1 Xem: Đinh Hồng Hải 2018. “Bà Đanh là ai? Tìm hiểu thần lực nữ tính (shakti) qua biểu tượng Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ và Bà Đanh trong văn hóa Việt Nam,” Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2, 2018.
Trong quá trình giao thoa văn hóa với các nền văn minh lớn bên ngoài như Trung Hoa, Ấn Độ và phương tây, nền người Việt đã tiếp thu nhiều thành tố có giá trị để làm giàu thêm cho văn hóa của mình. Tuy nhiên, cũng có những thành tố văn hóa quan trọng trong các nền văn minh bên ngoài nhưng lại không thể thâm nhập vào Việt Nam. Hoặc nếu tồn tại trong văn hóa Việt Nam thì chúng buộc phải biến đổi để dung hợp với các giá trị bản địa của người Việt. Thậm chí, có những thành tố đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam nhưng rồi lại bị hủy hoại vì những hệ tư tưởng đối nghịch.
Biểu tượng nữ thần Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ và quá trình du nhập và tồn tại trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam là một minh chứng tiêu biểu cho quá trình giao lưu văn hóa nói trên. Nghiên cứu này sẽ đề cập đến một trong những hiện tượng phổ quát tồn tại trong mọi nền văn hóa, đó là vai trò của người phụ nữ trong xã hội và trong tôn giáo qua một nghiên cứu đối sánh giữa biểu tượng Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ và biểu tượng Bà Đanh trong văn hóa Việt Nam.
1. Thần lực nữ tính (shakti) trong văn hóa Ấn Độ
Khi đề cập đến vai trò của người phụ nữ trong các xã hội có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo như Trung Hoa hay Việt Nam, chúng ta thường nghe tới đặc tính công-dung-ngôn-hạnh như một hệ biểu tượng đặc trưng của người phụ nữ truyền thống. Trong xã hội hiện đại (sau giai đoạn phong kiến và trước giai đoạn “đổi mới”- 1986), hệ giá trị này được thay thế bằng cụm từ “giỏi việc nước, đảm việc nhà.” Dễ dàng nhận thấy, ở đây, người phụ nữ được tôn vinh và được đề cao đối với vai trò xã hội, trong khi, vai trò tôn giáo của họ hầu như bị lu mờ trước sự áp đảo của nam giới. Từ sau giai đoạn “mở cửa” đến nay, vai trò của người phụ nữ trong xã hội đã được coi trọng hơn trước sức tác động mạnh mẽ của văn hóa phương tây, đặc biệt là các quan niệm về bình đẳng giới.1 Tuy nhiên, vai trò của phụ nữ trong tôn giáo, cho tới nay, vẫn hầu như không thay đổi.
Đối lập với các xã hội Nho giáo ở Trung Hoa hay Việt Nam, vai trò của người phụ nữ trong Ấn Độ giáo được thể hiện một cách hết sức cụ thể, rõ ràng bằng một dạng quyền năng đã được biểu tượng hóa gọi là thần lực nữ tính (trong ngôn ngữ Hindu gọi là Shakti).2 “Shakti là một khái niệm trong Hindu giáo chỉ năng lượng thiêng liêng của các vị thần, hay là năng lượng căn bản của vũ trụ, được sử dụng để tiêu diệt ma lực và lập lại sức mạnh cân bằng trong vũ trụ. Hầu hết các trường hợp shakti đều được biểu thị thông qua hiện thân của các nữ thần, đại diện cho sức mạnh sáng tạo và phồn thực. Tuy nhiên, mỗi nam thần cần có shakti riêng lệ thuộc vào một nữ thần - vị phối ngẫu. Nếu mất năng lượng shakti, một nam thần coi như mất quyền lực” [Phạm Thị Thủy Chung 2013, tr.58]. Như vậy, có thể coi thần lực nữ tính là một dạng quyền năng siêu nhiên mà tạo hóa đã ban cho thần linh thông qua các nữ thần.3
1 Quyền bình đẳng này còn được đẩy xa tới mức, không chỉ có nam và nữ mà còn có thêm nhiều loại khác là đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (tên viết tắt trong các nghiên cứu quốc tế là LGBT).
