1. Luận bàn về đạo lí người niệm Phật được vãng sinh và không được vãng sinh lúc lâm chung
Khi ở vườn Cấp Cô Độc rừng cây Kì Đà tại nước Xá Vệ (Śrāvastī), Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thuyết giảng Kinh A Di Đà với nội dung ca ngợi y báo chính báo trang nghiêm ở thế giới Tây phương Cực lạc, nhằm khuyến hóa chúng sinh phát nguyện cầu vãng sinh về đó. Kinh nói rằng: Cũng giống Như Lai bây giờ đang ca ngợi công đức bất khả tư nghì của Phật A Di Đà thì tại phương Đông cũng có Phật A Súc Bệ, thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Đăng, thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, thế giới phương Dưới có Phật Sư Tử, thế giới phương Trên có Phật Phạm Âm, cũng đều đang hiện tướng lưỡi rộng dài nói những lời thành thật để chúng sinh phàm phu kiên định tin theo mà ca ngợi bản kinh công đức bất khả tư nghì mà tất cả chư Phật đều hộ niệm này.
Vãng sinh thế giới Tây phương Cực lạc là một đại sự nhân duyên mà chư Phật ở sáu phương đều đồng thanh khen ngợi. Phàm phu nếu có ai sinh khởi lòng tin, phát nguyện chí thành, niệm Phật cầu sinh về thế giới Cực lạc thì nhất định người ấy sẽ được vãng sinh, đây là lí thật sự thật mà tất cả phàm phu đều nên kiên định tin tưởng!
***
Hỏi: Đã nói rằng tất cả người niệm Phật đều có thể vãng sinh Tây phương nhưng vì sao tôi thấy không ít những vị xuất gia và tại gia, lúc thường ngày chuyên cần niệm Phật, thời thời khắc khắc đều cầu được vãng sinh Tây phương, cuối cùng đến lúc lâm chung lại qua đời một cách mơ mơ hồ hồ, chẳng được mấy ai thật có thể vãng sinh Tây phương, đây là đạo lí gì?
Đáp: Đây là bởi lúc lâm chung, nhân duyên của hành giả không đủ đầy. Lúc sắp ra đi, nếu nhân duyên đầy đủ thì mười người sẽ được vãng sinh hết mười người, trăm người sẽ có trăm người vãng sinh, nghìn người vạn người sẽ có nghìn người vạn người vãng sinh.
***
Hỏi: Nhân duyên ấy là những gì?
Đáp: Hành giả lúc thường ngày tin chân thành, nguyện tha thiết, luôn niệm Phật chuyên cần để cầu sinh Tây phương thì khi đến lúc sắp qua đời cũng nên tin chân thành, nguyện tha thiết và nhất tâm niệm Phật giống như vậy. Tâm niệm này chính là nhân tự lực.
Hoặc nếu ngày thường chưa biết gì về tín nguyện, niệm Phật, cầu sinh Tây phương nhưng đến lúc lâm chung, gặp bậc thiện tri thức dẫn dắt khiến bản thân sinh lòng tin, phát nguyện và cầu vãng sinh. Tâm tín, nguyện, cầu sinh này cũng là nhân tự lực. Giáo chủ của thế giới Tây phương Cực lạc là Phật A Di Đà và vạn đức hồng danh của Ngài có thể giúp cho chúng sinh vãng sinh về Cực lạc, đây là duyên tha lực. Lúc lâm chung gặp được thiện tri thức trợ niệm, đây cũng là duyên tha lực.
***
Hỏi: Lúc lâm chung, nếu nhân duyên đầy đủ thì hành giả có thể vãng sinh Tây phương, đây là đạo lí gì?
Đáp: Lúc mạng sống sắp chấm dứt, hành giả cần tin chân thành, nguyện tha thiết và nhất tâm niệm Phật. Phật sở niệm là duyên tha lực, tâm năng niệm là nhân tự lực. Chính ngay lúc tin chân thành, nguyện tha thiết và nhất tâm niệm Phật này là lúc dùng tâm năng niệm để niệm Phật sở niệm. Phật sở niệm nhờ tâm năng niệm mà hiển lộ, tâm năng niệm lại nhờ Phật sở niệm nên được thanh tịnh. Chính ngay lúc này, tự lực cảm ứng đạo giao với tha lực, nhân duyên hòa hợp với nhau, nên mới được vãng sinh Tây phương, đây là điều chắc chắn.
***
Hỏi: Hành giả lúc lâm chung, nếu nhân duyên không đầy đủ thì không thể vãng sinh Tây phương, thế nghĩa là như thế nào?
Đáp: Hành giả ấy lúc ngày thường, công phu tín nguyện niệm Phật chưa được thuần thục. Đến lúc lâm chung, tuy vẫn có tâm tín nguyện cầu sinh Tây phương (có nhân) nhưng bởi vì bệnh khổ giày vò, khó chịu khổ sở đau đớn do đủ loại phiền não quấy nhiễu nên tâm niệm Phật không cách nào khơi dậy được, lại chẳng được thiện tri thức nào đến hướng dẫn khuyên nhủ và giúp đỡ họ niệm Phật (không có duyên). Lại gặp phải thân quyến không biết Phật không hiểu pháp, còn thêm khóc thương thảm thiết gây đủ thứ chướng ngại ngăn trở. Trong tâm người bệnh ấy, chỉ toàn khơi dậy cơn đau bệnh tật và các loại giày vò phiền não. Lúc này họ chỉ muốn cố gắng hết sức để mong người nhà đừng than khóc cản trở nữa, mà thay vào đó hãy trợ giúp họ niệm Phật tiễn họ về Tây phương, nhưng tiếc là đành chấp nhận vì lực bất tòng tâm, chẳng còn mở lời nói năng gì được nữa. Tâm của người bệnh vì vậy mà đau khổ lại càng đau khổ hơn.
Đến thời khắc thần thức rời khỏi thân xác phàm, vốn thần thức ấy có thể vãng sinh về Phật quốc Tây phương trang nghiêm thanh tịnh của Phật A Di Đà, hưởng niềm an lạc thường hằng, viên thành quả Phật, phổ độ quần sinh. Nhưng cuối cùng nó lại bị chính sự đau thương khóc lóc và trở ngại của người thân quyến thuộc của mình, khiến một niệm cuối cùng bị phiền não dẫn dắt, không biết rơi rớt ở đường nào. Đây chính là mối liên hệ có nhân mà không đủ duyên nên chẳng thể vãng sinh Tây phương.
Hoặc có một kiểu hành giả khác, tuy lòng tín nguyện niệm Phật lúc thường ngày chưa được chuyên nhất thành thục, nhưng đến lúc mệnh chung, trợ duyên rất tốt, cũng được thiện tri thức hỗ trợ niệm Phật (có duyên), v.v. lại nhờ người thân quyến thuộc không ai than van khóc lóc trở ngại, song chính vì tâm của vị hành giả ấy sinh ra điên đảo, lưu luyến tham tiếc tình cảm thế gian, không nỡ buông bỏ con cháu, tiền tài của cải mà mình yêu quý, không muốn phát tâm nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương nữa (không có nhân). Đến một niệm tâm cuối cùng lúc thần thức sắp rời thân xác, vị ấy lại mang theo tình cảm luyến ái và dục niệm trong lòng, đầu thai vào các cõi thiện ác. Đây chính là mối liên quan của có duyên mà không đủ nhân nên chẳng thể vãng sinh Tây phương.
Cũng có một kiểu hành giả khác, thường ngày niệm Phật cũng chỉ để cầu nguyện cho gia đình bình an, tiêu tai, thọ mệnh lâu dài, v.v. đến lúc sắp tắt thở thì sợ chết vô cùng. Như lúc bệnh chưa đến mức nghiêm trọng cũng có niệm Phật nhưng cũng chỉ vì để cầu cho bệnh tình mau thuyên giảm, chứ không phát tâm nguyện cầu sinh về Tây phương (không có nhân), đến khi bệnh tình trầm trọng, bệnh khổ giày vò bức bách thì càng không có tâm trí để nhớ đến Phật, chỉ có thể than trời trách đất, gọi cha gọi mẹ trong cơn đau đớn không ngừng. Lại gặp phải người nhà không tin Phật pháp hoặc dẫu có tin Phật pháp nhưng chưa hiểu rõ về nghĩa lí trong kinh Phật, không những không biết cách hướng dẫn và trợ niệm cho họ (không có duyên), còn thêm khóc la om sòm gây đủ thứ cản trở. Thì người bệnh kia vừa phải chịu khổ sở bởi bệnh tật giày vò mà tâm trí còn phiền não không thể nói hết. Người này còn đau khổ bất lực hơn gấp nhiều lần so với người rơi xuống giếng sâu bị người khác ở trên ném đá xuống. Đối với những người này, một niệm cuối cùng lúc mệnh chung, chắc chắn sẽ đi theo sự sai khiến của ý niệm phiền não xấu ác kia mà rơi rớt trong ba đường ác. Đây là mối liên hệ không nhân mà cũng chẳng có duyên, chẳng cách nào vãng sinh Tây phương được.
Trên đây lược nói sơ về ba hạng người khác nhau, lúc sắp mệnh chung có nhân tự lực nhưng không có duyên tha lực, có duyên tha lực mà không có nhân tự lực, và thiếu cả tự lực lẫn tha lực, không sinh ra cảm ứng đạo giao và nhân duyên hòa hợp, nên mới không được vãng sinh Tây phương.
***
Hỏi: Lúc sắp mệnh chung, hành giả phải làm gì mới có thể giúp cho nhân và duyên đầy đủ để được vãng sinh về Tây phương?
