt mà Tavernier giải thích là tên gọi người phù thủy ở Đàng Ngoài, biến âm Bà Cô tí (cô gái nhỏ) thành Bacoti, tức bà Cố. Cốt còn được giải nghĩa là thân xác, xương cốt của con đồng mà thần linh nhập vào”[ Ngô Đức Thịnh 2010, tr.86].
Có thể thấy chữ cốt theo các lý giải trên là ‘người phù thủy’ chỉ đúng một nửa (đúng ra phải là nữ phù thủy) còn Bà Cô tí, Bacoti hay bà Cố là những cách lý giải vừa sai vừa mang tính ‘’dân gian.’’ Còn cốt với hàm nghĩa là ‘’thân xác, xương cốt của con đồng’’ thì hoàn toàn sai nếu đối chiếu với nghĩa Hán tự trong ngữ cảnh này. Nói tóm lại, đồng cốt là một hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng có liên quan đến thuật phù thủy (wu xi, witchcraft). Người thực hiện các nghi lễ lên đồng (ông đồng, bà đồng/cốt) là những người trung gian kết nối với các linh hồn.
Người hầu đồng đa số là những người trẻ tuổi. Người phụ nữ thực hiện các nghi lễ lên đồng được gọi là bà cốt. Thuật ngữ này bắt nguồn từ một âm Hán có nghĩa tương đương là cốt 巫 (vu trong âm Hán Việt và wū hay wú trong âm Hán). Tương tự, bà cốt trong tiếng Nhật gọi là vu bà -巫 婆 (chữ hiragana là ふや, đọc là fuya). Thuật phù thủy trong văn hóa Trung Hoa cũng như Nhật Bản đều được gọi là vu thuật (巫術). Các nghiên cứu về hiện tượng đồng cốt hiện nay ở Việt Nam thường đề cập nhiều đến đồng như lên đồng, trình đồng mà ít đề cập đến cốt. Tuy nhiên, trên thực tế, vai trò của bà cốt mới thực sự quan trọng, chuyên mục dưới đây sẽ làm rõ hơn về vấn đề này.
1.2. Vai trò của ‘’bà cốt’’ và sự hình thành biểu tượng thánh mẫu ở Việt Nam
Vì sao khi nói đến tín ngưỡng đồng cốt ở Việt Nam các tín đồ của ‘Đạo Mẫu’ cũng như các nhà nghiên cứu thường gọi ông đồng, bà đồng mà ít khi gọi bà cốt? Có thể nói, đây là hiện tượng Việt hóa các yếu tố văn hóa Hán của người Việt, theo đó, bà cốt hay vu bà (巫 婆) trong các vu thuật (巫術) được giản hóa theo cách sử dụng của người Việt.1 Nếu làm một so sánh giữa hích (nam phù thủy) và vu (nữ phù thủy) với thực tế đang diễn ra trong xã hội Việt Nam thì sẽ thấy sự vượt trội của các yếu tố nữ trong tín ngưỡng đồng cốt mà tên gọi ‘tín ngưỡng thờ mẫu’ hay ‘Đạo Mẫu’ là minh chứng rõ nét nhất cho nhận định này. Đây chính là một hiện tượng mẫu hóa các yếu tố văn hóa liên quan đến phụ quyền của Trung Hoa trong văn hóa Việt Nam.2
1 Hiện tượng này cũng giống như sự biến đổi của kỳ và lân vốn là hai loại đực và cái trong văn hóa Trung Hoa được biến thành một con vật phi giới tính là kỳ lân trong văn hóa Việt Nam. Thậm chí ở miền Bắc còn gọi các sư nữ (ni/ni cô) là thầy(!) vốn chỉ dùng cho sư nam.
2 Tương tự, chúng ta có thể tìm thấy một số hiện tượng khác như Lệnh ông không bằng cồng bà, tiên cưỡi rồng…
Rất có thể, những người hành nghề phù thủy, cúng bái (shamanists) trong văn hóa Việt trước khi chịu ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Hoa cũng giống như những thầy cúng, thầy mo, thầy mỡi trong văn hóa dân gian các tộc người ở Việt Nam hiện nay. Họ có thể là nam hoặc nữ (thông thường nam chiếm tỉ lệ cao hơn). Khi Đạo giáo Trung Hoa phát triển hưng thịnh ở Việt Nam (cùng với Nho giáo và Phật giáo) thì đa số các tín ngưỡng thờ thần bản địa, đặc biệt là các nữ thần ít có cơ hội phát triển mà thường bị lấn át, trấn áp hoặc bị đồng hóa.
Sau khi Đạo giáo suy tàn (khoảng thế kỷ XVI), các Đạo quán dần biến thành chùa và thần điện Đạo giáo với vô số các vị thần, thánh bị li tán. Hầu hết các vị thần, thánh trong thần điện của Đạo giáo (như Tam Thanh, Quan Nguyên Sư, Ngọc Hoàng, Đế Thích,…) được đưa vào các ngôi chùa hình thành nên một cấu trúc mới của Phật điện có cả các vị Phật, Bồ tát, thần và thánh. Các vị thánh của Đạo giáo khi nhập vào điện thờ Phật được sắp xếp ở các vị trí thấp hơn các chư Phật hay Bồ tát trong Phật điện. Một số vị thần, thánh khác của Đạo giáo được bản địa hóa thành các vị thần dân gian như Quan Công, Cửu Thiên Huyền Nữ...
Trong giai đoạn nội chiến (Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn), do ít chịu sự quản lý của triều đình nên các loại hình tín ngưỡng dân gian bản địa có cơ hội phục hưng trong đó có tín ngưỡng thờ nữ thần. Sự phát triển của tín ngưỡng thờ nữ thần tạo nên các thiết chế thờ nữ thần ở nhiều vùng cư trú của người Việt cũng như ở nhiều tộc người khác. Đặc biệt, một số cơ sở thờ tự của tín ngưỡng thờ nữ thần hay thờ mẫu đã được nâng cấp lên thành các thần điện tương tự như Đạo giáo với tên gọi phủ như phủ Dầy/Dày/Giày, phủ Tây Hồ là nơi thờ thánh mẫu (danh xưng thánh trong danh từthánh mẫu chính là cách gọi trong Đạo giáo).
Có thể nói, đây chính là bối cảnh phù hợp nhất để biểu tượng thánh mẫu phỏng theo mô hình Đạo giáo hình thành và phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, nếu chỉ tồn tại trong văn hóa dân gian như các vị thần dân dã khác thì rất khó để tín ngưỡng thờ thánh mẫu phát triển vượt trội như các tôn giáo ngoại nhập (Nho/Phật/Đạo) mà nó cần đến một ‘cú hích’ của giới trí thức tinh hoa trong xã hội qua quá trình ‘san định’ huyền thoại, truyền thuyết.
Quá trình ‘san định’ 1 các huyền thoại, truyền thuyết của tầng lớp trí thức nho học chính là yếu tố quyết định để biểu tượng thánh Mẫu ra đời mà đại tự sự về Thánh Mẫu Liễu Hạnh là trường hợp tiêu biểu nhất. Trong Vân Cát thần nữ của Đoàn Thị Điểm (1705-1748), “ngoài các tình tiết chính lấy từ huyền thoại và truyền thuyết dân gian thì Đoàn Thị Điểm đã sáng tạo nên nhiều tình tiết mới. Sau này, một số nhà nho như Nguyễn Công Trứ (?), Kiều Oánh Mậu (1905) cũng đã san định, khiến tiểu sử của Liễu Hạnh công chúa có thêm nhiều tình tiết và phong phú hơn” [Ngô Đức Thịnh 2010, tr.16].
1 San định là sửa sang lại một văn bản cổ bằng cách bỏ đi những đoạn cho là không hợp, xác định những chỗ còn có nghi ngờ và sắp xếp lại. Khổng Tử san định ngũ kinh. Hoàng Phê cb. (1998),Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển tiếng Việt xb. Tr. 815.