2 Trong “Một số nữ thần tiêu biểu trong văn hóa Veda Ấn Độ từ góc nhìn Shakti (quyền lực nữ tính),” Tạp chí Văn hóa học số 1/2013, tác giả Phạm Thị Thủy Chung gọi shakti là quyền lực nữ tính. Chữ quyền lực hay quyền năng ở đây tuy không sai nhưng dễ nhầm lẫn với các loại quyền lực tôn giáo và thế tục khác. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ sử dụng thuật ngữ thần lực nữ tính để định danh loại quyền năng có tính siêu nhiên này trong ngôn ngữ Ấn Độ.
3 Chẳng hạn, theo David Kinsley thì "shakti" của Lord Indra là Sachi (Indrani), có nghĩa là quyền năng. Indrani lại là biểu hiện quyền năng của một nhóm 7-8 vị thần mẫu gọi là Matrikas (bao gồm: Brahmani, Vaishnavi, Maheshvari, Indrani, Kumari, Varahi and Chamunda and/or Narasimhi), những vị được xem như là shakti của các vị thần chủ tể của đạo Hindu (lần lượt là: Brahma, Vishnu, Shiva, Indra, Skanda, Varaha/Yama, Devi và Narasimha).
Trong văn hóa Ấn Độ, thần lực nữ tính tồn tại ở hầu hết các vị thần quan trọng như Lakshmi, Sarawati, Parvati, Durga,… nguồn gốc của thần lực nữ tính bắt nguồn từ thời tiền sử của Ấn Độ. Pho tượng nữ thần sớm nhất được khai quật tại Ấn Độ gần Allahabad theo niên đại các-bon C14 là khoảng 20.000 năm TCN, một trong những di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất trong nền khảo cổ học thế giới giai đoạn Đá mới. Đây cũng là tiền thân của các nền văn minh lớn thuộc Nền văn minh Thung lũng sông Indus (the Indus Valley Civilization), điều đó khẳng định thêm về sự tồn tại lâu đời của tín ngưỡng thờ nữ thần ở Ấn Độ.1
1 Xem thêm: Satguru Sivaya Subramuniyaswami. Merging with Siva: Hinduism's Contemporary Metaphysics. (Honolulu: Himalayan Academy, 1999), 1211.
Trong văn hóa Ấn Độ, các vị nữ thần có thần lực nữ tính được gọi là Amman (có nghĩa là “mẹ”). Qua đó có thể nhận thấy, những gì được thể hiện qua thần lực nữ tính trong văn hóa Ấn Độ có nhiều nét tương đồng với “nguyên lý mẹ - cội nguồn văn hóa Việt Nam” (chữ dùng của Trần Quốc Vượng) trong tín ngưỡng bản địa của người Việt. Đây chính là lý do để các dạng tín ngưỡng thờ nữ thần/mẫu từ Ấn Độ hay Champa có thể dễ dàng du nhập vào văn hóa Việt Nam nhưng lại xung đột dữ dội với hệ tư tưởng Nho giáo mà chúng tôi sẽ đề cập trong các chuyên mục sau.
2. Biểu tượng Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ
Lajja Gauri là một nữ thần gắn liền với sự giàu có và khả năng sinh sản. Tín ngưỡng thờ vị thần này phổ biến khá rộng trong văn hóa dân gian không chỉ ở Ấn Độ mà còn ở nhiều quốc gia Nam Á khác. Mặc dù được phổ biến khá rộng nhưng tín ngưỡng và biểu tượng Lajja Gauri thịnh hành nhất là ở Deccan, vùng trung tâm lòng chảo Nam Ấn. Biểu hiện của khả năng sinh sản ở vị thần này được biểu tượng hóa qua sự phóng đại của bộ phận sinh dục. Với tư thế ngồi xổm (uttanpada), hai chân mở rộng như một người phụ nữ đang trong quá trình sinh nở, biểu hiện này được cho là giúp cây cối phát triển và tạo ra các thế hệ tương lai đông đúc và sung túc. Biểu tượng hoa sen nở thay thế ở vị trí đầu và cổ biểu hiện cho bảy luân xa của con người.