Đáp: Như hạng người có căn cơ bậc thượng, thường ngày luôn tin chân thành, nguyện tha thiết và nhất tâm niệm Phật. Tín nguyện đã chân thành tha thiết mà công phu niệm Phật cũng cực kì thuần thục. Đến lúc sắp mệnh chung, không cần người xung quanh trợ niệm, họ cũng có thể tự mình tín nguyện niệm Phật như thuở bình sinh, không hề khởi một chút tướng động tướng tĩnh, tướng khởi tướng dừng, tướng khổ tướng vui, tướng thuận tướng nghịch nào. Từng niệm cứ liên tục an trụ vào hồng danh của Phật A Di Đà (Như Lai quả hải thật tướng chính định). Kinh A Di Đà nói rằng: “Nhất tâm không loạn, ắt được vãng sinh”, cũng như thế (niệm tâm là nhân tự lực của năng cảm, cảnh Phật là duyên tha lực sở cảm). Đây chính là mối liên hệ nhân đầy duyên đủ.
Hoặc cũng có một hạng người bình thường, hằng ngày lòng tin chưa hẳn chân thành, nguyện cũng chưa thực sự tha thiết và công phu niệm Phật chưa được thuần thục, nhưng đến lúc sắp mệnh chung, tâm tín nguyện cầu sinh Tây phương mãnh liệt hơn thường ngày rất nhiều. Dù bệnh khổ giày vò ra sao, hay gặp đủ thứ chướng ngại ngăn trở thế nào, thì tâm cầu nguyện vãng sinh Tây phương của họ cũng vẫn không lung lay đổi dời. Chỉ là lúc này họ niệm Phật một cách khó khăn, nhưng nhờ có người thân quyến biết Phật hiểu pháp, am tường sự tốt xấu lúc sắp mệnh chung ra sao, nên không có ai cản trở hay khóc lóc than van, lại được thiện tri thức hướng dẫn khuyên nhủ niệm Phật. Tâm người bệnh ấy, mỗi niệm đều nương theo hồng danh của Phật A Di Đà. Đến lúc thần thức sắp rời thân xác, một niệm cuối cùng kia cũng còn đang nhớ nghĩ đến Phật (nhân tự lực năng cảm), duyên theo Phật sở niệm (duyên tha lực sở cảm) mà thuận lợi vãng sinh Tây phương. Đây chính là mối liên hệ nhân đầy duyên đủ.
Hoặc cũng có một hạng người, lúc thường ngày hoàn toàn không biết gì về tín nguyện niệm Phật, cầu sinh Tây phương, nhưng đến lúc lâm chung, họ được thiện tri thức dẫn dắt, nói cho nghe những điều an lạc vi diệu trang nghiêm thanh tịnh ở thế giới Tây phương Cực lạc, nghe xong sinh lòng hoan hỉ ưa thích được sinh về nơi đó; lại được nói thêm về công đức bản nguyện tiếp dẫn chúng sinh từ 48 đại nguyện của Phật A Di Đà, giúp bản thân tăng thêm lòng tin chân chính về việc niệm Phật cầu sinh Tây phương. Người bệnh ấy sau khi nghe xong, tâm sinh vui mừng, tin tưởng và chuyên tâm niệm Phật, quyết định cầu nguyện vãng sinh về Tây phương. Những người quyến thuộc thân thích, bạn bè đều nghe theo lời khuyên của vị thiện tri thức, không ai khóc lóc than van hay gây điều gì trở ngại. Người kia lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, mỗi niệm mỗi niệm đều niệm (nhân tự lực năng cảm) Phật (duyên tha lực sở cảm), còn thành khẩn tha thiết hơn đứa con nhớ nghĩ đến mẹ hiền. Lúc thần thức rời khỏi thân xác phàm ấy sẽ được từ lực của Phật tiếp dẫn vãng sinh về Tây phương. Đây chính là mối liên hệ nhân đầy duyên đủ.
Trên đây cũng vừa nói sơ lược về ba hạng người lúc sắp mệnh chung, tự lực và tha lực đều đầy đủ, tự nhiên sinh ra cảm ứng đạo giao, nhân duyên hòa hợp mà thuận lợi vãng sinh Tây phương.
***
Hỏi: Ngày thường hoàn toàn chưa biết gì về tín nguyện niệm Phật, đến lúc lâm chung gặp được bậc thiện tri thức hướng dẫn, người này nghe xong tâm sinh hoan hỉ, tin tưởng, phát nguyện, niệm Phật và cầu sinh Tây phương. Quyến thuộc bạn bè đều không đau thương khóc lóc hay gây các trở ngại, còn giúp đỡ trợ niệm thêm, người kia lúc trút hơi thở cuối cùng sẽ được vãng sinh về Tây phương. Làm sao có thể có chuyện dễ dàng như vậy được?
Đáp: Những đoạn trên trình bày về việc hành giả lúc lâm chung được vãng sinh Tây phương. Có dễ dàng hay không cũng đều giải thích rõ ràng hết cả rồi, sao quý vị vẫn còn hoài nghi như vậy? Cần hiểu rằng, hạng người ngày thường chưa từng tín nguyện niệm Phật và cầu sinh Tây phương là bởi vì họ không biết. Nhưng đến lúc sắp mệnh chung nhờ có thiện tri thức hướng dẫn, họ nghe xong thì sinh tâm hoan hỉ. Điều này chứng tỏ họ có thiện căn đời trước sẵn rồi, hoàn toàn khác xa với những người bình thường. Lại nhờ có tin tưởng, thụ trì, chuyên niệm danh hiệu Phật, phát tâm nguyện cầu sinh về Tây phương, đây là nhân thù thắng; được thiện tri thức hướng dẫn và người thân thích hỗ trợ niệm Phật, đây là duyên mạnh mẽ; thêm nguyện lực từ bi của Phật A Di Đà tiếp dẫn, đây là nhân duyên hòa hợp với nhau. Người ấy lúc mệnh chung chắc chắn được vãng sinh về Tây phương. Chẳng có điều gì đáng để nghi ngờ cả!
***
Hỏi: Mỗi người cần phải hỗ trợ niệm Phật cho cha mẹ và những người thân thích lúc họ lâm chung, để tiễn họ vãng sinh về Tây phương. Nhưng giả sử thiện tri thức không đến, những người tại gia như chúng con chưa hiểu nhiều về đạo lí Phật pháp, cũng không biết cách hướng dẫn và những điều cần hướng dẫn cho người sắp mất, phương pháp trợ niệm càng không nắm rõ. Cho con hỏi có kinh sách nào giảng giải phương pháp trợ niệm mà văn từ dễ hiểu, giúp độc giả dễ nắm bắt và dễ học tập, cho chúng con thỉnh về đọc và làm theo, chẳng phải sẽ tốt hơn rất nhiều sao?
Đáp: Nếu các vị thật sự có lòng muốn đi trên con đường từ bi, hiếu thuận và vị tha, mong giúp cho cha mẹ và những người thân yêu được thoát biển khổ sinh tử vĩnh viễn mà vãng sinh về cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của Phật, thường hưởng an lạc, cho đến một ngày nào đó viên thành Phật đạo, trở lại phổ độ chúng sinh thì chỉ cần dựa theo nội dung ý nghĩa trong sách này mà thực hành vào đời sống thiết thực. Người sắp qua đời ấy nhất định sẽ được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc.
2. Những điều mà thân quyến cần lưu ý
1) Cha mẹ là đấng sinh thành dưỡng dục có ơn lớn nhất đối với mỗi chúng ta, nên mỗi người đều phải hiếu thuận với họ. Anh chị em và vợ chồng với nhau cần phải yêu thương và thật lòng đối đãi. Con cháu dâu rể cũng cần chân thành và giúp đỡ bảo ban lẫn nhau. Vậy thì như thế nào là hiếu thuận, yêu thương và chăm sóc? Như thế nào là không hiếu thuận, không yêu thương và không chăm sóc? Cần phải nắm rõ và am hiểu tường tận về những điều cơ bản này. Nếu hiểu mơ hồ và qua loa, việc đó sẽ khiến cho tâm hiếu thuận, yêu thương và chăm sóc này trở thành sự ngỗ ngược bất hiếu và nhẫn tâm, gây ra đau thương cho nhau. Để tránh những điều đáng buồn ấy xảy ra, mọi người cần phải xem xét cho kĩ càng và học hỏi thận trọng những điều được trình bày ở sau.
2) Thời điểm lâm chung chính là thời khắc cuối cùng của một đời người. Những người làm thân bằng quyến thuộc như chúng ta, cần tận dụng khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng quan trọng này, để dốc lòng báo hiếu, yêu thương và chăm sóc cho người sắp mất ấy. Mỗi phút mỗi giây đều phải trông nom gần gũi họ. Bất luận là chuyện gì chúng ta cũng nên thuận theo ý muốn của họ, đừng để họ nảy sinh chút mảy may phiền não nào.
3) Lúc có người lâm chung, nhất định phải tìm đến các ban trợ niệm, thỉnh một vài người trong nhóm ấy đến trợ giúp niệm Phật. Khi các vị ấy đến nhà rồi, tất cả thành viên trong gia đình cần phải nghe theo lời khuyên và hướng dẫn của họ, đừng để xảy ra dù là chút trái ý nghịch lòng nào. Nên hiểu rằng những người trợ niệm ấy chính là người đến cứu giúp cho thần thức của chính người thân của chúng ta, giúp người thân của chúng ta được vãng sinh Tây phương. Vì thế toàn bộ người thân trong nhà phải sinh lòng cảm ơn, tận tâm hỗ trợ và đối đãi với họ. Hoặc nếu không mời được vị nào trợ niệm hay do các vị ấy không đến giúp được, vậy thì những người thân trong gia đình phải trợ niệm đúng như pháp, như thế cũng sẽ có lợi ích tương tự.