Qua đó có thể thấy, các động từ ‘san định’ hay ‘sáng tạo’ ở đây chính là quá trình ‘hàn lâm hóa’ tín ngưỡng thờ thần bản địa theo mô hình Đạo giáo Trung Hoa mang đậm dấu ấn của các nho sĩ. Quá trình này giúp cho đồng cốt từ một tín ngưỡng dân gian (phù thủy) được “giáo lý hóa” tạo nên một loại hình ‘đạo’ riêng của người Việt mà Nguyễn Văn Huyên cũng như một số học giả khác gọi là “nội đạo tràng.” 1
Việc hình thành nên các phủ thờ mẫu và các nghi lễ hầu thánh có sự sao chép hình mẫu của Đạo giáo Trung Hoa đã từng tồn tại và phát triển hưng thịnh ở Đại Việt trước đó. Tuy nhiên, đối tượng trọng tâm được thờ ở đây là thánh Mẫu nên vai trò của nữ vu - nữ phù thủy (hay bà cốt) sẽ là trọng tâm. Có lẽ vì vậy mà những người hầu thánh Mẫu đa phần là nữ (những người là nam thì thường có tính nữ hoặc tự nhận là có căn đồng mà một số người gọi là “tám vía”). 2
1 Xem thêm: Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Trên thực tế thì một tín ngưỡng chỉ cần có niềm tin mà không nhất thiết phải có giáo lý nhưng một ‘đạo’ thì cần phải có giáo lý để tồn tại và phát triển. Điều này phải cần đến sự đóng góp của tầng lớ trí thức.
2 Theo quan niệm của người Việt thì đàn ông có bảy vía và đàn bà có chín vía. Người không thể hiện rõ là nam hay nữ được gọi là tám vía. Loại giới tính không rõ ràng này hiện nay đang được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, điển hình là các nghiên cứu về LGBT (viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Lesbian, Gay, Bisexual & Transgender - Đồng tính nam, Đồng tính nữ, Song giới và Chuyển giới).
Như vậy, mặc dù không được gọi bằng cái tên nguyên gốc là bà cốt nhưng những bà đồng/cốt người Việt đã đóng một vai trò hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của tín ngưỡng thờ mẫu. Tuy nhiên, để đưa một tín ngưỡng dân gian bản địa lên ngang tầm một tôn giáo lớn như Đạo giáo Trung Hoa thì sự đóng góp về trí tuệ của các trí thức nho học trong việc sáng tạo nên biểu tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh là không thể phủ nhận. Chính sự đóng góp ‘chất xám’ này đã tạo nên một loại hình tín ngưỡng riêng của người Việt với các nghi thức long trọng, đẹp đẽ, uy nghi đầy tính nghệ thuật.1
1 Thậm chí ngay trong giai đoạn hiện nay, sự đóng góp chất xám của các trí thức trong xã hội đã góp phần “san định” thêm vào sự phong phú của tín ngưỡng thờ Mẫu để tạo nên một đại tự sự về Mẫu Liễu thời hiện đại như CXG-PLH đã đề cập.
Sự hình thành nên các trung tâm thờ mẫu ở phủ Dầy (Nam Định), đền Sòng (Thanh Hóa), đền Mẫu (Lạng Sơn),… là những minh chứng rõ nét cho quá trình ‘sáng tạo truyền thống’ để tạo nên hoặc củng cố biểu tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong văn hóa Việt Nam. Điều này cũng khẳng định tính trội của ‘văn hóa mẹ’ (chữ dùng của GS. Trần Quốc Vượng) đối với người Việt xưa và nay.
Nói cách khác, người Việt đã sáng tạo nên một biểu tượng truyền thống của riêng mình bằng sự kết hợp một tín ngưỡng dân gian bản địa với Đạo giáo Trung Hoa. Đặc biệt hơn, họ đã biết cách Việt hóa hay ‘mẫu hóa’ tôn giáo đó để tạo nên một loại ‘đạo’ riêng của người Việt mà đề xuất tên gọi Đạo Mẫu không phải là không có cơ sở [xem Ngô Đức Thịnh 2010, tr.10]. Để hiểu rõ hơn về quá trình sáng tạo đó, chúng tôi sẽ đặt đối tượng nghiên cứu này dưới góc nhìn sáng tạo truyền thống theo quan điểm lý thuyết của Eric Hobsbawm.
1.3. Sáng tạo truyền thống và sự hình thành biểu tượng Mẫu Liễu ở Việt Nam
Như đã đề cập ở trên, các thầy cúng hay thầy phù thủy chính là tiền đề cho sự ra đời của hiện tượng đồng cốt trong văn hóa của người Việt. Họ chính là những vị ‘’thầy’’ (master) hay đúng hơn là những người thực hành các công việc có liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng (religious specialists). Dưới góc nhìn nhân học tôn giáo, họ là những thầy shaman (bao gồm cả nam và nữ) tồn tại ở nhiều nền văn hóa trải khắp các châu lục từ Á sang Âu, từ Mỹ sang Phi trong cả văn hóa phương Đông và phương Tây. Ở Việt Nam, các vị thầy này tồn tại trong văn hóa nhiều tộc người với các tên gọi khác nhau như thầy mo, thầy mỡi, thầy cúng, thầy pháp, thầy địa lý, thậm chí là thầy phong thủy…
Khi du nhập vào văn hóa Việt từ hàng nghìn năm trước, Đạo giáo là một trong Tam giáo (Nho-Phật-Đạo), vì vậy, sẽ rất khó để các vị thần bản địa có thể ‘chen chân’ vào và ‘’leo lên’’ cao trong thần điện của Đạo giáo. Cho tới thế kỷ XVI, khi Đạo giáo ở Đại Việt tàn lụi và các Đạo quán dần được chùa hóa như chùa Mui, chùa Linh Tiên, chùa Sổ [Đinh Hồng Hải 2012, tr.158-177] thì tín ngưỡng thờ mẫu theo mô hình của thần điện Đạo giáo mới có chỗ đứng. Tuy nhiên, chúng ta có rất ít dữ liệu về tín ngưỡng thờ mẫu giai đoạn này. Những văn bản sớm nhất còn ghi lại cũng chỉ từ thế kỷ XVIII trở lại đây như các nhà nghiên cứu đã chỉ ra.1
1 Tài liệu được coi là sớm nhất chính là Vân Cát Thần Nữ của Đoàn Thị Điểm - thế kỷ XVIII.
Như vậy, những gì chúng ta biết được về tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay đa phần được ‘’sáng tạo’’ ở thời cận đại và hiện đại. Điều này có dấu ấn đậm nét của giới trí thức nho học giai đoạn này cũng như giới trí thức hàn lâm hiện nay. Ở mục 1.2 chúng ta đã tìm hiểu quá trình san định ‘‘lý lịch’’ Thánh Mẫu Liễu Hạnh của các bậc danh nho thời cận đại. Nhưng những đóng góp của các nhà khoa học đương đại đối với sự phát triển của Đạo Mẫu hiện nay, thậm chí còn lớn hơn, như phát hiện của CXG-PLH về đại tự sự Mẫu Liễu là một minh chứng rõ nét.
Từ năm 1986, quá trình “mở cửa” kinh tế và văn hóa của Việt Nam (sau hơn nửa thế kỷ “chống mê tín dị đoan” một cách cực đoan) đã tạo nên một làn gió mới trong đời sống tinh thần của người Việt. Quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng được quy định trong Hiến pháp và được luật hóa đã trao cho người dân quyền khôi phục lại những gì đã bị phá bỏ trước đó. Đặc biệt, sự ra đời của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII, trong đó nhấn mạnh đến vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giống như một ‘‘thượng phương bảo kiếm’’ để phục dựng hoặc sáng tạo các yếu tố văn hóa truyền thống. Con số hơn 8000 lễ hội/năm mà Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch mới công bố hay sự ‘’công nhận’’ tới 03 vị vua tổ (Hùng Vương, Lạc Long Quân và Kinh Dương Vương) chính là kết quả của quá trình tự do hóa này. Nhu cầu sáng tạo truyền thống theo đó cũng rộ lên ‘’trăm hoa đua nở’’ với nhiều di tích được cải tạo hoặc xây mới và nhiều nghi lễ được tạo ra bất chấp nguồn tư liệu truyền thống vô cùng ít ỏi thậm chí là không có.