Mặc dù tín ngưỡng và biểu tượng Lajja Gauri phổ biến rộng khắp Ấn Độ và Nam Á nhưng chúng chủ yếu hiện diện ở các thành tố văn hóa dân gian mà hiếm khi hiện diện một cách chính thống trong các đền thờ Hindu. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của tín ngưỡng và biểu tượng Lajja Gauri (thường được đan lồng trong các huyền thoại và biểu tượng của các vị nữ thần khác như Sati, Parvati,…) trên nền tảng của những quan niệm và triết lý về thần lực nữ tính trong văn hóa Ấn Độ.
Bỏ qua những cách lý giải đậm đặc các yếu tố huyền bí qua các bộ sử thi và những câu chuyện kể dân gian, dễ dàng nhận thấy một đặc điểm quan trọng của tín ngưỡng thờ Lajja Gauri chính là sự sinh sản. Vì vậy, các biểu tượng có liên quan đến sinh sản như bộ ngực và âm hộ được đặc tả và phóng đại tới mức điển hình. Biểu hiện này hoàn toàn khác với “triết lý tình dục” được thể hiện trong Karma Sutra hay hệ thống tượng giao phối được đặc tả trên các ngôi đền ở Khajuraho. Điều này càng khác xa với những quan niệm dâm dục và dung tục của Nho giáo ở Trung Quốc hay Việt Nam.
Có lẽ vì vậy mà những dạng tín ngưỡng và biểu tượng như vậy khó có thể tồn tại trong văn hóa Việt Nam. Phải chăng đó chính là lý do để những pho tượng Bà Banh/Bà Đanh từng tồn tại ở những đền thờ của người Chăm trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam bị “đào tận gốc, trốc tận rễ”? Đây cũng là một câu hỏi quan trọng mà nghiên cứu này sẽ trả lời trong chuyên mục dưới đây.
Bên cạnh các biểu tượng Lajja Gauri, trong văn hóa Ấn Độ còn có một biểu tượng phồn thực tương tự, đó là Yakshi. Yakshi là một dạng nữ thần được xem như biểu tượng của khả năng sinh sản trong các tôn giáo như Hindu giáo, Phật giáo, và đạo Jain. Biểu tượng này thường được mô tả bằng một người phụ nữ gợi cảm, có thể giúp cho cây cối đơm hoa kết trái chỉ đơn giản bằng cách chạm vào nó với bàn chân của mình. Biểu tượng này cũng cho thấy các hình trang trí với đồ trang sức với một chiếc váy trong suốt, để lộ một cơ thể phụ nữ tràn đầy sinh lực tượng trưng cho khả năng sinh sản của đất.
Yakshi thường được trang trí ở những motif kiến trúc xây dựng, trên mặt tiền của đền, tháp và cũng được coi như một vị thần Mẫu (Mother goddess) trong văn hóa Ấn Độ từ hơn 5000 năm trước. Tuy nhiên, xét về vị trí, Yakshi có sự hiện diện ở nhiều ngôi đền Hindu giáo nhưng thường là ở những chi tiết phụ (trong khi Lajja Gauri lại là biểu tượng trọng tâm). Về mặt hình thức, những biểu hiện của Yakshi tương đối kín đáo, không đến mức “phô phang” như Lajja Gauri - để đến nỗi bị gọi là Bà Banh hay Bà Đanh (một cách gọi mang hàm ý miệt thị trong tiếng Việt).