Tuy nhiên, mọi người cần phải làm đúng theo phương pháp trợ niệm này, không nên tùy tiện thay đổi bất cứ điều gì, thì chắc chắn người mất sẽ được vãng sinh Tây phương. Thêm nữa, cả nhà cần ăn chay, tuyệt đối ngăn cấm sát sinh hại mạng, để cầu phúc đức cho người sắp mất. Đến lúc cần người trợ niệm thì bệnh tình của người kia chắc chắn là đã trở nên trầm trọng rồi. Vào lúc này, thân quyến cần nhất tâm niệm Phật cho họ, hỗ trợ họ vãng sinh Tây phương, nhất định không được vừa trợ niệm lại vừa tiêm thuốc trợ tim hay cho họ uống thuốc bổ, thuốc an thần, v.v. Làm như vậy sẽ càng làm tăng thêm sự đau khổ cho người bệnh, còn cản trở sự vãng sinh của họ, điều này không gì đáng buồn hơn. Hi vọng thân quyến hiểu rõ điểm này, đừng vô tình làm hại đến người thân của mình.
4) Lúc lâm chung chính là thời khắc cực kì quan trọng để phân định người mất sẽ tới đường Thánh Tây phương; đường vui cõi trời, người, A tu la; hay đường khổ địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Nếu thân quyến biết cách niệm Phật giúp cho người bệnh, cũng chính là tiễn thần thức họ đi về đường Thánh Tây phương hưởng niềm vui vi diệu vô lượng. Còn nếu trông nom họ nhưng khóc lóc, kêu than, gào la thảm thiết cũng đồng nghĩa với việc đẩy thần thức của họ rơi vào một trong ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, chịu sự thống khổ suốt trăm nghìn năm. Ngay lúc này, thân quyến phải phân biệt rõ ràng, việc gì là hiếu thuận và bất hiếu, việc gì là yêu thương và làm hại, việc gì là giúp đỡ và liên lụy đến người sắp mất.
5) Nên tin tưởng những điều được ghi chép trong kinh Phật. Vì nếu bất cẩn rơi vào một trong ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh thì những nỗi thống khổ mà chúng ta phải chịu đựng thật không thể nào tưởng tượng nổi. Mà thời gian phải chịu sự khổ sở đau đớn ấy lâu dài vô cùng tận. Địa ngục là cõi khổ sở nhất, bởi trong khoảng một ngày một đêm, chúng sinh ở nơi đây phải chịu đau đớn đến chết đi sống lại 10.000 lần. Nỗi khổ trong đường ngạ quỷ thì lâu xa đến trăm nghìn vạn kiếp, đến “nước uống” cũng không được nghe đến, nói gì đến việc được ăn? Súc sinh cũng khổ sở đủ đường, ruột gan máu thịt đều phải cung cấp miếng ăn cho loài người. Nếu như có ai đọa lạc vào ba đường ác này, ít nhất cũng phải ở đó chịu khổ đến 5.000 đại kiếp. Mỗi một đại kiếp thì dài đến 1.343.840.000 năm. Phải đợi chịu khổ suốt 5.000 đại kiếp như thế mới có thể thoát ra ngoài thì không biết còn dài lâu đến chừng nào nữa. Chi bằng sớm sinh về Tây phương, mỗi ngày đều được nghe Phật A Di Đà giảng kinh thuyết pháp, làm bạn hữu với Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí. Những điều được nhìn thấy đều là cảnh sắc vi diệu trang nghiêm. Những điều được nghe qua đều là âm thanh hòa nhã nhiệm mầu. Những điều an lạc được tận hưởng ấy thù thắng chẳng thể diễn tả hết được bằng lời. Lại được đầy đủ đạo lực thần thông, tùy ý cứu giúp người thân quyến thuộc của mình. Tự tại đến và tự tại đi, tất cả đều tự do như ý muốn, còn có thể thành Phật trong một đời. Cho nên tất cả chúng ta nên ngẫm nghĩ kĩ càng hơn, Tây phương có niềm vui vô cùng vô tận như thế, phận làm con nào lại không muốn giúp cho cha mẹ mình niệm Phật để sinh về thế giới Tây phương? Ai lại nỡ lòng dùng tâm độc ác tàn nhẫn để làm hại đến cha mẹ mình, mà thương khóc kêu la thảm thiết để đẩy họ rơi vào cảnh thống khổ đau đớn vô lượng vô biên ở các đường địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh như thế? Chúng ta cần hiểu rõ rằng, lúc người kia lâm chung hoặc sinh Tây phương hoặc đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đều có một phần trách nhiệm lớn lao từ thân quyến trong chính gia đình đó.
6) Những người lúc thường ngày đã có sẵn tâm nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương thì đó là điều tuyệt vời nhất. Nếu người bệnh sắp mất chưa có tín tâm hoặc chưa hiểu gì về niệm Phật cầu sinh Tây phương, thì những người thân quyến thuộc như chúng ta nên giảng giải và khuyên nhủ cho người ấy rõ rằng: “Làm người sẽ không được dài lâu vĩnh cửu, luôn phải xoay vần trong sáu đường sống chết luân hồi. Ba đường ác như địa ngục khổ sở vô cùng tận, cũng dễ dàng bị rơi rớt. Thế giới Tây phương là nơi an lạc nhất. Trong thế giới Tây phương Cực lạc không có ba đường ác như địa ngục, càng không có sáu đường sinh tử luân hồi. Dân chúng ở Tây phương đều được hóa sinh từ hoa sen. Tòa hoa sen ấy mềm mại, thanh khiết, thơm ngát, xinh đẹp và sáng chói. Nơi mà chúng sinh ở Tây phương sống đều là lầu các châu báu trân bảo, vừa trang nghiêm vừa lộng lẫy huy hoàng. Tất cả những món ngon mĩ vị ở đó, ai muốn ăn gì đều được như ý muốn. Tất cả những xiêm y lung linh xinh đẹp thượng hạng, ai muốn mặc gì đều được toại nguyện. Những niềm vui vi diệu mà chúng sinh ở đó thụ hưởng quả thật chẳng thể nói hết bằng lời. Nếu cha (mẹ, v.v.) phát tâm niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, nguyện cầu tha thiết được sinh về Tây phương, vậy thì đến lúc mệnh chung, Phật A Di Đà sẽ cầm đóa hoa sen lớn đến trước mặt cha (mẹ, v.v.) nghênh đón cha (mẹ, v.v.) vãng sinh về đó. Sau khi đã sinh về đó rồi, cha (mẹ, v.v.) sẽ hưởng vô lượng những niềm an lạc và mãn nguyện. Nếu cha (mẹ, v.v.) chịu phát tâm niệm Phật, thì nhất định sẽ được vãng sinh về Tây phương”.
Mỗi ngày thân quyến đều nói như vậy với người bệnh ba lần, khi nói không gấp gáp vội vàng, mà khuyên nhủ nhẹ nhàng từ tốn. Phải hiểu được tâm ý của người bệnh, vì lúc đó họ rất dễ động tâm sinh phiền não, cũng rất sợ buồn phiền. Nếu người bệnh đã tin rồi thì không nên khuyên nhủ dài dòng thêm nữa, sau đó chỉ cần chuyên tâm nhắc nhở họ nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương là được.
7) Đối với những việc trong gia đình hoặc điều gì đó còn vướng bận trong lòng mà người bệnh chưa thể nói rõ với thân quyến, thì chúng ta nên nhân lúc tâm thức họ còn tỉnh táo, còn có thể nói chuyện được, hỏi cho rõ ràng mọi thứ. Nếu tâm trí họ rơi vào hôn mê, không thể nói chuyện, hoặc mọi thứ sớm đã hỏi rõ ràng rồi thì không nên nhắc những chuyện gia đình hoặc chuyện vướng bận gì cho họ nghe nữa, tránh làm rối loạn chính niệm của người bệnh (chính niệm là niệm Phật).
Tâm thức của người bệnh nếu còn sáng suốt minh mẫn, thân quyến trong gia đình nên nói bên tai họ rằng: “Cha (mẹ, v.v.) ơi! Tất cả mọi chuyện trong gia đình, con đều có thể gánh vác được, cha (mẹ, v.v.) đừng lo lắng gì nhiều. Hãy một lòng một dạ niệm Phật A Di Đà, cầu sinh về Tây phương nhé!” Chỉ nên nói như vậy một lần duy nhất, sau đó cần nhắc nhở họ nhất tâm niệm Phật, cầu sinh về Tây phương là được. Bên cạnh đó, hãy chỉ tay của mình về hướng Tây và nhẹ nhàng nói với người bệnh rằng: “Tây phương ở ngay trước mặt cha (mẹ, v.v.) hãy nhất tâm niệm Phật và luôn nghĩ trong lòng rằng mình sẽ vãng sinh Tây phương”. Hãy nhắc nhở điều này với họ vài lần trong ngày. Nếu tâm thức họ đã rơi vào hôn mê rồi thì không nên nhắc nhở thêm nữa, chỉ chuyên tâm lớn tiếng niệm Phật hỗ trợ.
8) Nếu có người thân thích hoặc bạn bè nơi khác đến thăm viếng, thân quyến trong nhà trước mời khách đến gian phòng khác tiếp đãi họ, nói rõ ràng với họ rằng: “Lúc sắp mất là thời khắc quan trọng nhất, nếu giúp họ niệm Phật sẽ mang lại lợi ích vô cùng lớn cho họ. Đừng khóc than kêu gào vì như vậy sẽ làm trở ngại họ và điều đó cực kì nguy hiểm”. Nói như vậy với khách đến thăm, vừa tránh cho họ sinh lòng nghi hoặc, vừa tránh để họ khóc lóc sầu não trước mặt người bệnh, trở ngại chính niệm. Ngoài ra, khuyên họ giúp người bệnh niệm Phật vãng sinh Tây phương là tình cảm lớn nhất và là sự yêu thương lớn nhất đối với người bệnh ngay lúc này.