Trong bối cảnh đó, tầng lớp trí thức hàn lâm trong xã hội Việt Nam đương đại được sử dụng như những ‘’công cụ’’ để thẩm định (hay khẳng định?) các giá trị truyền thống mới được phục dựng hoặc mới được tạo ra.
Những phát ngôn hay những công trình được công bố của họ mặc nhiên được xem như các dẫn chứng để khẳng định tính xác quyết về sự tồn tại của truyền thống đó. Theo sau các nhà khoa học, giới truyền thông cũng ‘vào cuộc’ và cũng đã góp phần quan trọng trong việc nâng tầm các ‘’giá trị văn hóa truyền thống’’ để phục vụ cho mục đích quảng bá và hướng tới một trong những mục tiêu lớn nhất: Đó là được UNESCO công nhận di sản văn hóa!1
1 Các hồ sơ về Lễ hội Phù Đổng, Lễ hội đền Hùng, Thành nhà Hồ đều được Nhà nước hỗ trợ từ tiền ngân sách.
Trong cơn sốt tìm về cội nguồn của xã hội đương đại, biểu tượng Mẫu Liễu dễ dàng được công nhận như một vị ‘‘tổ Mẫu,’’ một vị thánh (trong đó thánh là danh từ của Đạo giáo và Mẫu trong thờ Mẫu tuy là một từ gốc Hán nhưng là một tín ngưỡng bản địa của người Việt). Mẫu Liễu trở thành một biểu hiện cụ thể của hiện tượng hỗn dung của một tôn giáo (Đạo giáo) với một tín ngưỡng (thờ nữ thần) trong văn hóa Việt Nam với những dấu ấn quan trọng và những tác động to lớn của giới trí thức thời cận hiện đại.
Dưới góc nhìn lý thuyết của Eric Hobsbawm, sự sáng tạo truyền thống (như đối với Đạo Mẫu ở Việt Nam) là một hiện tượng khá phổ biến không chỉ ở những quốc gia hậu XHCN (post-socialist) mà còn tồn tại ngay ở cả những xã hội phát triển cao như nước Anh hay nước Nhật.2 Để làm rõ hơn quá trình sáng tạo truyền thống qua biểu tượng Mẫu Liễu ở Việt Nam, chúng ta cần kết nối các vấn đề có liên quan từ các huyền thoại, truyền thuyết đến những biểu hiện cụ thể trong đời sống đương đại. Qua đó xác định vai trò của tầng lớp trí thức trong xã hội đối với quá trình hình thành và phát triển của tôn giáo, tín ngưỡng mà Đạo Mẫu và biểu tượng Mẫu Liễu là một trong những ví dụ tiêu biểu nhất. Thông qua đây chúng ta cũng có thể khẳng định lại các giá trị văn hóa, nghệ thuật mà tín ngưỡng thờ mẫu đã tạo nên và xác định một số ‘’biến tướng’’ mà một số cá nhân đã sử dụng để trục lợi từ niềm tin của các tín đồ.
2 Xem Lời giới thiệu của Eric Hobsbawm, sđd.
2. Mẫu Liễu trong huyền thoại và trong đời sống của người Việt
2.1. Mẫu Liễu qua tư liệu lịch sử và truyền thuyết
Như đã phân tích ở trên, hiện tượng đồng cốt cùng các danh xưng ông đồng bà cốt ở Việt Nam có liên quan đến thuật ngữ đồng (童) và cốt (巫) từ gốc Hán tự. Mặc dù các hiện tượng phù thủy hay shaman chắc hẳn đã tồn tại trong văn hóa của người Việt trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng với chứng cứ về mặt ngôn ngữ như đã nêu thì hiện tượng đồng cốt ở Việt Nam chính là sự kết hợp giữa tín ngưỡng phù thủy hay shaman của người Việt với Đạo giáo Trung Hoa để hình thành nên một loại tín ngưỡng mới.
Tài liệu sớm nhất đề cập đến từ đồng cốt được phát hiện là vào đời Trần đề cập đến lên đồng ở giai đoạn trị vì của Lý Thần Tông (1116-1138)1 trong khi các tài liệu đề cập đến Mẫu Liễu thì muộn hơn rất nhiều. Văn bản sớm nhất mà giới chuyên môn có được cho đến nay là bản Vân Cát thần nữ của Đoàn Thị Điểm thế kỷ XVIII.2 Tuy nhiên, Vân Cát thần nữ không phải là sử hay ký mà chỉ là một dạng truyện, vì vậy, tác giả của nó có quyền hư cấu vô giới hạn. Đối lập với các tư liệu lịch sử hết sức hiếm hoi thì các truyền thuyết về Mẫu Liễu vô cùng phong phú. Tìm hiểu vị nữ thần này trong các truyền thuyết chúng ta có thể thấy ngay các mục cơ bản trong ‘’lý lịch trích ngang’’ của bà (như ngày sinh, nơi sinh, họ tên cha, họ tên mẹ…) rất khác nhau:
1 Dẫn theo những ghi chép trong Thiền Uyển Tập Anh: “Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: “Cái gì là ý chính Thiền tôn của các Tổ?” Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: “Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?”. Soạn giả Kim Sơn (1337). Thiền Uyển Tập Anh, Lê Mạnh Thát dịch và chú giải. Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn xb. 1976. tr.133.
2 Theo GS. Ngô Đức Thịnh thì có thể Đoàn Thị Điểm viết Vân Cát thần nữ khoảng từ 1730-1740. Xem lại Đạo Mẫu Việt Nam (2010) sđd tr.136.
Biểu đồ 12. ‘’Nhân thân’’ Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Trên đây là những thông tin căn bản trong một số bản ‘’lý lịch trích ngang’’ phổ biến của Mẫu Liễu được nhiều nhà Nho và học giả cận đại ghi chép lại, chúng cho thấy những khác biệt hết sức lớn về ‘’nhân thân’’ của Mẫu Liễu. Đó là chưa kể đến những ‘mảnh vụn’ truyền thuyết với nhiều khác biệt hơn nữa về cuộc đời của bà.
Những tưởng sự khác biệt ‘’lý lịch’’ đó có thể dẫn đến những mâu thuẫn của các cộng đồng tín đồ thờ mẫu ở Nam Định, Thanh Hóa và những nơi khác.1 Nhưng điều đó đã được giải quyết một cách hết sức hòa bình vì chúng được hợp lý hóa bằng ba lần giáng sinh của bà. Đây là một sáng tạo tuyệt vời của tri thức dân gian (hay hàn lâm?) của người Việt trong việc giải quyết các xung đột, mâu thuẫn (nếu có) giữa các cộng đồng tín đồ khác nhau. Dĩ nhiên, tín đồ của Mẫu Liễu ở mỗi nơi đều muốn ngôi đền của họ chính là nơi giáng sinh của Thánh Mẫu nhưng các vị Thánh Mẫu đó lại có nhân thân rất khác nhau (trong khi Đức Thánh Trần có nhân thân khá thống nhất ở các cơ sở thờ tự khác nhau). Nhờ có ba lần giáng sinh mà vấn đề nhân thân khác nhau không những đã được chấp nhận một cách dễ dàng mà còn tạo nên một sự đoàn kết trong cộng đồng tín đồ thờ mẫu ở nhiều địa phương khác nhau.
1 Điều này đã từng xảy ra ở nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác mà xung đột giữa dòng Hồi giáo Shite va Sunny là tiêu biểu nhất.