3. Biểu tượng Lajja Gauri và sự hình thành Bà Đanh ở Việt Nam
Để trả lời câu hỏi: Bà Đanh là ai? Các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã tìm hiểu trên nhiều địa hạt nghiên cứu, từ lịch sử đến khảo cổ học, từ nghệ thuật học đến ngôn ngữ học,… nhưng dường như nguồn gốc của “bà” cho tới nay vẫn còn gây nhiều tranh luận. Chẳng hạn, trong một chương trình truyền hình khá “ăn khách” gần đây, TS. Nguyễn Mạnh Cường (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho rằng, Bà Đanh bắt nguồn từ hình tượng nữ thần ngồi xổm trong văn hóa Chăm. Cũng trong chương trình này, TS. Nguyễn Thị Chiêm (Đại học Văn hóa Hà Nội) lại cho rằng Bà Đanh có nguồn gốc từ một người phụ nữ có căn tu tên gọi Bà Đanh lập ra (vậy bà là người Việt?). TS. Nguyễn Thị Chiêm cũng đưa ra giả thuyết rằng Bà Đanh có nguồn gốc từ Đạo giáo Trung Hoa và chùa Bà Đanh có thể là một Quán Đạo trong quá khứ (vậy bà là người Hán?).1 Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta cần truy nguyên biểu tượng này từ lịch sử Đại Việt/Việt Nam từ giai đoạn Lý - Trần (giai đoạn hưng thịnh của nghệ thuật với những đóng góp to lớn của người Chăm).
Một yếu tố cần hết sức lưu ý ở đây là: Mặc dù tín ngưỡng phồn thực tồn tại ở rất nhiều nền văn hóa sơ khai (trong đó có Đại Việt/Việt Nam)2 nhưng sự thờ cúng công khai một biểu tượng phồn thực như linga-yoni hay một vị thần cụ thể (có tượng thờ và đền thờ như Pô Yan Dari) dường như chỉ phổ biến trong văn hóa Chăm. 3 Khi những tù binh Chăm đông đảo cùng gia quyến của họ được đưa về định cư ở Đại Việt thì những ảnh hưởng của văn hóa Chăm đã tạc một dấu ấn đậm nét trong văn hóa Đại Việt mà cho đến nay nhiều thành tố văn hóa đó vẫn được coi như những “đỉnh cao nghệ thuật” trong văn hóa Việt Nam. Theo Tạ Chí Đại Trường, “lớp tù binh Chàm xây tháp, dựng đền, làm mưu sĩ, vào hậu cung, phổ biến tiếng nói,… Thiên Y A Na, thần bảo trợ quốc vương Chàm được vua Lý Thánh Tông đưa về làm một vị thần bảo trợ nước Việt. Thần Pô Yan Dari làm Bà Banh hưởng cúng tế đến khoảng một phần tư đầu thế kỷ XIX mới bị nhà Nguyễn đuổi đi” [Tạ Chí Đại Trường 2006, tr.21].
1 Chương trình Bí mật của tạo hóa của VTV3 - Đài truyền hình Việt Nam, phát sóng lúc 23h ngày 22/11/2015.
2 Chẳng hạn biểu tượng dương vật và âm hộ và trò diễn linh tinh tình phộc trong lễ hội Trò Trám, Phú Thọ.
3 Xem thêm: Cabaton, Antoine. (1925). “Chams.” In ERE, Vol. 3, 340-351, p. 342.
Như vậy, biểu tượng thần Pô Yan Dari trong các ngôi đền Chăm đặt trên đất Đại Việt (ĐHH nhấn mạnh) chính là Bà Banh hay Bà Đanh trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam. Đây cũng chính là “hình tượng nữ thần ngồi xổm trong văn hóa Chăm” mà TS. Nguyễn Mạnh Cường đã đề cập ở trên. Vậy thần Pô Yan Dari của người Chăm có phải là thần Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ không? Xem xét dưới góc độ biến âm trong ngôn ngữ học thì Lajja Gauri hoàn toàn có thể biến đổi thành Pô Yan Dari (chữ Chăm thuộc ngữ hệ Pali - một phân nhánh của ngôn ngữ Ấn Độ cổ).