9) Hoặc nếu có người bệnh bị nghiệp chướng sâu dày ngăn trở, không thích ai niệm Phật cho mình, không ưa người niệm Phật, nghe ai niệm Phật cũng sinh tâm bực bội không vui, hoặc nhìn thấy có oan hồn đến, những người thân đã mất trước đó đến vây quanh, v.v. Đây đều là nghiệp chướng sâu nặng của họ đến lúc trỗi dậy để cản trở việc vãng sinh. Những người thân thích nên quỳ trước hình tượng Phật thành khẩn tha thiết thay họ niệm Phật sám hối, giúp họ tiêu trừ giảm nhẹ nghiệp chướng để họ thuận lợi vãng sinh Tịnh độ.
Năm ngoái có một vị cư sĩ, mẹ của anh ấy bệnh nặng sắp qua đời. Anh đã thỉnh các vị trong nhóm hộ niệm đến nhà giúp mẹ anh niệm Phật. Mẹ anh khi nghe có người niệm Phật lại sinh tâm buồn bực, bảo họ đừng niệm nữa. Lúc đó, sư phụ mà vị cư sĩ ấy quy y biết đây là nghiệp chướng của bà đang trỗi dậy liền tụng Kinh Địa Tạng cho bà, vị cư sĩ kia cũng sám hối thành khẩn trước tượng Phật, sau đó lại niệm Phật thay cho bà, dần dần bà trở nên thích nghe niệm Phật. Kết quả là bà cũng đã được vãng sinh Tây phương.
Trên đây có nhắc tụng Kinh Địa Tạng giúp tiêu trừ nghiệp chướng, nếu không tụng Kinh Địa Tạng được thì có thể thay bằng việc niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng. Cũng có một vị cư sĩ khác, cha của anh ấy cũng bệnh nặng sắp mất, nhìn thấy cảnh tượng một người đàn bà và một con chó đến để đòi mạng. Vị cư sĩ này cũng thay cha niệm Phật sám hối, khi ấy người cha không còn nhìn thấy cảnh tượng đó xuất hiện nữa. Sau đó cha anh lại nhìn thấy có hai vị Tăng nhân. Hai vị Tăng nhân nói với ông rằng: “Kiếp trước ông đã từng cản trở chúng tôi vãng sinh, nên bây giờ chúng tôi cũng đến cản trở ông”. Vị cư sĩ lại tiếp tục thành khẩn niệm Phật sám hối thay cha mình, rồi thưa với hai vị Tăng nhân rằng, hãy để cho cha anh được thuận lợi vãng sinh. Nếu được về Tây phương, ông ấy nhất định sẽ đến giúp hai vị ấy đồng được vãng sinh. Anh cũng thành kính tạ lỗi vì cha mình đã từng cản trở họ vãng sinh Tây phương trong quá khứ. Sau cha anh cũng không còn nhìn thấy hai vị Tăng này xuất hiện nữa. Cuối cùng, cha anh lại nhìn thấy một vị lão Tăng đến nói với ông: “Oan nghiệp của ông đã được tiêu trừ, sau ‘tam thất’ ông sẽ được vãng sinh, tầng bậc của ông là tầng thứ năm”. Còn nói thêm: “‘Tam thất’ mà tôi nói đó, con trai ông sẽ hiểu rõ”. Mọi người đều tưởng tam thất là ba lần bảy tức 21 ngày. Đã trợ niệm nhiều ngày như vậy, ai ai cũng mệt lả người rồi, bây giờ còn phải tiếp tục trợ niệm 21 ngày nữa, nên mọi người đều thấy có chút khó khăn, nhưng hóa ra chỉ qua 21 giờ đồng hồ, ông ấy đã thuận lợi vãng sinh, tầng thứ năm có lẽ là trung phẩm trung sinh. Theo đây, việc những người thân trong gia đình niệm Phật sám hối hoặc tụng Kinh Địa Tạng hoặc niệm danh hiệu Bồ tát Địa Tạng thay người bệnh cũng đều giúp ích rất lớn cho họ.
10) Lúc người bệnh sắp trút hơi thở cuối cùng, nếu đại chúng trợ niệm đông đảo thì thân quyến hãy đến trước bàn thờ Phật, hoặc quỳ niệm, lễ niệm thành khẩn tha thiết, ân cần cầu nguyện Phật rủ lòng thương xót tiếp đón thần thức người mất vãng sinh Tây phương. Nhưng nếu người trợ niệm ít ỏi, thì thân quyến hãy niệm Phật gần bên cạnh người bệnh. Chú ý đừng đứng trước mặt nhìn thẳng vào họ. Phải hiểu rằng, vào thời điểm này, quyến thuộc nhìn nhau sẽ dễ nảy sinh tâm bi ai, quyến luyến tình cảm gây cản trở chính niệm. Tốt nhất nên ngồi bên cạnh hoặc ngồi ở phía sau. Tiếng niệm Phật không nên nghe đau thương thảm thiết như tiếng khóc. Vì nếu người bệnh nghe được sẽ lại sinh ra ý niệm lưu luyến buồn bã. Khi sinh ý nghĩ như thế chính niệm sẽ mất đi, chính niệm mà không còn sẽ khó được vãng sinh Tây phương. Cho nên, càng vào lúc này chúng ta là người thân thích, càng phải đặc biệt thận trọng, đặc biệt lưu ý. Tuyệt đối không để những điều đau buồn xảy ra, chỉ nên lớn tiếng niệm Phật, niệm từng câu từng chữ rõ ràng thanh thoát. Vừa niệm Phật, tâm vừa mong cầu Phật lực gia hộ cho người mất thân tâm được an lạc, chính niệm sáng suốt, mau chóng được vãng sinh Tây phương.
11) Sau khi người bệnh trút hơi thở cuối cùng, trong khoảng thời gian thân xác họ chưa hoàn toàn lạnh lẽo, những người thân càng cần lưu ý, tuyệt đối không được bi ai mà hãy phát tâm lớn tiếng niệm Phật. Đồng thời, quan sát theo dõi nét mặt và thân thể của người bệnh từng giây từng phút, không để cho ruồi nhặng, muỗi hoặc côn trùng bay đậu. Cần biết rằng, tuy người đã mất nhưng trên thân vẫn có một vài bộ phận còn hơi ấm, chứng tỏ rằng thần thức của họ chưa hoàn toàn rời khỏi thân xác. Nếu có vật gì chạm vào thân xác họ, họ vẫn cảm thấy đau đớn. Một số người theo thói thường lệ, liên tục kiểm tra thân thể người mất xem hơi ấm đang ở đâu. Điều này rất cấm kị, vì nó chỉ mang lại sự tổn hại lớn đối với người mất, chứ chẳng có chút lợi ích nào. Đợi sau khoảng mười mấy tiếng, nếu muốn biết hơi ấm trên thân họ còn hay đã hết, cũng nên nhờ người có hiểu biết, nhẹ nhàng chậm rãi thăm dò. Vào lúc này, thân quyến trong gia đình cần nghe theo sự hướng dẫn của người trợ niệm, tránh vô tình làm hại người mất. Nếu không có người trợ niệm hướng dẫn, mọi người cũng nên thực hiện theo đúng phương pháp trợ niệm.
Còn những thành viên trong ban trợ niệm thì phải nghe theo ý kiến của vị trưởng ban, không nên tùy tiện thăm dò cơ thể người mất, nhất định đừng nghe theo những quan niệm mê tín dị đoan vô căn cứ mà những người thế tục thường hay nói. Chẳng hạn như: “Nhân lúc cơ thể còn ấm, xương thịt mềm mại, hãy thay y phục mới sạch sẽ cho người mất”, hoặc nói: “Nếu không sớm thay ga đổi chiếu cho người đã mất, họ sẽ thiếu nợ giường chiếu”, hoặc: “Cần phải có người khóc, nếu không khóc sẽ không xua đuổi được hung tinh”. Những quan niệm này đều là mê tín, nếu được lan truyền khắp nơi thì sẽ không ít người bị hại. Vô số người sau khi mất phải chịu khổ não không đáng, rơi vào ba đường ác một cách oan uổng đáng thương.
Thuở xưa có một vị vua tên là A Kì Đạt, khi còn sống vua tin thờ Phật pháp, kiến tạo chùa tháp, công đức vời vợi. Đến khi mệnh chung, vừa trút hơi thở cuối cùng thì thái giám hầu hạ đứng bên cạnh vì lao nhọc nhiều ngày liên tiếp chưa được nghỉ ngơi nên bất cẩn làm rơi chiếc quạt trong tay trúng mặt của vua. Vua cảm nhận sự đau đớn đó liền sinh tâm sân, lúc mệnh chung, thần thức liền bị tâm sân ấy dẫn dắt đầu thai vào bụng rắn. Nhưng may thay, thuở bình sinh vua vốn tin kính Phật pháp, công đức xây dựng chùa tháp quá thù thắng, nên sau ba ngày đọa làm thân rắn vua đã thoát khỏi kiếp rắn ấy, thần thức trở lại sinh lên cõi trời.
Lại có hai vợ chồng nọ, thường ngày rất yêu thương nhau. Cả hai đều rất tin thờ Phật pháp, thường trì trai giới. Đến lúc người chồng không may gặp nạn qua đời, cô vợ đau thương khóc lóc thảm thiết. Tuy không còn hơi thở nhưng thần thức người chồng vẫn chưa rời khỏi thể xác. Nghe tiếng khóc quá bi ai của người vợ, tâm thức người chồng liền sinh ra ý niệm luyến ái không nỡ rời. Thế là thần thức liền theo sự dẫn dắt của ý niệm quyến luyến đó, hóa thành một con dòi nằm trong lỗ mũi của người vợ. Vì quá đau thương khi mất đi người chồng yêu quý, trong lúc khóc lóc mũi dãi cô chảy ròng. Cô vợ thấy một con dòi từ trong mũi mình rơi ra ngoài, đang định dùng chân giẫm chết nó, thì vị Tăng đứng bên cạnh biết được hét lớn: “Đừng làm hại đến chồng của cô!” Cô vợ kinh ngạc hãi hùng hỏi nguyên cớ, vị Tăng nói: “Thuở còn sống, chồng cô luôn thành tâm phụng trì trai giới, lẽ ra được sinh thiên. Nhưng do anh ấy nghe thấy tiếng khóc lóc quá thảm thiết của cô mà lòng sinh luyến ái trở lại. Thần thức liền đi theo tâm niệm luyến ái đó làm con dòi trong lỗ mũi của cô”. Người vợ nghe được liền ân hận vô cùng, cầu xin vị Tăng thuyết pháp cho con dòi nghe. Sẵn có duyên lành từ trước, lại được nghe Phật pháp, dòi kia liền qua đời thoát kiếp sinh lên cõi trời.