Việc tìm cách hợp lý hóa nhân thân của Mẫu Liễu như trên khó có thể do tầng lớp bình dân ‘ít chữ’ tạo ra mà nó đòi hỏi những người ở tầng lớp có học thực hiện. Điều này đã được chứng minh thông qua sự san định các truyền thuyết về Mẫu Liễu của các trí thức Nho gia như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Công Trứ, Kiều Oánh Mậu khi xưa và tầng lớp trí thức phi nho hiện nay như Ngô Đức Thịnh, Vũ Ngọc Khánh,... thậm chí, một học giả đương đại còn đề cập đến tính dự báo xuyên thế kỷ của truyền thuyết Tam thế giáng sinh và tác phẩm “Vân Cát thần nữ” của Đoàn Thị Điểm, qua đó ‘’gắn với lịch sử giai đoạn Hậu Lê kéo dài 356 năm’’ cùng ‘’khát vọng của nhân dân về một vị vua có thể đem lại sự bình yên thịnh trị cho đất nước.’’ Từ đó đặt vấn đề: ‘’Phải chăng mẫu họ Hoàng Tây Mỗ đã tiếp tục giáng sinh vào cửa họ Hoàng (chi nhánh họ Hoàng Xuân) ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An vào năm 1868 để sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 2/9/1945?’’ [Nguyễn Thị Yên 2010].
Qua đó có thể thấy các câu chuyện ‘truyền kỳ’ về Mẫu Liễu đã được tầng lớp Nho sĩ thời phong kiến và các trí thức thời nay đại tự sự hóa thành một vị tổ của Đạo Mẫu. Đại tự sự này đi qua một giai đoạn lịch sử nhiều biến động với chân dung các nhân vật có thật từ Phùng Khắc Khoan thời phong kiến đến Chủ tịch Hồ Chí Minh ở thời hiện đại.
Sự góp mặt của các nhân vật nổi tiếng và có thật trong đời sống đã khiến cho các truyền thuyết (vốn dĩ phi lịch sử) ‘thấm’ vào các tác phẩm văn học dân gian hay dã sử rồi được lịch sử hóa để đi vào đời sống tâm linh và cả đời sống thực của các tín đồ. Nếu như ‘’Đạo Mẫu Việt Nam’’ được công nhận là một tôn giáo của người Việt (như đạo Cao Đài hay Hòa Hảo) thì các trí thức người Việt đã đề cập ở trên chính là những người có công lớn trong việc tạo lập nên (hay sáng tạo nên) tôn giáo này thông qua đại tự sự về Mẫu Liễu.
2.2. Mẫu Liễu trong đời sống ‘tâm linh’ và trong ‘đời thực’ Sau một giai đoạn chống mê tín tới mức cực đoan hủy hoại nhiều thiết chế tôn giáo và tín ngưỡng từ 1945 đến giai đoạn ‘’mở cửa’’ 1986, nhiều người Việt Nam chợt nhận ra một phần vô cùng quan trọng trong đời sống của họ đã không được coi trọng, đó là đời sống tinh thần. Một phần đời sống tinh thần của người Việt Nam có liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng được gọi một cách hết sức trừu tượng là ‘’tâm linh.’’ Đây chính là nguyên nhân để một cơn sốt bùng lên sau giai đoạn ‘’đổi mới.’’ Các ngôi đền, đình, chùa, miếu, phủ từng bị đập phá nay lại được khôi phục, xây mới; Các bản thần phả, gia phả đã bị phá hỏng hoặc chôn giấu kỹ lưỡng được chép lại hoặc đào lên; Các vị thần, thánh bị loại bỏ trong phong trào tiêu thổ kháng chiến được vời về; Các vị vua tổ/quốc tổ được xây tượng; bên cạnh các hoạt động xây nghĩa trang và tìm hài cốt liệt sĩ… trong bối cảnh đó, nhu cầu giao tiếp với ‘’thế giới tâm linh’’ ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách. Vậy ai sẽ giúp con người giao tiếp với thế giới bên kia trong cơn sốt tìm về cội nguồn và tổ tiên? Câu trả lời gần như được thỏa mãn ngay lập tức: Những người người trung gian kết nối với hồn người chết (như đã đề cập trong mục 1.1). Họ chính là những ‘’thông dịch viên’’ cho những ai có nhu cầu. Các ông đồng, bà cốt từ chỗ bị truy đuổi vì ‘’mê tín dị đoan’’ nay trở thành những người có vai trò đặc biệt quan trọng và được gọi bằng ‘’thầy.’’
Có cầu ắt có cung, số lượng các ông đồng, bà đồng chính thức (được gọi là đồng thầy) rồi cả ‘’đồng đua, đồng đú’’ tăng lên một cách nhanh chóng với nhu cầu ngày một cao của thị trường tâm linh. Như một lẽ tất yếu, những người hành nghề đồng cốt cần tìm lại hoặc sáng tạo cho họ một vị tổ nghề, và không ai phù hợp hơn là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Không chỉ thỏa mãn cơn khát tìm một vị tổ Mẫu, Mẫu Liễu còn góp phần giải tỏa lòng tự ti dân tộc của một bộ phận người Việt Nam bởi họ chưa từng có cho mình một tôn giáo truyền thống. Hơn thế, yếu tố truyền thống ở đây lại rất phù hợp với tinh thần của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII là tìm về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nhất cử lưỡng tiện, những người tham gia vào công cuộc chấn hưng hoặc tạo dựng Đạo Mẫu vừa nhận được sự ủng hộ của các cấp quản lý lại vừa nhận được sự ủng hộ cả về tinh thần cũng như vật chất của các tín đồ. Chừng đó thôi cũng đủ để các tín đồ của tín ngưỡng thờ Mẫu phục dựng (hay sáng tạo) truyền thống của mình chỉ trong một thời gian cực ngắn (khoảng hơn hai thập niên). Có vẻ như cái đích để tín ngưỡng thờ Mẫu được công nhận là một tôn giáo có tên gọi Đạo Mẫu chỉ còn là vấn đề thời gian.
Nhưng những cơ hội nói trên có nguy cơ ‘’đổ xuống sông xuống biển’’ vì một hiệu ứng nằm ngoài dự kiến của các tín đồ thờ Mẫu: Trào lưu giao tiếp với người âm vốn mô phỏng lên đồng được áp dụng vào ‘’đời thực.’’ Thông qua đó các dịch vụ ngoại cảm, gọi hồn, áp vong nở rộ để giao lưu với tổ tiên và người thân đã khuất. Vượt ra khỏi khuôn khổ của một loại nghi lễ biểu tượng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, loại hình dịch vụ mới này còn được ứng dụng để tra kết quả số đề, chơi lô-tô, dự đoán chứng khoán, giá nhà đất vì ‘’người âm’’ có những khả năng siêu phàm mà ‘’người trần mắt thịt’’ không thể có được (!) như những lời quảng cáo của các nhà cung ứng dịch vụ này. Thậm chí, dịch vụ gọi hồn, áp vong, tìm mộ liệt sĩ đã cung cấp một loại hình sản phẩm dịch vụ mới để ‘’gọi’’ được vong linh của thân nhân những người bình thường và cả những vị nổi tiếng như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hồ Chí Minh…(!).
Cần phải lưu ý lại rằng, những hoạt động này hoàn toàn mới và đều mô phỏng lên đồng1 nhưng dường như đã khiến cho cả xã hội ‘’lên cơn sốt’’ vì đánh trúng vào cơn khát tìm hiểu thế giới ‘’tâm linh’’ sau một thời gian dài bị cấm đoán của người dân Việt Nam. Nhưng những người cung cấp dịch vụ ‘’tâm linh’’ này dường như đã và đang khuấy đảo đời sống xã hội vì các hiện tượng ma quỷ hay bùa phép được công khai thực hiện. Không chỉ có thế, hiện tượng này còn được một số cơ quan được gọi là khoa học và truyền thông chính thống (có giấy phép hoạt động của nhà nước) cổ súy nên đã khiến cho nhiều người đinh ninh rằng các hiện tượng ma quỷ hay bùa phép đó chính là khoa học hay khoa học tâm linh (!). Mặc dù hiện tượng này đã được nhiều nhà khoa học thực thụ và nhiều cơ quan báo chí nghiêm túc chỉ ra nhưng có vẻ như loại hình dịch vụ này đang ăn nên làm ra vì nhu cầu (tâm linh) trong xã hội quá cao, bất chấp khuôn khổ của pháp luật và cả quy luật khách quan của khoa học. Dĩ nhiên, khi đã phát triển bất chấp khuôn khổ của pháp luật và quy luật của khoa học thì các dịch vụ này sẽ sớm bị cấm và tín thờ Mẫu cũng dễ bị liên lụy.2
1 Trên thực tế, lên đồng chủ yếu thể hiện các giá đồng - đóng vai trò như những nghi lễ biểu tượng của các vị thánh của Đạo Mẫu như ông Hoàng Mười, cô Ba/Bơ, cô Chín…
2 Cho dù tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình văn hóa, nghệ thuật đặc sắc nhưng nếu như nó bị trục lợi một cách bất chính thì những nỗ lực của giới trí thức trong việc tôn vinh tín ngưỡng thờ Mẫu sẽ trở thành ‘’dã tràng xe cát.’’