Tuy nhiên, chứng cứ thuyết phục hơn là những biểu hiện của các bức tượng “chạm người đàn bà ngồi khỏa thân đội mặt trời, hai chân hai tay mở sang hai bên lộ rõ ngực, bụng, hạ bộ sung mãn”hay “người đàn bà khỏa thân ngồi xổm, dạng chân hai bên, hai tay đỡ/đội mặt trời, vú và bụng lớn, hạ bộ rõ ràng” mà Tạ Chí Đại Trường đã đề cập1 đủ để chứng minh: Pô Yan Dari có nguyên mẫu là Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ. Điểm khác biệt, có chăng, chỉ là ở hình ảnh đội “mặt trời” mà chúng ta có thể dễ dàng suy đoán là “hoa sen” - phần đầu và cổ trong nguyên mẫu Lajja Gauri.2 Như vậy, thông qua biểu tượng Lajja Gauri và sự liên hệ với Bà Đanh trong văn hóa Việt Nam, tới đây, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng:
1. Bà Đanh là một biểu tượng nữ thần tồn tại trong văn hóa và nghệ thuật (không phải là một nhân vật có thật có tên gọi là Đanh);
2. Nguồn gốc của biểu tượng Bà Đanh đến từ văn hóa Chăm (xa hơn là văn hóa Ấn Độ) mà không phải là biểu tượng được hình thành trong văn hóa Việt hoặc Hán (có chăng chỉ là sự dung nhập của biểu tượng Lajja Gauri với tín ngưỡng phồn thực của văn hóa dân gian người Việt);
3. Sự hình thành biểu tượng Bà Đanh trong văn hóa Việt Nam đến từ những quan niệm về thần lực nữ tính hay nguyên lý mẹ tồn tại trong văn hóa Ấn Độ và Việt Nam gắn với chức năng sinh sản.
1 Tạ Chí Đại Trường (2005), “Triều đình, đất nước Lê-Trịnh ở TK17: Từ Bà Banh đến thần Bạch Mã,” Tạp chí Văn học số 227, tháng 9-10/2005 (tr.25-43) viết: “Trên một tấm bia ở chùa Ông, Hưng Yên chạm người đàn bà ngồi khỏa thân đội mặt trời, hai chân hai tay mở sang hai bên lộ rõ ngực, bụng, hạ bộ sung mãn, tương tự như bia chùa làng Tứ Liên, Hà Nội.” Còn hai tấm bia của chùa Phúc Hải và đình Hải Trung, Nam Định, thuộc nửa đầu thề kỉ XVII cũng có chạm “người đàn bà khỏa thân ngồi xổm, dạng chân hai bên, hai tay đỡ/đội mặt trời, vú và bụng lớn, hạ bộ rõ ràng...”
2 Rất có thể các nhà nho xưa không biết đến Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ và Pô Yan Dari trongvăn hóa Chăm nên đoán rằng đó là hình mặt trời.
Sự tồn tại của tín ngưỡng và biểu tượng nữ thần Lajja Gauri trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam không “suôn sẻ” như các biểu tượng Phật giáo mà thăng trầm theo sự hưng vong của văn hóa Chăm trong lòng Đại Việt. Có thể thấy, sự tiếp nhận của văn hóa Đại Việt đối với Pô Yan Dari thời Lý - Trần tương đối thuận lợi với nhiều cộng đồng Chăm chung sống hòa bình cùng người Việt và nhiều nhóm thiểu số khác. Vì vậy, những nền tảng văn hóa, nghệ thuật và tín ngưỡng của người Chăm đã góp phần làm giàu thêm một nền văn hóa Đại Việt rực rỡ thời Lý - Trần mà không ai có thể phủ nhận. Thậm chí, Trần Nhật Duật, một vị Hoàng thân quốc thích nhà Trần, còn say mê học tiếng Chăm tới mức ông có thể nói chuyện trực tiếp với người Chăm và ủng hộ các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người Chăm ngay tại kinh đô của Đại Việt.
Ở giai đoạn Lý - Trần, trong bối cảnh cộng đồng người Chăm và văn hóa của người Chăm có đóng góp và tác động to lớn đối với văn hóa Đại Việt thì việc các thiết chế văn hóa Chăm định hình và phát triển mạnh mẽ trong lòng văn hóa Đại Việt là điều hiển nhiên. Đó cũng là lý do để nhiều cơ sở thờ tự của người Chăm đã được xây dựng nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cộng đồng này trên đất Đại Việt. Viện Châu Lâm ở Thụy Khuê, Hà Nội thời Lý chính là một trong những thiết chế văn hóa dạng này. Ngay cái tên Châu Lâm dường như cũng cho phép chúng ta liên tưởng đến “châu của người Lâm Ấp” (tương tự như cái tên Minh Hương của người Hoa ở Việt Nam hiện nay).