Hai câu chuyện này đều được ghi chép trong kinh sách cả, đều có căn cứ rõ ràng, trong khi những điều mê tín hoang đường được lan truyền của người đời lại hoàn toàn vô lí. Chúng ta là người học Phật, cần thật sự sáng suốt trước những điều dị đoan sai lệch ấy, tránh khiến cho những người mất về sau phải chịu sầu khổ đau đớn một cách oan uổng. Lẽ ra họ đã có một cuộc sống tốt đẹp hơn ở đời sau, thế mà giờ phải oan ức chịu rơi vào ba đường ác kia.
Vậy nên lúc người mất trút hơi thở cuối cùng, thân thể vẫn chưa hoàn toàn lạnh lẽo, những người thân quyến không nên khóc lóc kêu gào hay thăm dò cơ thể họ, tránh làm tổn hại đến họ, cản trở họ vãng sinh Tây phương. Tóm lại, mọi việc lúc này đều phải nghe theo sự sắp xếp và chỉ dẫn của người trợ niệm. Hoặc nếu không có người trợ niệm, phải đợi lúc lâu sau mới nhẹ nhàng chậm rãi thăm dò cẩn trọng cơ thể người mất. Đợi đến khi toàn thân lạnh lẽo hết rồi, mới đổi ga chiếu hoặc tắm rửa thay y phục mới cho họ. (Phương pháp tắm rửa thay y phục sẽ được nói rõ ở sau)
3. Hỏi đáp về trợ niệm
Hỏi: Hai từ “trợ niệm” nghĩa là gì?
Đáp: “Trợ” tức là giúp đỡ, “niệm” tức là chính niệm. Nói đơn giản hơn, trợ niệm nghĩa là giúp cho người sắp qua đời luôn giữ được ý niệm chân chính, mỗi niệm đều tập trung hiện tiền một cách đúng đắn.
***
Hỏi: Vậy “chính niệm” nghĩa là gì?
Đáp: “Chính niệm” cũng được gọi là “tịnh niệm”, cả chính niệm và tịnh niệm này đều là tâm niệm nhớ nghĩ đến Đức Phật. Bởi vì tâm niệm nghĩ đến Phật là nhân chính để thành Phật nên gọi đó là chính niệm. Lại vì tâm niệm nhớ nghĩ đến Phật ấy hoàn toàn thanh tịnh tinh khiết, trái ngược với sáu trần nhiễm ô nên được gọi là tịnh niệm. Và tịnh niệm này cũng chính là nhân tịnh để vãng sinh Tịnh độ. Tạm nói sơ lược về ý nghĩa của chính niệm như vậy.
***
Hỏi: Tại sao người lâm chung lại cần có người trợ niệm ở bên cạnh?
Đáp: Lúc con người đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, sẽ là lúc bốn đại dần dần phân tán, là lúc tinh thần rối loạn vì các khổ đều tụ hợp. Nỗi khổ này tựa như nỗi khổ của con cua đang vùng vẫy trong nồi nước sôi phải chịu vậy. Thường ngày công phu niệm Phật chưa được thuần thục thì đến lúc đó ai lại không cần có sự giúp đỡ của người khác chứ? Thường ngày duy trì công phu niệm Phật khoảng 6, 7 phút, đến lúc sắp mất, niệm Phật được 2, 3 phút cũng đã rất khó khăn rồi. Huống gì với những người thuở còn sống hoàn toàn chưa biết gì về niệm Phật, chưa có công phu niệm Phật, đến lúc lâm chung há không cần sự giúp đỡ của người khác sao? Cần phải hiểu con người đến những phút cuối đời, cực kì khó khăn để làm chủ bản thân, mà hoàn toàn phải dựa vào người khác, giúp đỡ họ niệm Phật, thay họ làm chủ.
***
Hỏi: Người bệnh cũng đã tắt thở rồi, khi ấy niệm Phật giúp họ thì còn có ích gì?
Đáp: Vì dù người bệnh vừa mới ngừng thở, được xem là chết rồi nhưng thần thức bên trong họ chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác. Đường thiện ác đời sau của họ còn chưa phân rõ, giúp họ niệm Phật ngay lúc đó có diệu dụng cực kì thù thắng. Cần hiểu rằng con người lúc sắp rời khỏi nhân thế, luôn có các phân nhánh dẫn tới đường Thánh, cõi thiện hay lối ác. Từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, chúng ta đã tạo qua vô lượng vô số tội nghiệp ác thiện khác nhau. Tâm trí chúng ta luôn trỗi dậy vô vàn những ý niệm thiện thiện ác ác liên tục không ngừng. Hầu hết chúng ta thường bị những tâm niệm ác lấn át. Khi người ta sắp qua đời, nếu một niệm cuối cùng là niệm ác, vậy thì tâm ác đó sẽ biến hiện ra các cảnh tượng địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Một niệm lúc mệnh chung này sẽ đi theo những cảnh ác này mà kéo thần thức rơi vào các đường ác. Nhưng nếu một niệm cuối cùng của tâm là thiện, vậy thì thiện tâm ấy sẽ biến hiện ra các cảnh tốt đẹp ở cõi trời cõi người. Một niệm lúc mệnh chung này sẽ đi theo cảnh thiện đó mà đưa thần thức sinh vào đường thiện. Hoặc nếu một niệm cuối cùng của người mất nhớ nghĩ đến Phật, muốn được vãng sinh về Tây phương, vậy thì tâm niệm Phật nguyện sinh ấy sẽ đi theo Đức Phật A Di Đà, sinh về đường Thánh Tây phương Cực lạc.
Mọi người nên biết, việc giúp đỡ niệm Phật cho người mất lúc lâm chung chính là để niệm cuối cùng của họ lúc sắp qua đời nhớ nghĩ đến Phật. Nếu niệm cuối cùng của người ấy là niệm Phật, Phật A Di Đà sẽ hiện ra trước mặt tiếp đón người ấy, và người ấy sẽ đi theo vị Phật trong tâm mình lúc đó để về với thế giới Tây phương Cực lạc. Người ta sau khi sinh về Cực lạc, sẽ dứt hẳn đường sinh tử luân hồi trong thế giới Sa bà này, tận hưởng niềm an lạc vô lượng vô biên vĩnh viễn. Việc trợ niệm cho người lúc lâm chung có diệu dụng thù thắng lớn lao như vậy.
4. Một niệm lúc lâm chung có thể giúp vãng sinh Tây phương
Hỏi: Thế giới Tây phương Cực lạc xa đến mười muôn ức cõi Phật, một niệm lúc lâm chung của người niệm Phật làm sao có thể sinh về cõi nước ấy?
Đáp: Một niệm lúc lâm chung của người niệm Phật được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc bởi nhờ ba năng lượng bất khả tư nghì hòa hợp.
Một là Phật lực, chính là 48 đại nguyện đại từ đại bi của Đức Phật A Di Đà. Chính Phật lực bất khả tư nghì này thu nhiếp lấy những chúng sinh tín nguyện niệm Phật, đưa họ vãng sinh về Tây phương Cực lạc.
Hai là tâm lực, chính là tâm nhất niệm ngay hiện tại của tất cả chúng sinh. Tâm nhất niệm này bao hàm ba nghĩa:
1) Tâm thể: Bản thể của tâm nhất niệm ấy tương đồng với chư Phật, chẳng có chút khác biệt nào. Có điều là chư Phật thì thường ngộ không mê, xa lìa năm dục sáu trần, khế hợp với Bồ đề chính đạo. Tâm ấy thanh tịnh thấu suốt, viên mãn vô lượng công đức trí tuệ. Còn chúng ta thì thường mê không ngộ, tham luyến trần thế, không ưa giải thoát, cam chịu luân hồi. Tâm này nhiễm ô vẩn đục, đầy rẫy những phiền não, mê lầm, nghiệp chướng. Nếu chúng ta có thể phát tâm niệm Phật A Di Đà, thì ngay lúc niệm Phật ấy lập tức có thể bỏ đường mê quay về nẻo giác, xa lìa năm dục sáu trần, khế hợp với Bồ đề chính đạo rồi. Vô lượng những phiền não, mê lầm và nghiệp chướng kia sẽ được lắng trong thanh tịnh, mà vô lượng công đức trí tuệ thì được hiển lộ ra tất cả. Tâm niệm Phật này có bản thể đồng với chư Phật không khác. Cho nên bậc cổ đức thường nói: “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”, chính là do Thánh nhân và phàm phu cùng một bản thể tâm, chư Phật và chúng sinh cũng cùng một nguồn tâm. Vậy nên, niệm Phật thì thành Phật, cũng tương tự như nấu gạo thành cơm, hoàn toàn là lẽ đương nhiên.