2.3. Mẫu Liễu qua các hoạt động nghiên cứu đương đại và tiến trình ‘’tôn giáo hóa’’ tín ngưỡng thờ Mẫu
Nếu không kể đến sự sáng tạo mang tính đột khởi (hay đột phá) của Đoàn Thị Điểm trong Vân Cát Thần Nữ cùng vô số truyền thuyết, thần phả, sắc phong của các triều đại phong kiến dành cho Mẫu Liễu, các công trình nghiên cứu đương đại trong hơn hai thập niên qua cũng có những đóng góp to lớn đối với tín ngưỡng thờ Mẫu và biểu tượng Mẫu Liễu. Theo con số thống kê chưa đầy đủ, với gần hai mươi đầu sách chuyên khảo, ba cuộc hội thảo quốc tế cùng hàng chục cuộc hội thảo quốc gia (không kể đến hàng trăm bài viết trên báo, tạp chí trong nước và quốc tế),… Mẫu Liễu và tín ngưỡng thờ mẫu là một trong những đối tượng nghiên cứu chiếm vị trí quan trọng nhất của Viện Văn hóa Dân gian (nay là Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cùng các nhà nghiên cứu thuộc nhiều cơ quan khoa học có liên quan trong hơn hai thập niên qua.
Đối tượng nghiên cứu này đã đưa tên tuổi một số nhà khoa học ở Việt Nam lên tầm quốc gia và quốc tế như Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Thị Hiền, Phạm Quỳnh Phương,... 1 Các quỹ học bổng và quỹ tài trợ khoa học Việt Nam giai đoạn này (như Ford Foundation, Sumitomo Foundation, Toyota Foundation,…) cũng đã tài trợ nhiều học bổng và chương trình nghiên cứu dành cho đối tượng văn hóa tín ngưỡng đặc thù này. Xa hơn, sự quan tâm của các học giả quốc tế đương đại như Janet Hoskins, Frank Porchan, Laurel Kendall, Philip Taylor, Karen Fjelstad, Kristen Endres, Barley Norton,… đã góp phần ‘’quốc tế hóa’’ loại hình tín ngưỡng này một cách nhanh chóng thông qua các xuất bản phẩm cùng nhiều luận văn, luận án được công bố ở nước ngoài. Một số cuốn sách chuyên khảo về lên đồng xuất bản tại nước ngoài đã chính thức đặt danh từ Đạo Mẫu tương đương với thuật ngữ tôn giáo trong tiếng Anh (Mother Goddess religion) và ‘’tôn giáo’’ này được giải thích là một trong những truyền thống tôn giáo lâu đời nhất của Việt Nam [Fjelstad, K. & Nguyen Thi Hien Cb. 2006, tr.7].
1 Đây là nhóm các nhà khoa học Việt Nam có nhiều ấn phẩm được xuất bản bằng tiếng Anh đề cập đến tín ngưỡng thờ Mẫu.
Qua đó có thể thấy, hành trình ‘’tôn giáo hóa’’ tín ngưỡng thờ mẫu trong xã hội Việt Nam đương đại đã gặp những điều kiện hết sức thuận lợi như:
- Quá trình tự do hóa tôn giáo và tín ngưỡng giai đoạn sau đổi mới;
- Quá trình hàn lâm hóa hay học thuật hóa các ấn phẩm có liên quan đến tín ngưỡng thờ mẫu;
- Quá trình quốc tế hóa các nghiên cứu về lên đồng và Mẫu Liễu…
Đặc biệt, các nghiên cứu này ít nhiều đều dựa trên các đại tự sự về Mẫu Liễu (như CXG-PLH đã đề cập) nên khi được phổ biến ở tầm quốc gia và quốc tế đều có xu hướng được văn bản hóa hay giáo lý hóa thông qua đại tự sự một cách vô tình hay hữu ý.
Trở lại với những phát hiện của CXG-PLH đã đề cập ở phần đầu nghiên cứu này với nhận định về ‘’các nghiên cứu học thuật đã tựa như trở thành một nhánh của đại tự sự về Mẫu Liễu,’’ các tác giả nói trên cho rằng ‘’đại tự sự Mẫu Liễu vẫn đang tiến triển mạnh mẽ về hướng tương lai. Sự thịnh vượng của phủ Tây Hồ ngày nay được người đến lễ bái xem như là hệ quả tất yếu của đại tự sự Mẫu Liễu,.... Đó là vấn đề thuộc về lĩnh vực niềm tin của tín ngưỡng dân gian, hay rộng ra là của tôn giáo tín ngưỡng.’’ Và cuối cùng các tác giả đặt ra một câu hỏi: Vậy, trong tương lai, liệu tôn giáo tín ngưỡng, ở cả bình diện thực hành và bình diện niềm tin của nó, vẫn có thể tồn tại mà không cần đến đại tự sự hay không? [Chu Xuân Giao, Phan Lan Hương 2008]. Điều này có liên quan đến vai trò của Mẫu Liễu trong đời sống của người Việt sẽ được nghiên cứu này đề cập đến dưới đây.
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu và vai trò của Mẫu Liễu trong đời sống các tín đồ người Việt
3.1. Mẫu Liễu trong vai trò một vị “tổ”
Mặc dù chưa ai có thể nói trước được rằng tín ngưỡng thờ Mẫu hay Đạo Mẫu có trở thành một tôn giáo thứ ba được ra đời ở Việt Nam (sau Cao Đài và Hòa Hảo) hay không, nhưng vai trò của Mẫu Liễu trong đời sống tinh thần của các tín đồ người Việt đã thực sự ăn sâu lan rộng vào một thế giới được gọi là ‘’tâm linh’’ trong vai trò của một vị tổ. Để xác định được vai trò vị tổ của Mẫu Liễu như một tôn giáo (như Chúa Giê-su với Ki-tô giáo hay Đức Phật với Phật giáo) thì cần phải thông qua những tiêu chí căn bản như có giáo lý, giáo luật/giáo giới, giáo hội, cơ sở thờ tự và điều quan trọng là phải được công nhận bởi thể chế nhà nước nơi nó tồn tại (nếu không sẽ bị coi là dị giáo hay đạo lạ).
Trong các tiêu chí căn bản nêu trên thì hệ thống điện thờ Mẫu được coi như những cơ sở thờ tự chính thống của Đạo Mẫu (chưa kể đến các điện thờ mẫu gắn với các chùa) là một điểm mạnh để Đạo Mẫu được công nhận như là một tôn giáo, bên cạnh sự tôn vinh của tín đồ đối với Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Trong khi đó, hệ thống giáo lý, giáo luật/giáo giới lại chưa được hoàn thiện, nếu so sánh với Cao Đài và Hòa Hảo thì Đạo Mẫu rất yếu về các điểm này. Và một trong những điểm yếu nhất mà Đạo Mẫu cần phải vượt qua nếu muốn được công nhận như một tôn giáo là chưa có giáo hội hay một thiết chế tương đương.