Bên cạnh Viện Châu Lâm hay chùa Châu Lâm mà sau này gọi là chùa Bà Đanh nằm kế bên kinh thành Thăng Long còn có chùa Bà Đanh ở Kim Bảng, Hà Nam (đã dẫn ở trên), chùa Bà Đanh ở Hưng Nguyên, Nghệ An, chùa Bà Đanh ở Kiến An, Hải Phòng,... điều đó cho thấy sự tồn tại của tín ngưỡng và biểu tượng nữ thần hay Pô Yan Dari trong văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần phổ biến rộng khắp từ bắc đến nam (địa hạt chính của Đại Việt - không kể Champa).
Bước sang giai đoạn trị vì của nhà Lê (1407-1789), một triều đình độc tôn Nho giáo, sự cấm đoán và kỳ thị của triều đình nhà Lê đã khiến cho người Chăm cũng như sự ảnh hưởng văn hóa của họ đối với Đại Việt suy yếu dần. Trong bối cảnh đó, “các thần nữ lẩn tránh hệ thống phụ hệ sẽ chuyển hình chui vào nấp dưới dạng các nữ tướng Hai Bà, công chúa con Hùng Vương theo tập họp Hùng Vương và đình làng được chính thức và thể chế hóa từ cuối thế kỷ XV” [Tạ Chí Đại Trường 2006, tr.38].
Một vị thần nổi tiếng “phô phang” như Pô Yan Dari khó có thể thoát khỏi sự kỳ thị và miệt thị từ các quan lại của một triều đình trọng Nho. Việc phá bỏ các cơ sở thờ tự cũng như các tác phẩm điêu khắc về Pô Yan Dari dường như là một hệ quả tất yếu của tư tưởng Nho gia đậm đặc từ thời Lê (còn kéo dài đến tận thời Nguyễn và dường như chỉ được “nương tay” trong giai đoạn nhà Mạc). Tuy nhiên, Pô Yan Dari hay Bà Đanh vẫn được lưu lại qua thơ văn cũng như những di vết tồn tại trong văn hóa dân gian giúp chúng ta có thể hình dung về một giai đoạn phát triển hưng thịnh của tín ngưỡng và biểu tượng này trong văn hóa Đại Việt.
4. Sự hình thành câu thành ngữ “vắng như chùa Bà Đanh” Hiếm có câu thành ngữ nào được sử dụng rất nhiều nhưng lại có quá ít chứng cứ như câu: “Vắng như chùa Bà Đanh.” Có lẽ vì quá ít chứng cứ nên người đời sau thường giải thích sai. Chẳng hạn, trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nguyễn Lân đã giải thích như sau: “Chùa Bà Đanh ở làng Thụy Khuê, Hà Nội, tức là chùa Phúc Lâm, do một phụ nữ là Bà Đanh xây dựng từ đời Lê, nhưng vì những cuộc biến thiên, số người lễ bái ít đi, nên trở thành vắng vẻ). Nói nơi nào ít người qua lại” [Nguyễn Lân 2008, tr.337].
Dễ dàng nhận thấy, nếu ông chỉ ghi đó là nơi “ít người qua lại” thì hoàn toàn đúng nhưng phần giải thích của ông khiến cho mục từ này trở thành “có vấn đề.” Thứ nhất, Chùa Bà Đanh không chỉ có duy nhất ở một nơi là Thụy Khuê, Hà Nội mà có ở nhiều địa phương khác (như đã dẫn ở trên). Thứ hai, chùa Bà Đanh ở làng Thụy Khuê, Hà Nội có tên chữ là Châu Lâm Tự (không phải là Phúc Lâm). Thứ ba, nói rằng “do một phụ nữ là Bà Đanh xây dựng từ đời Lê” là vô căn cứ, vì loại hình kiến trúc thờ tự của người Chăm này đa số được xây dựng ở giai đoạn Lý - Trần, đến giai đoạn nhà Lê thì đa số bị phá hủy, cao điểm là “lệnh tàn sát năm 1509” [Tạ Chí Đại Trường 2006, tr.172]. Như vậy, chỉ một mục từ trong một cuốn từ điển của một vị giáo sư nổi tiếng mà có tới 03 lỗi sai, điều đó cần được giải thích lại để tránh những sai lầm cho các thế hệ sau.