2) Tâm lượng: Lượng tâm nhất niệm này rộng lớn không có giới hạn. Trong kinh chép: “Tâm trùm thái hư, lượng khắp sa giới”. Nghĩa là lượng của tâm là rộng lớn không bờ bến, không giới hạn. Rộng lớn như thế nào? Như trong kinh có chép rằng: Trong khắp hư không, có vô số thế giới cõi Phật nhiều như hạt bụi không thể đếm hết, ở giữa có một loại thế giới tên là “Phổ chiếu thập phương sí nhiên bảo quang minh”. Thế giới này có 20 tầng thế giới, mà thế giới Sa bà nơi chúng ta đang sinh sống cùng với thế giới Cực lạc ngoài mười vạn ức cõi nước, đều ở tầng thứ 13 của thế giới Phổ chiếu thập phương sí nhiên bảo quang minh này. Một thế giới đã rộng lớn đến như vậy rồi, huống hồ có đến vô số thế giới cõi Phật nhiều như số hạt bụi? Mà vô vàn những thế giới như thế đều được nằm trong thái hư, thái hư ấy lại được bao trùm bởi tâm lượng nhất niệm của mỗi chúng ta. Có thể thấy rằng, tâm lượng của nhất niệm rộng lớn đến vô biên, nên mới nói: “Tâm trùm thái hư, lượng khắp sa giới” là vậy. Nếu chúng ta có thể hiểu được tâm lượng của mình trong nhất niệm rộng lớn vô biên như thế, tự nhiên sẽ không còn hoài nghi gì đối với việc một niệm niệm Phật của người lâm chung có thể giúp họ được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc nữa.
3) Tâm cụ: Một niệm này vốn đầy đủ cả mười loại pháp giới: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục. Mà mười loại pháp giới này đều do một niệm ấy tạo thành. Một niệm của mỗi chúng ta nếu tạo mười nghiệp ác cũng tức là tạo ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh; hoặc tạo mười nghiệp thiện, cũng đồng nghĩa với việc tạo ba đường thiện trời, người và A tu la. Một niệm này của chúng ta nếu niệm Phật A Di Đà, vậy tức là đang tạo ra Phật rồi. Như trong kinh nói: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”, đổi cách nói khác, nếu tâm làm chúng sinh thì tâm ấy là chúng sinh. Cho nên tâm này nếu niệm Phật thì chính là đang làm Phật. Bản thể của tâm niệm Phật ấy chính là Phật. Khi hiểu được điều này, chúng ta sẽ nhận thấy rõ một niệm vốn đầy đủ viên mãn công đức trí tuệ của chư Phật. Nếu ta niệm Phật thì sẽ trở thành Phật. Đây chính là đạo lí tâm đầy đủ hết thảy, tâm tạo ra hết thảy. Nếu ai cũng hiểu được ý nghĩa này, tự nhiên sẽ không còn nghi ngờ gì đạo lí “niệm Phật có thể thành Phật” nữa. Tâm thể, tâm lượng và tâm cụ đã trình bày ở trên, tuy nói là ba nhưng thật ra chỉ là một đạo lí không phân biệt tách rời. Mỗi tâm niệm của chúng ta đều có diệu dụng vô cùng vô tận này, nên mới nói là tâm lực của chúng sinh thật bất khả tư nghì.
Ba là pháp lực, tức là pháp lực bất khả tư nghì cảm ứng đạo giao từ việc tín nguyện niệm Phật. Hễ có người tin chân thành, nguyện tha thiết và chuyên tâm niệm hồng danh A Di Đà Phật, thì cả ba lực bất khả tư nghì: Phật lực, pháp lực và tâm lực của chúng sinh ấy sẽ dung hòa hợp nhất vào một câu hồng danh A Di Đà Phật. Nhờ có năng lực bất khả tư nghì của ba thứ này hợp nhất vào một niệm, nên một niệm lúc lâm chung ấy sẽ đưa người mất được vãng sinh thế giới Tây phương Cực lạc. Bậc cổ đức từng có câu: “Hội tam lực ở cùng thời, đạt thành tựu ở nhất niệm”, chính là đạo lí này.
5. Những điều thiết yếu người trợ niệm cần hiểu rõ
1) Phát tâm giúp đỡ người khác niệm Phật vãng sinh Tây phương chính là thay thế Như Lai gánh vác trọng trách lớn lao cứu giúp chúng sinh liễu sinh thoát tử. Chúng ta đảm đương lấy sứ mệnh độ thoát chúng sinh thì nhất định phải nghiêm túc thực hiện bằng tấm lòng chân thật nhất. Đừng bao giờ làm một cách qua loa cho có lệ, phá hỏng đại sự nhân duyên liễu sinh thoát tử của tha nhân. Cẩn trọng! Thật sự cẩn trọng!
2) Khi đến nhà người bệnh để trợ niệm, trước tiên phải vân tập tất cả gia đình quyến thuộc, trình bày rõ điều quan trọng nhất liên quan đến việc siêu thăng và đọa lạc của người mất. Nói cho họ biết rõ trách nhiệm ấy thuộc về tất cả người thân trong gia đình. Nếu người thân mong họ được siêu thăng mà không bị đọa lạc thì mọi việc phải nghe theo sự hướng dẫn của người trợ niệm, không nên làm trái ý nghịch lòng dù là những điều nhỏ nhặt nhất. Nếu được như vậy thì bảo đảm người mất nhất định được vãng sinh thế giới Tây phương Cực lạc.
3) Khi đến phòng người bệnh, người trợ niệm cần giữ thái độ chân thành tha thiết, trò chuyện phải nhã nhặn nhẹ nhàng. Khi người mất nghe được hiểu được, trong lòng họ sẽ không còn chất chứa hoài nghi nữa. Ban đầu người trợ niệm cần ca ngợi những việc thiện lành mà người sắp mất đã làm lúc còn sống, giúp họ sinh lòng hoan hỉ. Tiếp đến nói về các pháp thiện xảo giúp họ sinh tâm an lạc và khởi niềm tin chân chính đối với việc cầu sinh Tây phương. Người trợ niệm hãy nhìn người bệnh như nhìn chính người thân thuộc của mình. Hãy hiểu rằng, dẫu đời này đôi bên không phải người thân thật sự, nhưng biết đâu một kiếp trước, hai hay ba kiếp về trước, hai người có thể từng là thân quyến của nhau. Nếu người trợ niệm xem người bệnh chính là người thân của mình, thì tâm hỗ trợ niệm Phật sẽ càng gần gũi và tha thiết hơn.
4) Trong phòng bệnh, ngoài khai thị cho người bệnh, người trợ niệm không nên gợi nhắc những người hoặc những việc khác, cũng không được phép nói chuyện nhảm nhí trong phòng bệnh, tránh làm cho người bệnh nghe được mà phân tâm, quên mất chính niệm. Nếu có người thân hoặc láng giềng đến thăm viếng người bệnh, người trợ niệm hãy hỏi họ rằng: “Có phải quý vị đến giúp người bệnh niệm Phật chăng?” Nếu là phải thì bảo họ nghe theo sự hướng dẫn của ban trợ niệm, tránh xảy ra những việc trở ngại. Nếu không phải, vậy tùy nghi dặn dò người thân quyến đưa họ sang phòng khác tiếp đãi, tránh để người bệnh gặp phải lại sinh luyến ái, trở ngại chính niệm. Đây là bổn phận của người trợ niệm, không nên sợ làm khó dễ hoặc mất lòng người khác. Nếu vì nể tình mà làm trở ngại, khiến người bệnh quên mất chính niệm dẫn đến không được vãng sinh, vậy thì đồng nghĩa với việc làm trái lại bản hoài độ sinh của Như Lai, lại càng không hợp với tông chỉ của trợ niệm.
5) Khi niệm Phật bốn chữ hoặc sáu chữ, nhanh chậm cao thấp, người trợ niệm cần phải hỏi ý người bệnh trước xem họ thích niệm thế nào. Nếu họ không mở lời nói chuyện được, vậy thì niệm Phật không nên quá nhanh, vì họ sẽ nghe không rõ; cũng không nên quá chậm, vì quá chậm thì hơi của người bệnh không đủ dài để tiếp nối, thậm chí còn khiến họ dễ rơi vào hôn trầm (buồn ngủ). Không được quá cao giọng, quá cao giọng thì người trợ niệm khó duy trì được lâu; không được quá thấp giọng, quá thấp thì người bệnh nghe sẽ không rõ. Cho nên, phải chọn mức độ vừa phải nhất, không nhanh không chậm, không cao không thấp, từng câu tròn vành rõ chữ, từng chữ mạch lạc thanh thoát, từng câu lọt tai, từng chữ nhập tâm của người bệnh. Niệm Phật như thế mới là trợ niệm chân chính. Nhớ kĩ đừng làm theo cảm xúc hoặc ý muốn của mình một cách tùy tiện, muốn nhanh thì nhanh, không nhanh nữa thì chậm, muốn cao thì cao, không cao thì lại thấp. Như vậy tuy mang tiếng là trợ niệm, nhưng khó mang lại lợi ích gì cho người bệnh. Phải nhớ rằng, cần đến việc trợ niệm là bởi vì nguyên khí của người bệnh lúc sắp qua đời cực suy yếu, tự họ không thể niệm Phật được nên mới cần dựa vào người khác để niệm câu hồng danh A Di Đà Phật này một cách rõ ràng mạch lạc. Việc này giúp cho tâm họ từng niệm từng niệm đều quay về dung hòa với câu hồng danh A Di Đà Phật ấy. Mỗi phút mỗi giây người trợ niệm đều phải quan sát tất cả mọi thứ, chớ làm dao động tâm niệm của người bệnh. Làm sao cho chính niệm của họ tương tục không dứt, cho đến niệm cuối cùng theo Phật đang niệm mà vãng sinh về Tây phương. Đây mới thật sự là mục đích chân chính nhất của những người trợ niệm, thay thế Như Lai đảm đương trách nhiệm độ hóa chúng sinh liễu sinh thoát tử.