Mặc dù các hoạt động của Đạo Mẫu phát triển rất nhanh, rất mạnh và rộng khắp cả ba miền và đang vươn ra tận hải ngoại nhưng Đạo Mẫu vẫn chưa có một tổ chức có thể bao quát toàn bộ các hoạt động này (như Giáo hội Phật giáo với tín đồ Phật giáo hay Hội thánh Tin Lành với tín đồ Tin Lành,…). Có vẻ như đây chính là ‘’gót chân A-sin’’ mà các tín đồ Đạo Mẫu phải củng cố nếu muốn một thể chế nhà nước (có thể là nhà nước Việt Nam hoặc một nhà nước khác) công nhận là một tôn giáo. Vậy một tôn giáo mô phỏng Đạo giáo Trung Hoa tại Việt Nam như Đạo Mẫu có thể có một vị tổ riêng cho các tín đồ Đạo Mẫu người Việt hay không?1 Nếu xem xét hai tôn giáo (một quốc tế và một ở Việt Nam) là Đạo Thiên chúa và Đạo Hòa Hảo chúng ta thấy Chúa Giê-su là người theo Đạo Do Thái nhưng lại chính là vị tổ sáng lập nên Đạo Ki-tô. Còn Đạo Hòa Hảo là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939 theo pháp môn Tịnh Độ tông tu hành tại gia và ông chính là vị giáo chủ của đạo này. Như vậy, Mẫu Liễu hoàn toàn có thể là vị tổ của Đạo Mẫu ở Việt Nam.2 Với các tiêu chí đã đề cập ở trên (về một vị tổ của một tôn giáo) thì Mẫu Liễu đã và đang đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với Đạo Mẫu trong vai trò một vị tổ.
1 Như chúng ta đã biết, Lão Tử được coi là vị tổ của Đạo giáo Trung Hoa, vì vậy, Đạo giáo Trung Hoa cũng được gọi là Lão giáo.
2 Nhưng một vấn đề mới lại cần đặt ra vì Mẫu Liễu không phải là một vị ‘thánh nhân’ cụ thể như Giê-su hay Huỳnh Phú Sổ. Vậy một vị tổ không có thật có được chấp nhận hay không? Câu trả lời là khi không có đủ cơ sở Dữ liệu để chứng minh Thánh Mẫu Liễu Hạnh là có thật thì một vị thánh phi nhân thân (non-iconic) tương tự như thánh Ala của Đạo Hồi là hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, nếu gọi Mẫu Liễu là vị sáng lập Đạo Mẫu (tương tự như Giê-su, Tất Đạt Đa hay Huỳnh Phú Sổ) thì sẽ rất vô lý vì bản thân Thánh Mẫu Liễu Hạnh không phải là người sáng tạo nên các giáo lý của tôn giáo đó như Giê-su với Đạo Thiên Chúa, Tất Đạt Đa với Đạo Phật hay Huỳnh Phú Sổ với Đạo Hòa Hảo... những giáo lý của Đạo Mẫu (nếu có) đều do các trí thức nho học khi xưa và các trí thức thời hiện đại ‘’sáng tạo’’ nên thông qua các đại tự sự về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Dĩ nhiên họ không thể đóng vai trò cùng lúc là các nhà đồng sáng lập của Đạo Mẫu.
Đây chính là một trong các điểm yếu nhất để các tín đồ của Đạo Mẫu có thể thuyết phục các cơ quan chức năng công nhận Đạo Mẫu là một tôn giáo chính thống của người Việt. Để vượt qua được điểm yếu này họ cần phải đề cao tối đa vị trí của Thánh Mẫu Liễu Hạnh (là vị tổ) trong vai trò của một biểu tượng tâm linh. Trên thực tế, cách làm này đã thành công với biểu tượng Hùng Vương và vai trò quốc tổ được tổ chức ‘’quốc giỗ’’ của người Việt mới được công nhận gần đây.
3.2. Mẫu Liễu trong vai trò một biểu tượng ‘’tâm linh’’
Tạm gác sang một bên các truyền thuyết cũng như ba lần giáng sinh huyền thoại của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Dưới góc nhìn khoa học, chúng ta chỉ có thể khẳng định rằng Mẫu Liễu là một biểu tượng tín ngưỡng của người Việt tương tự như Thánh Gióng hay Hùng Vương mà chúng tôi đã đề cập trong các nghiên cứu trước. Trong đó, Thánh Gióng là biểu tượng người anh hùng chống giặc ngoại xâm và Hùng Vương là biểu tượng của vị Quốc tổ của người Việt.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng danh từ biểu tượng Mẫu Liễu là có ý khẳng định tính biểu tượng của ‘’vị thánh Mẫu’’ này cho dù nhân thân của bà có thực hoặc không có thực. Hơn thế, nếu như Thánh Mẫu Liễu Hạnh chỉ là một biểu tượng tâm linh (do các trí thức người Việt xưa và nay sáng tạo nên) mà hoàn toàn không có thật thì Mẫu Liễu trong vai trò một biểu tượng tâm linh cũng chính là kết quả của một quá trình tích hợp sự sáng tạo trong văn hóa của người Việt xưa và nay để hình thành nên một biểu tượng văn hóa tín ngưỡng riêng của người Việt.
Trong vai trò của một biểu tượng tâm linh, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã cố kết cộng đồng người Việt theo tín ngưỡng thờ Mẫu từ khắp nơi, trong cũng như ngoài nước, tập hợp dưới một đức tin về một vị tổ Mẫu người Việt mà quên hẳn đi những di vết của Đạo giáo Trung Hoa.1 Đây là một hiện tượng xã hội quan trọng diễn ra sau giai đoạn ‘’mở cửa và đổi mới’’ của Việt Nam. Nhưng vì sao hiện tượng này lại được coi là quan trọng? Có thể trả lời ngay rằng vì đây là một trong những hiện tượng phản ánh một cách rõ nét nhất đời sống tinh thần của người Việt sau một thời gian dài bị cấm đoán. Bầu không khí của tự do tôn giáo, tín ngưỡng được tạo nên sau giai đoạn ‘’đổi mới’’ đã khiến cho người dân thoải mái thờ cúng và những người có liên quan thì thỏa sức sáng tạo. Trong bối cảnh đó, quá trình biểu tượng hóa Thánh Mẫu Liễu Hạnh diễn ra như một hệ quả tất yếu của xã hội Việt Nam sau giai đoạn ‘’đổi mới.’’
1 Bằng chứng là các vết tích ngôn ngữ học của thuật ngữ đồng- cốt đã không được các từ điển đề cập như nghiên cứu này đã dẫn ra ở phần đầu.
Tương tự như biểu tượng Hùng Vương hay Lạc Long Quân - Âu Cơ, vị tổ Mẫu người Việt có tên gọi Thánh Mẫu Liễu Hạnh này đã xác lập vai trò vị tổ của mình chỉ trong một thời gian rất ngắn. Nếu như các tác phẩm văn học dân gian từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XX như Vân Cát thần nữ, Liễu Hạnh Công Chúa diễn âm, Cát Thiên Tam thế thực lục chỉ là những bản văn ca ngợi công đức của Tiên Chúa, Liễu Hạnh Công Chúa, Tiên Nương,…1 thì chỉ trong gần hai thập niên cuối thế kỷ XX, Liễu Hạnh đã được xác lập được vai trò tối ưu (Thánh Mẫu) và một vị trí tối thượng (tổ Mẫu) trong lòng các tín đồ.2
1 Các tên gọi này chưa xác nhận Mẫu Liễu là một vị thánh hay một vị tổ mà chỉ là ‘công chúa con Ngọc Hoàng’ (vết tích của Đạo Giáo Trung Hoa) hoặc ‘thần nữ’(vết tích của tín ngưỡng dân gian).
2 Nếu so sánh quá trình phát triển của biểu tượng Hùng Vương với biểu tượng Mẫu Liễu, chúng ta sẽ nhìn thấy rõ hơn những tác động của đại tự sự và quá trình sáng tạo truyền thống diễn ra ở Việt Nam trong những thập niên qua, đặc biệt là sau giai đoạn ‘đổi mới.’