Theo chúng tôi, câu thành ngữ “vắng như chùa Bà Đanh” có thể được hình thành từ thời Lê vì đây là giai đoạn mà các cơ sở thờ tự nói chung và các đền thờ thần Pô Yan Dari của người Chăm ở Đại Việt bị phá hủy vì không phù hợp với nhãn quan Nho gia. Nếu không bị phá hủy thì các đền thờ này cũng sẽ bị ép buộc chuyển đổi mục đích và đối tượng thờ cúng sang Phật giáo hoặc Đạo giáo. Dĩ nhiên, người Chăm không chấp nhận thờ các vị thần khác không phải của mình nên đền thờ của họ bị bỏ hoang. Nếu người Việt chiếm lấy cơ sở thờ tự này (nhưng không phá hủy mà cũng không Phật giáo hóa hoặc Đạo giáo hóa) thì thần Pô Yan Dari với hình thức của một người phụ nữ cởi truồng (Bà Banh/Bà Đanh) cũng khó có thể trở thành nơi thờ tự của họ (dù họ đã chiếm được). Không chỉ phá hủy các hiện vật (tượng, phù điêu), các nhà Nho mang quan điểm Nho giáo còn tìm cách giải thiêng vị nữ thần của người Chăm như câu chuyện Trạng Quỳnh đề thơ trên tượng Bà Banh.1
1 Hồi ấy, gần xứ Quỳnh ở, có một pho tượng đá rất kỳ lạ, trần truồng đứng giữa đồng, miệng tủm tỉm cười, tay trỏ xuống chỗ kín, gọi là tượng bà Banh. Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì không xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh không cười không nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ Nôm rằng: Khen ai đẽo đá tạc nên thầy! Khéo đứng ru mà đứng mãi đây? Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt. Dưới chân đứng chéo một đôi giày. Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu. Hay là bốc gạo thử thanh thầy? Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa. Phô phang chi ở đám quân này. Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng (khuyết danh).
Tất cả những lý giải nêu trên cho thấy rằng, sự vắng vẻ của “chùa Bà Đanh” là do những khác biệt quá lớn về tôn giáo và tín ngưỡng giai đoạn nhà Lê diễn ra tại đền thờ Pô Yan Dari của người Chăm. Ở giai đoạn này, các loại hình tín ngưỡng mang tính dâm tục, phồn thực đều bị kỳ thị, miệt thị hoặc tráo đổi cho dù chúng có nguồn gốc của người Việt hay được du nhập từ bên ngoài.
Một trong những cuộc “đánh tráo lý lịch” mang tầm vóc lịch sử là quá trình “bịa lý lịch” cho hàng ngàn vị thần dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ bằng các vị thần vua ban. Triều đình Nho giáo nhà Lê không chấp nhận các loại thần linh dân gian (như thần cây, thần đá, thần ăn mày, thần ăn cắp, thần ăn cướp, thần gắp phân,…) và “khi chính quyền phong kiến muốn thâu tóm thần quyền về tay mình, họ đã loại dần các vị Thần làng nói trên và thay vào đó các vị Thiên thần và Nhân thần (có tính “cung đình” hơn các vị Thần làng dân gian). Các vị này sau đó đều được gọi là Thành Hoàng của làng mà không gọi là Thần làng” [Đinh Hồng Hải 2015, tr.44].