6) Khi đã trợ niệm trong khoảng thời gian khá lâu, đột nhiên thấy thần sắc người bệnh tươi sáng hơn trước, có thể nói chuyện hoặc thở đều, có thể hoạt động chân tay cùng nhiều trạng thái khác, lúc này người trợ niệm phải đặc biệt thận trọng, đừng nghĩ rằng là họ đang tiến triển tốt lên. Dù lúc ấy người bệnh có những trạng thái thay đổi như vậy, nhưng có thể chỉ hai tiếng sau họ sẽ dứt hơi thở. Ta hình dung cảnh tượng ấy giống như một ngọn đèn dầu, dầu dần dần cạn khô, ánh đèn cũng chậm rãi mờ đi, đến lúc dầu cạn hết, ánh đèn sẽ đột nhiên vụt sáng mạnh mẽ rồi sau đó tắt hẳn. Thường lúc người bệnh sắp trút hơi thở cuối cùng, đều có những trạng thái như thế, người ta gọi đó là hiện tượng hồi dương. Chúng ta thường nghe nói rằng sau khi trợ niệm nhiều ngày, đột nhiên người bệnh tinh thần sáng suốt, có thể trò chuyện hoặc hít thở và làm chủ được nhiều việc khác như người khỏe mạnh. Nếu người trợ niệm không đủ kinh nghiệm và kiến thức, tưởng rằng họ đang khỏe trở lại, bèn ngưng trợ niệm, nhưng chưa đến hai tiếng sau người bệnh đã dừng hô hấp hẳn. Vậy nên đối với tình trạng này, những người trợ niệm cần nhận thức thật rõ ràng.
7) Trong tình huống khi người trợ niệm vừa đến, nếu thấy người bệnh mới dứt hơi thở, hoặc đã ngừng thở một, hai hoặc ba tiếng trước, người trợ niệm không nên xem nhẹ mà đây càng là lúc phải lưu ý, tốt nhất trước tiên phải lớn tiếng khai thị qua một lần, sau đó bắt đầu trợ niệm. Bởi vì người vừa mới dứt hơi thở, dù người thân có gào khóc hay không thì tâm thức họ cũng bị rối loạn. Nếu lớn tiếng khai thị, tâm người mất sẽ được thức tỉnh. Khi được khai thị: Tâm người mất sẽ có nơi nương về (chính là tiếng niệm Phật hiệu rõ ràng), từ đó tâm họ đang lúc rối loạn dần được chính định trở lại. Họ vẫn biết phát nguyện cầu sinh Tây phương ở thời khắc đó (tâm hoan hỉ khi nghe danh hiệu Phật tức là nguyện sinh Tây phương).
Vậy nên, khai thị nên lớn tiếng, câu chữ đơn giản dễ hiểu, rằng: “Thiện hữu X…! Hãy buông bỏ hết tất cả việc đã qua của quý thiện hữu, dù thiện dù ác không cần phải bận lòng thêm nữa. Hãy buông bỏ cả những việc con cháu hay tài sản, không vướng bận bất cứ một mảy may nào. Hãy một lòng một dạ chuyên nhất niệm Phật A Di Đà cầu sinh Tây phương. Chúng tôi sẽ hỗ trợ cho thiện hữu, giúp tâm thiện hữu chuyên chú lắng nghe câu niệm Phật của mọi người. Mỗi niệm đều phải nương vào câu A Di Đà Phật mà cầu sinh về Tây phương! Hãy chú tâm vào câu niệm Phật của đại chúng. Mỗi niệm đều phải nương vào câu A Di Đà Phật mà cầu sinh về Tây phương!” (lặp lại hai lần câu cuối). Sau khi đã khai thị xong thì bắt đầu trợ niệm. Lúc này cần phải lớn tiếng trợ niệm, chuyên niệm Phật hiệu bốn chữ “A Di Đà Phật”. Nếu người mất thuở bình sinh có tâm tín nguyện cầu sinh Tây phương thì chắc chắn sẽ được sinh Tây phương. Nếu chưa có mà lúc lâm chung được nghe Phật hiệu thì công đức ấy cũng bất khả tư nghì. Kinh Địa Tạng nói: “Người lúc lâm chung, nghe được một danh hiệu Phật sẽ tiêu trừ được năm tội nặng đọa địa ngục Vô gián”. Vậy nên, lúc lâm chung, mình giúp họ niệm Phật thì công đức ấy thật thù thắng vô cùng tận.
6. Nhân quả tối thắng của người trợ niệm
Có nhân ắt có quả, có quả ắt cũng phải có nhân. Nếu chúng ta phát tâm giúp người khác niệm Phật vãng sinh Tây phương, vậy một ngày nào đó lúc chúng ta lâm chung, tự nhiên cũng sẽ có người phát tâm đến hỗ trợ lại cho chúng ta. Người mà hôm nay được chúng ta hỗ trợ niệm Phật để sinh Tây phương, sau này cũng chính họ theo hầu Phật A Di Đà từ Tây phương đến tiếp đón chúng ta, dùng thần lực gia hộ giúp chúng ta không quên mất chính niệm, mà thuận lợi vãng sinh về thế giới Cực lạc. Lại thêm, cũng nhờ chúng ta thường có kinh nghiệm giúp người khác, nên chúng ta là người tường tận hơn bất kì ai khác về những điều tốt xấu trong lúc lâm chung. Khi đến lượt bản thân rơi vào tình cảnh đó, chắc chắn chúng ta sẽ cần đến kinh nghiệm mà mình đã tích lũy, khiến cho mọi thứ đều vận hành đúng như pháp mà không có chút sai lệch nào. Nhờ vậy mà chúng ta chắc chắn sẽ được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc.
Cần hiểu rằng, sở dĩ Như Lai ra đời là vì muốn độ thoát cho tất cả chúng sinh, giúp cho tất cả đều được thành Phật. Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp suốt 49 năm ròng cũng vì mục đích cao cả này. Phật A Di Đà phát 48 đại nguyện rộng lớn, trang nghiêm thế giới Tây phương Cực lạc cũng vì nguyên do này. Tất cả giáo lí vi diệu của Phật đều phải nương vào sự tự lực tu hành của bản thân, phải tự mình đoạn trừ gốc rễ phiền não mới mong thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, đó là pháp môn khó thực hành. Nhưng pháp môn Tịnh độ thì khác ở chỗ có thể nương nhờ nguyện lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà mà vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc. Chưa đoạn hết phiền não nhưng vẫn có thể ra khỏi biển khổ sinh tử, viên thành Phật đạo chỉ trong một đời, là pháp môn dễ thực hành. Bây giờ chúng ta giúp người khác niệm Phật vãng sinh Tây phương chính là thay Như Lai đảm đương trọng trách độ thoát chúng sinh. Từ pháp môn dễ thực hành, nương nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà, rất nhanh sẽ được ra khỏi sinh tử mà viên thành Phật đạo, đây là công đức đặc biệt thù thắng hi hữu. Công đức này sẽ làm nhân thành Phật của chúng ta, sau này chính nhờ công đức này mà chúng ta được vãng sinh về thế giới Cực lạc, được thoát li sinh tử viên thành Phật đạo. Dùng nhân thành Phật để cảm quả thành Phật, đây là lẽ dĩ nhiên chẳng có gì đáng để nghi ngờ.
7. Vấn đề an trí trong phòng bệnh
Phòng của người bệnh cần quét dọn sạch sẽ, cần di chuyển những đồ vật không cần thiết sang nơi khác cho trống trải, vừa giúp người bệnh tránh bị ảnh hưởng bởi việc động chạm vào đồ đạc, vừa giúp người trợ niệm thuận tiện ra vào. Nếu tâm trí người bệnh tỉnh táo minh mẫn, phải sắp đặt sao cho mặt họ hướng về phía Tây, thường nhắc nhở họ nghĩ về việc vãng sinh Tây phương, chỉ họ cách nằm theo tướng cát tường phía bên phải. Nếu người bệnh bị bức bách khó chịu bởi bệnh tật đau đớn, tâm không được an định thì phải tùy nghi ứng biến. Tìm hiểu xem làm thế nào để người bệnh được an định tâm trí và dễ dàng phát khởi chính niệm, thì tùy thuận theo ý muốn của họ. Trước giường bệnh nhất định phải thiết lập tượng Tây phương tam Thánh, còn nếu không đủ duyên chỉ cần một tôn tượng Phật A Di Đà cũng được. Trước tượng Phật cần cúng dường các vật phẩm như hương hoa, nước lọc, v.v. Tượng Phật đặt đối diện với người bệnh, giúp tâm họ sinh lòng kính ngưỡng. Nếu không may người bệnh đi đại, tiểu tiện nhơ uế, phải lập tức nhắc người nhà thay dọn cho sạch sẽ. Khi người bệnh sắp trút hơi thở cuối cùng, mà bên cạnh họ còn những vật nhơ uế từ đại, tiểu tiện thì không cần phải dọn rửa ngay lúc ấy. Chỉ cần nhất tâm niệm Phật hỗ trợ. Dẫu có mùi hôi thối, người trợ niệm hãy quán tưởng rằng “trợ niệm” là gánh vác sứ mệnh cứu độ chúng sinh thoát li sinh tử thay thế Như Lai, không thể vì sợ mùi hôi thối trong chốc lát mà chối bỏ sứ mệnh thiêng liêng cao cả ấy. Huống hồ gì, tất cả những người phàm phu như chúng ta lúc sắp mệnh chung, ai có thể dám chắc thân thể này sẽ không bị như vậy? Chỉ cần quán tưởng như thế, tâm thức chúng ta sẽ không còn lo ngại mùi hôi thối kia nữa. Còn những vật bất tịnh bên thân người bệnh ấy, nhất định phải đợi sau khi người bệnh dứt hơi thở, toàn thân lạnh lẽo cả rồi mới được thay dọn. Tượng Phật tôn thờ trước giường cũng không để bị mùi ô uế bất kính, nhưng vì để người bệnh sắp dứt hơi thở vẫn giữ được chính niệm thì giả sử có mùi ô uế, cũng không thể lau rửa lúc này, sợ sẽ làm lỡ mất đại sự vãng sinh của người bệnh. Việc không lau rửa lúc này chỉ là bất đắc dĩ nên sẽ không bị mang tội.