Có thể thấy, vai trò vị tổ chính là một biểu tượng có thể tập hợp sức mạnh (vật chất cũng như tinh thần) của số đông. Những biểu tượng như vậy khi được tầng lớp trí thức có địa vị trong xã hội phổ biến, tuyên truyền thông qua uy tín xã hội và uy tín học thuật của họ sẽ trở thành một loại ‘’giáo lý’’ có sức hút mạnh mẽ đối với các tín đồ. Khi niềm tin đã được định hình trong đời sống tinh thần của họ thì các biểu tượng này sẽ mặc nhiên được công nhận như những nhân vật hay ‘’sự thực lịch sử.’’ Dĩ nhiên, để được coi như một nhân vật lịch sử thực thụ thì biểu tượng đó phải nhận được sự chấp nhận của cộng đồng (hay đám đông?), sự thừa nhận của tầng lớp tinh hoa và sự công nhận của một thể chế.
Trên thực tế, sự ra đời và phát triển của biểu tượng tâm linh - Thánh Mẫu Liễu Hạnh - không chỉ mang đến các yếu tố có tác động đến đời sống tinh thần mà còn gắn với các yếu tố vật chất có liên quan đến thị trường tôn giáo. Với nhu cầu ‘‘tâm linh’’ đang tăng cao tới mức không thể cân-đong-đo-đếm, những người hành nghề buôn bán các vật phẩm phục vụ tôn giáo và tín ngưỡng chợt nhận ra một kênh ‘‘lướt sóng’’1 vô cùng có lợi mà ít bị thẩm định hay thu thuế. Trong bối cảnh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng không nằm ngoài cơn sốt của thị trường tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam. Các nghi lễ lên đồng vốn chỉ mang tính biểu tượng khi xưa giờ đây được tổ chức vô cùng hoành tráng, có thể sánh ngang với các nghi lễ cầu siêu tầm quốc gia. Các phủ Mẫu ngày càng được mở rộng để cạnh tranh với những chùa, tháp đang vươn cao bất chấp sự tốn kém khủng khiếp của nó trong một nền kinh tế quanh năm đi ‘’vay ODA’’ như Việt Nam.
1 Thuật ngữ thường dùng để chỉ hành động mua bán trao tay trong kinh doanh bất động sản và chứng khoán.
Bên cạnh các yếu tố vật chất như đã nêu ở trên, cần phải thừa nhận rằng, Thánh Mẫu Liễu Hạnh với vai trò của một biểu tượng tâm linh đã góp phần to lớn trong đời sống tinh thần của người Việt. Không chỉ góp phần giải tỏa những ẩn ức trong đời sống tinh thần của người dân sau một thời gian dài, tín ngưỡng thờ Mẫu và biểu tượng Mẫu Liễu còn giúp cho nhiều tín đồ của nó vượt qua những khó khăn về đời sống và đặc biệt là chữa trị những vấn đề về tâm bệnh (psychosis). Nhiều vấn đề bệnh lý về tâm thần (vốn ít được quan tâm trong các cơ sở y tế ở Việt Nam) được gọi bằng một cái tên Việt (bệnh âm) đã được các ông đồng bà cốt chữa trị và mang lại một số kết quả khả quan dù chưa có công trình nghiên cứu y học nào thẩm định. Tuy nhiên, trong bối cảnh tranh tối tranh sáng của khoa học và tâm linh các hiện tượng văn hóa tín ngưỡng như lên đồng và những nghi lễ biểu tượng của nó rất dễ bị ‘‘biến thái’’ và trục lợi. Chuyên mục dưới đây sẽ đề cập rõ hơn về vấn đề này.
3.3. Từ lên đồng đến những biến tướng về quan niệm linh hồn trong xã hội Việt Nam đương đại
Từ góc nhìn lý thuyết thị trường tôn giáo (vốn bắt nguồn từ một quan điểm duy vật của Marx về vấn đề trao đổi các sản phẩm lao động của con người đặt trong các hệ thống trao đổi), có thể thấy, tôn giáo cũng có thể là nơi con người trao đổi các sản phẩm mang tính hàng hóa có liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng. Tại đây, quy luật cung - cầu được thiết lập và vận hành. Bên cạnh lòng thành/thành tâm như một số nghi lễ tín ngưỡng khác ở Việt Nam, tín ngưỡng lên đồng đòi hỏi tín đồ phải xác nhận sự tham gia của họ thông qua các yếu tố vật chất.1 Chính khoản phí ‘’phi tinh thần’’ này đã được một số ‘’doanh nhân tâm linh’’ sử dụng một cách vô cùng hiệu quả để thu lợi và nhanh chóng trở thành các ‘’đại gia’’ trong ngành kinh doanh đặc biệt này.
1 Cụ thể, một lễ ‘trình đồng’ tiêu tốn hàng chục đến hàng trăm triệu đồng tùy từng đối tượng (kết quả khảo sát của tác giả năm 2015).
Trong xã hội Việt Nam đương đại, với nhu cầu tăng cao đến mức đột biến về tìm hiểu ‘’đời sống con người sau khi chết,’’ các loại hình dịch vụ tâm linh giúp kết nối thế giới người sống với những người đã khuất đột nhiên mọc lên như nấm sau mưa rào. Điều này cũng dễ hiểu vì những bức bối, trầm cảm đã khiến người dân lên cơn sốt tìm hiểu các vấn đề tâm linh. Để giải tỏa cơn khát đó cần có những dịch vụ phù hợp và những người hành nghề phù hợp. Nhiều doanh nhân tâm linh đã nhanh chóng nắm bắt được thị hiếu và nhu cầu của thị trường tiềm năng này. Một cơn sốt gọi hồn, áp vong đã được ‘‘công nghiệp hóa và hiện đại hóa’’ tới mức có thể gọi hồn, áp vong cho nhiều người cùng lúc tại trụ sở của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tiêu biểu nhất trên thị trường đặc biệt này là Liên hiệp Khoa học công nghệ tin học ứng dụng (UIA) có trụ sở tại số 1 Đông Tác, Hà Nội.1 Dịch vụ tâm linh của doanh nghiệp này được hiện thực hóa bằng một hoạt động hết sức đời thực: Ngoại cảm tìm mộ liệt sĩ. Trên thực tế, ‘’liên hiệp’’ này vừa phải tất tả “bán buôn, bán lẻ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học” vừa phải tất bật “gọi hồn, áp vong, tìm mộ liệt sĩ,…” Mặc dù hồ sơ hoạt động của UIA không đăng ký các chức năng ‘’tâm linh’’ này.2
1 Trực thuộc Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam – Tên gọi tắt tiếng Anh là VUSTA
2 Xem bài chi tiết trong: http://www.tienphong.vn/Phap- Luat/chung-chi-ngoai-ngu-tin-hoc-ban-buon-mua-le-kieu-gi- cung-co-532739.tpo. Truy cập: 6/6/2016. Giới Minh (2010), “Nên hay không nên áp vong, gọi hồn?” http://www.phattuvietnam.net/doisong/tamlinh/12319- n%C3%AAn-hay-kh%C3%B4ng-n%C3%AAn-vi%E1%BB%87c-%C3%A1p-vong,-g%E1%BB%8Di-h%E1%BB%93n.html. Truy cập: 6/6/2016.
Với hàng nghìn cuộc áp vong và hàng nghìn bộ xương liệt sĩ được ‘’tìm thấy’’ trong những thập niên qua, UIA đã thu hút được nhiều người có địa vị cao và uy tín lớn tham gia vào hoạt động của mình. Nhưng rồi các cơ quan truyền thông và quản lý cũng đã dần tìm ra được manh mối về những dịch vụ này. Nhiều bộ xương liệt sĩ được phát hiện làm giả bằng xương trâu bò, nhiều nhà ngoại cảm đã bỏ nghề. 1 Lượng khách hàng của UIA đã sụt giảm nhanh chóng trong những năm gần đây khiến cho doanh nghiệp này phải làm thêm các dịch vụ khác như lập đàn tràng cầu siêu, buôn bán đất nền xây lăng mộ.2
1 Xem chi tiết trong: http://news.go.vn/chuyen-dong/tin-1559924/kinh-ngac-vi-tien-si-vu-the-khanh-khong-biet-ngoai- cam-la-gi.htm. Hay: http://thethaovanhoa.vn/xa-hoi/ve-hien- tuong-ngoai-cam-thuc-chat-cua-goi-vong-nguoi-chet-bai-1- n2008071108561488.htm. Truy cập: 6/6/2016. Trào lưu lên đồng, áp vong, tìm mộ liệt sĩ nở rộ trong khoảng hai thập niên qua cho tới gần đây (2015) mới có một số tờ báo bóc trần sự thật và có phần lắng dịu hơn trong sự lấn át của du lịch tâm linh.