Đền thờ và thần Pô Yan Dari của người Chăm (hay chùa Bà Đanh theo cách gọi của người Việt) cũng nằm chung số phận với các vị thần làng khác của người Việt ở giai đoạn này và chùa Bà Đanh trở nên hoang vắng cũng là điều dễ hiểu.
* * *
Có thể nói, thần lực nữ tính trong văn hóa Ấn Độ cũng như nguyên lý mẹ trong văn hóa Đại Việt/Việt Nam chính là những nền tảng để các loại hình tín ngưỡng phồn thực trong dân gian tồn tại và phát triển. Sự tiếp nhận biểu tượng Pô Yan Dari trong nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần cho thấy một cái nhìn bao dung của các vị vua Đại Việt ở giai đoạn này. Sự tồn tại của tín ngưỡng và biểu tượng Pô Yan Dari trong văn hóa Đại Việt cũng phù hợp với tín ngưỡng của người Việt “phi Nho” (biểu tượng Mẹ được tôn vinh, tín ngưỡng phồn thực phát triển,…). Đáng tiếc là trong giai đoạn phát triển cực thịnh của Nho giáo ở Đại Việt/Việt Nam dưới thời Lê, triều đình độc tôn Nho giáo đã hủy hoại nhiều thành tố văn hóa có giá trị của người Việt cũng như của người Chăm trên đất Đại Việt mà các đền thờ thần Pô Yan Dari là một trong những ví dụ tiêu biểu.
Sự hủy diệt hoặc tráo đổi các yếu tố phi Nho hay phi cung đình của nhà Lê đã dẫn đến một hệ lụy là sự coi thường các thành tố văn hóa dân gian - vốn là nền tảng phát triển của văn hóa Việt. Cùng với đó, sự kỳ thị các thành tố văn hóa “phi Nho” đã khiến cho triều đình này suy yếu dẫn đến các cuộc nội chiến tương tàn với nhà Mạc và sau này là các chúa Nguyễn. Xa hơn, sự miệt thị của tư tưởng Nho gia đối với các loại hình tín ngưỡng dân gian đã khiến cho một hệ thống thần linh (vốn là nền tảng đời sống tinh thần của người Việt, người Chăm cũng như nhiều tộc người thiểu số khác) bị suy yếu. Khi nền tảng tinh thần bị khủng hoảng, sức sáng tạo của những người nghệ sĩ cũng khó có thể thăng hoa. Đó là lý do tại sao nền nghệ thuật giai đoạn từ Lê đến Nguyễn khó có thể sánh được với nền nghệ thuật của giai đoạn Lý - Trần.
Để có thể bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa quý báu của dân tộc thì một tinh thần bao dung và một đời sống văn hóa lành mạnh là vô cùng cần thiết đối với mọi người trong chúng ta. Đây chính là cách mà các vị vua ở giai đoạn Lý - Trần đã thực hiện được. Sự kỳ thị tôn giáo cũng như sự miệt thị chủng tộc (hay văn hóa) dù ở bất kỳ thời đại nào cũng đều dẫn đến những hệ lụy xấu. Sự tồn tại và phát triển của biểu tượng nữ thần Lajja Gauri trong văn hóa Ấn Độ và Pô Yan Dari trong văn hóa Đại Việt giai đoạn Lý - Trần đã cho thấy sức sống mạnh mẽ của tín ngưỡng và nghệ thuật dân gian của các tộc người ở Việt Nam. Cho dù các hiện vật có bị phá hủy nhưng sự tồn tại của các yếu tố văn hóa phi vật thể như câu thành ngữ có liên quan đến Bà Đanh trong văn hóa Việt Nam hiện nay là một minh chứng rõ nét nhất cho thấy sức sống của văn hóa dân gian qua một biểu tượng tồn tại trong văn hóa Ấn Độ từ hàng vạn năm trước. Điều này cũng khẳng định vai trò của người mẹ/người phụ nữ (trong xã hội và trong tôn giáo vốn trường tồn qua lịch sử và trong mọi nền văn hóa) qua thần lực nữ tính mà biểu hiện của Lajja Gauri, Pô Yan Dari hay Bà Đanh là một minh chứng tiêu biểu.