2 Xem: http://congviennghiatrang.com/tin-du-an/van-phong-lac-hong-vien-so-1-dong-tac-dong-da-ha-noi.html. Truy cập: 6/6/2016.
Sau UIA, một doanh nhân khác là Nguyễn Thị Điền (sinh năm 1960 ở thôn Bài Lâm Hạ, xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, Hà Nội) tự nhận rằng bà được ‘’hồn Bác Hồ’’ linh ứng để viết ‘’kinh’’ cho một loại Đạo mới mà bà gọi là Ngọc Phật Hồ Chí Minh và đặt tên cho cơ sở thờ tự của mình là Điện Hoàng Thiên Long.
Từ một người nông dân thuộc ‘’diện nghèo’’ quanh năm ‘’chân lấm tay bùn’’ nhưng chỉ sau hơn một thập niên kinh doanh trên thị trường tôn giáo, doanh nhân này đã có trong tay tài sản trị giá nhiều tỷ đồng với các cơ sở thờ tự ở nhiều tỉnh thành có giá trị cao về bất động sản. Dựa vào những ‘’bộ kinh’’ mà bà cho rằng đã được ‘’hồn Bác Hồ’’ trao lại qua các ấn phẩm được in hàng loạt hay những đĩa CD và VCD truyền bá loại đạo mới này.1 Đây là lý do Thành phố Hà Nội ‘’sẽ xem xét truy tố hành vi người lập đạo Hoàng Thiên Long’’ như lời khẳng định của Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung.2
1 Tham khảo trong trang tin chính thức của Đạo Ngọc Phật HCM: http://hoangthienlongtamlinhvanhoaviet.com của bà Nguyễn Thị Điền. Chúng ta có thể thấy rõ ‘’trình độ thơ phú’’ mà ‘‘hồn Bác Hồ’’ không thể là tác giả. Rõ ràng, đây là một điều hết sức phi lý đối với chủ nghĩa duy vật biện chứng và càng phi lý hơn khi gán cho tác giả của những vần thơ đó là người sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, người đã đưa chủ nghĩa duy vật biện chứng vào Việt Nam.
2 Xem bài ‘’Sẽ xem xét truy tố hành vi người lập đạo Hoàng Thiên Long,’’chi tiết: http://vnmedia.vn/dan-sinh/201512/se- xem-xet-truy-to-hanh-vi-nguoi-lap-dao-hoang-thien-long-514039/ Truy cập: 6/11/2018.
Có thể nói, linh hồn hay vong hồn là những yếu tố mà cho đến nay khoa học vẫn chưa thể đưa ra những kết luận khoa học cho sự tồn tại của nó nhưng lại là một loại hàng hóa đặc biệt giúp cho các doanh nhân tâm linh ở Việt Nam trong giai đoạn ‘’công nghiệp hóa, hiện đại hóa’’ trở nên giàu có một cách đột biến. Có lẽ vì vậy mà những tượng đài khổng lồ, những khu du lịch tâm linh nghìn tỷ, những khu chùa lớn nhất Đông Nam Á hay những tòa tháp lớn nhất thế giới đang đua nhau mọc lên ngày càng nhiều hơn và ngày càng to hơn ở Việt Nam. Xuất phát từ nghi thức lên đồng (một nghi lễ biểu tượng trong tín ngưỡng thờ Mẫu) các doanh nhân tâm linh thời hiện đại đã nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu khách hàng và đã sáng tạo ra những sản phẩm ‘‘hàng hóa tâm linh’’ phục vụ cho một thị trường đặc biệt, đó là thị trường tôn giáo.
Vẫn còn vô số câu hỏi cần đặt ra ở đây là: Các doanh nghiệp đang kinh doanh trên thị trường tôn giáo này có cần phải đăng ký ‘’ngành hàng tâm linh’’ với nhà nước hay không? Nghĩa vụ thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức hay thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được tính toán ra sao? Thiệt hại đối với khách hàng (chẳng hạn như chỉ nhận được xương trâu bò thay vì xương người) sẽ được Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (VINASTAS) giải quyết như thế nào? Những ‘’khu du lịch tâm linh’’ là để phục vụ mục đích kinh doanh, du lịch hay phục vụ đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng?... Đây là những câu hỏi còn bỏ ngỏ chờ các cơ quan chức năng giải quyết. Đã đến lúc nhà nước cần có sự can thiệp vào thị trường vô cùng sôi động này dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn mà lý thuyết về thị trường tôn giáo của Marx dưới một góc nhìn mới về sáng tạo truyền thống của Eric Hobsbawm là hướng tiếp cận phù hợp nhất trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
* * *
Trở lại với các vấn đề đã được đặt ra trong nghiên cứu này chúng ta có thể nhận thấy từ đồng cốt đến lên đồng và gọi hồn, áp vong là những hiện tượng tôn giáo và tín ngưỡng đang có sức ảnh hưởng và tầm lan tỏa mạnh mẽ trong xã hội Việt Nam đương đại. Từ góc nhìn ‘’sáng tạo truyền thống’’ của Eric Hobsbawm soi chiếu vào những ‘’đại tự sự’’ về Mẫu Liễu như CXG-PLH đã đề cập, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và phát triển của biểu tượng Mẫu Liễu trong văn hóa Việt Nam. Nổi bật trong đó là vai trò của một số trí thức trong xã hội Việt Nam thời cận hiện đại. Chính tầng lớp này đã tạo dựng, tái tạo hoặc hoàn thiện thêm cho những câu chuyện truyền thuyết về Mẫu Liễu thông qua quá trình lịch sử hóa huyền thoại bằng một thao tác đặc biệt, đó là san định.
Việc san định các câu chuyện truyền kỳ về Mẫu Liễu đã góp phần sáng tạo nên một biểu tượng văn hóa đặc thù của người Việt bằng sự kết hợp một tín ngưỡng bản địa (thờ Mẫu/nữ thần) và một tôn giáo ngoại nhập (Đạo giáo Trung Hoa). Không chỉ tạo dựng nên một biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng có sức lan tỏa mạnh mẽ, quá trình sáng tạo biểu tượng Mẫu Liễu còn góp phần vào việc tôn giáo hóa một tín ngưỡng dân gian hay Việt hóa một tôn giáo ngoại nhập. Nếu như Đạo Mẫu được công nhận là một tôn giáo của người Việt thì vai trò sáng tạo của các trí thức nói trên chính là phần đóng góp quan trọng nhất trong quá trình biểu tượng hóa Mẫu Liễu thành một vị tổ của Đạo Mẫu.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay thì quá trình tự do hóa tôn giáo và tín ngưỡng cùng với sự trở lại và phát triển mạnh mẽ của biểu tượng Mẫu Liễu là minh chứng cho một giai đoạn định hình lại các giá trị văn hóa tinh thần sau một thời gian dài tôn giáo và tín ngưỡng không được coi trọng. Sự định hình lại các giá trị tinh thần (được đặt trên một nền tảng thiếu thốn những tri thức về tôn giáo và tín ngưỡng) đã tạo nên những cơn sốt tìm hiểu tâm linh hay ‘’đời sống sau khi chết.’’ Những truyền thống mới này đã và đang tạo nên nhiều loại hàng hóa mới (theo quan điểm của Marx) đó là các ‘’dịch vụ tâm linh.’’
Để giải mã các ‘’dịch vụ tâm linh’’ này thì lý thuyết về những loại hàng hóa có tính tôn giáo (religious commodification) theo quan điểm duy vật biện chứng của Marx là chưa đủ mà còn cần đến một hệ thống lý thuyết liên ngành thì mới có thể làm rõ những biểu tượng hay những hiện tượng tôn giáo và tín ngưỡng đang diễn ra hết sức sôi động trong xã hội Việt Nam hiện nay./.