8. Dẹp bỏ nghi ngờ
Nếu bệnh tình của người kia trở nên nguy kịch, cần nhắc nhở họ rằng: “Thiện hữu còn có điều gì vướng bận trong lòng chăng?” Nếu còn điều gì vướng bận, nhân lúc còn có thể nói chuyện được, hãy sớm dẹp bỏ hết tất cả giúp người bệnh để tránh gây trở ngại lúc vãng sinh Tây phương. Nếu họ không còn điều gì vướng mắc nữa, chỉ nên hỏi một lần như thế, sau không cần nhắc thêm, tránh cho họ phân tâm, quên mất chính niệm! Lưu ý! Thận trọng lưu ý!
Nếu người bệnh khởi tâm hoài nghi: “Bản thân tôi phát tâm niệm Phật chưa được bao lâu, sợ rằng tội nghiệp quá sâu dày, không biết có được sinh về Tây phương hay không?” Lúc này người trợ niệm cần chân thành an ủi họ: “Chỉ cần phát tâm niệm Phật, chớ nên lo ngại sớm hay muộn. Điều quan trọng hơn là từ lúc quý thiện hữu phát tâm cho đến lúc lâm chung đều không thoái tâm. Cho dù đến lúc sắp ra đi rồi quý thiện hữu mới được thiện tri thức khuyên bảo, mới hiểu được công đức thù thắng nhiệm mầu của phát tâm niệm Phật cũng vẫn là một duyên tốt lành. Như kinh Phật đã dạy: ‘Người thường ngày tạo tội sâu dày, đến lúc lâm chung được bậc thiện tri thức hướng dẫn, mới biết phát tâm niệm Phật thì người ấy cũng sẽ được sinh về Tây phương’. Lại kinh cũng có chép: ‘Niệm một câu danh hiệu Phật A Di Đà, có thể diệt trừ được tội nặng sinh tử trong 80 ức đại kiếp’. Cho nên, phát tâm niệm Phật không quan trọng ở việc sớm muộn, hoặc lo sợ tội nghiệp sâu dày, chỉ cần quý thiện hữu luôn nhất tâm chuyên ý niệm Phật, quyết chí nguyện cầu vãng sinh về Tây phương thì đến lúc mệnh chung, chắc chắn sẽ được diện kiến Đức Phật A Di Đà đến đón rước, vãng sinh Tây phương là điều không cần phải nghi ngờ gì nữa”.
Nếu như người bệnh có tư tưởng luyến ái người thân quyến thuộc hoặc tài sản trong nhà, vậy người trợ niệm hãy khuyên nhủ họ rằng: “Tất cả mọi người sinh ra trên đời đều khổ sở vô cùng tận, già cũng khổ, bệnh cũng khổ mà chết lại càng khổ hơn. Những nỗi khổ mà con người phải chịu đựng không thể nào dùng ngôn từ để diễn tả tường tận. Trong khi thế giới Tây phương Cực lạc an lạc hạnh phúc và tự tại vô biên, dẫu có dài lâu bao nhiêu cũng sẽ không già, không bệnh và không chết, niềm vui thù thắng vi diệu ở đó cũng không diễn tả hết bằng lời. Quý thiện hữu nên cầu sinh về Tây phương để còn có cơ hội trở lại cứu độ những người thân và người mình yêu thương đồng được sinh về Tây phương hưởng lạc. Những ý niệm luyến ái người thân và tài sản này, chỉ gây ra trở ngại trên đường vãng sinh Tây phương mà không mang lại chút ít lợi lạc nào. Hãy mau chóng buông tất cả, nhất tâm niệm Phật, để bản thân mình được đến Tây phương trước. Sau khi đã sinh về đó rồi, quý thiện hữu sẽ sở hữu được đủ loại đạo lực thần thông, nương nguyện mà trở lại hóa độ cho những người mình muốn độ, giúp tất cả họ đều sinh về Tây phương, trở thành pháp thuộc của Phật A Di Đà, hưởng thụ niềm vui thường hằng ở Cực lạc. Từ giây phút này trở đi, nếu còn có những ý niệm cản trở này trỗi dậy, quý thiện hữu hãy tự nhủ rằng: ‘Thế giới Sa bà này khổ sở như vậy, thế giới Cực lạc hạnh phúc như thế, sao mình còn tiếp tục điên đảo, luyến ái quyến thuộc và tài sản, tự ngăn cản bản thân không được vãng sinh về Tây phương, lại chẳng thể cứu độ được một người thân thích nào, ảnh hưởng cả đời đời kiếp kiếp của họ về sau nữa?’ Quán tưởng như thế, quý thiện hữu chắc chắn sẽ luôn tỉnh thức mà nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương”.
Khi người bệnh khởi tâm hoài nghi rằng: “Mình niệm Phật rồi mà sao chưa được diện kiến Phật?”, hoặc nghĩ: “Không biết đến lúc mình mệnh chung có được Phật A Di Đà đến tiếp đón hay không?”, người trợ niệm lúc này nên từ tốn an ủi họ: “Bây giờ có được diện kiến Phật hay không cũng chẳng vấn đề gì. Bây giờ chưa được thấy, đến lúc lâm chung sẽ được thấy. Điều cấp bách nhất lúc này, quý thiện hữu hãy chú tâm vào câu A Di Đà Phật này, niệm niệm luôn tỉnh thức. Đến lúc quý thiện hữu ra đi, Phật A Di Đà sẽ tự nhiên hiển hiện ngay trong tâm niệm Phật đó mà tiếp đón quý thiện hữu. Cũng chính vì trong tâm quý thiện hữu nhớ nghĩ đến Phật đó mà quý thiện hữu được theo Phật về Tây phương. Cho nên cần phải chú tâm niệm Phật, chớ nên khởi sinh bất cứ tâm hoài nghi nào nữa. Vì tâm hoài nghi vừa sinh khởi, tâm của quý thiện hữu sẽ bị ngăn cách với tâm của Phật A Di Đà, cản trở bản thân không được sinh về Tây phương nữa. Chỉ cần lòng tin kiên định, một lòng niệm Phật, cảm ứng đạo giao với tâm của Phật A Di Đà, thì chắc chắn sẽ được vãng sinh Tây phương, chẳng có mảy may nào đáng nghi ngờ cả. Nên biết hành giả lúc lâm chung được thấy Phật đến tiếp đón có sớm có muộn, tùy nghi khác nhau. Sớm thì có thể thấy một hai ngày, hoặc vài tiếng cho đến vài khắc trước khi dứt hơi thở. Muộn có thể sẽ là sát na cuối cùng khi người bệnh vừa mất (thần thức vừa tách lìa khỏi thể xác), Phật mới ứng niệm hiện ra (cảm ứng đạo giao). Khi Phật vừa hiện tiền, cũng tức là lúc hành giả thấy Phật vãng sinh Tây phương”.
Nếu người bệnh nhìn thấy cảnh ác hoặc nghe tiếng kinh hãi, trong mơ hoặc trong định niệm Phật, tâm sinh khiếp sợ làm trở ngại chính niệm, người trợ niệm hãy trấn an họ rằng: “Những cảnh ác tiếng xấu này, đều là oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp của quý thiện hữu. Họ biết được quý thiện hữu nay phát tâm niệm Phật chắc chắn sẽ được vãng sinh Tây phương, nên tạo ra những cảnh tượng hãi hùng dữ tợn này khiến cho thiện hữu sinh tâm sợ sệt, ngăn cản thiện hữu không thể tiếp tục niệm Phật để vãng sinh Tây phương. Quý thiện hữu chẳng cần phải sợ sệt gì cả, cũng đừng nhìn đừng nghe bất cứ điều gì, chỉ chuyên tâm chú ý vào câu A Di Đà Phật, niệm niệm tha thiết chí thành, không nên gián đoạn dù chỉ một niệm. Những oan gia trái chủ quỷ ma ấy sẽ không còn nơi trú ngụ nữa, chúng sẽ tự nhiên tan biến hết.”
Hoặc người bệnh gặp lại những người thân thích đã từng mất trước đó, như ông bà hoặc cha mẹ đến muốn dẫn người bệnh đi theo. Hãy giải thích với họ rằng: “Ông bà, cha mẹ ấy đều là quỷ thần ở các đường ác như địa ngục, ngạ quỷ biến hóa ra, lừa thiện hữu rơi vào địa ngục hoặc các đường ác để chịu khổ đau. Cũng đừng quan tâm, hãy mặc kệ chúng, chỉ chú tâm vào câu A Di Đà Phật, niệm niệm không dừng nghỉ. Những người thân thích mà quỷ thần biến hóa ra sẽ tự nhiên biến mất”.
Hoặc nếu người bệnh có nhìn thấy thiên thần, thần linh nào đến tiếp đón về cõi trời làm thần, hãy khuyên người bệnh thật sự thận trọng, đừng để tâm trí bị những thần linh ấy làm cho dao động lung lay một mảy may nào, chỉ quyết tâm đi về Tây phương của Phật A Di Đà. Khi nào có Phật A Di Đà, hoặc Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí đến tiếp đón mới nên đi theo. Hãy nhớ kĩ, Phật A Di Đà được cảm ứng từ tâm niệm Phật của mình, nếu mỗi niệm của tâm ấy đều nhớ nghĩ đến Phật, thì Phật A Di Đà ở Tây phương sẽ hiển hiện từ tâm thanh tịnh niệm Phật đó để tiếp đón mình, mà mình cũng theo Phật vãng sinh Tây phương ngay tâm thanh tịnh niệm Phật đó. Lưu tâm! Hết sức lưu tâm!
9. Khai thị lúc lâm chung
Chúng ta cần phải hiểu sự thật trên thế gian này, bất kể là ai, cũng không thể tránh khỏi hai điều bệnh tật và chết chóc. Nếu quý vị bị khổ vì bệnh tật, cũng đừng để tâm đến cái khổ ấy, mà hãy chuyên tâm chú ý niệm Phật A Di Đà, mỗi niệm đều nương vào âm thanh niệm Phật, chỉ nghĩ về việc vãng sinh Tây phương thôi thì cái khổ của bệnh tật ấy đã được xoa dịu hết hơn nửa rồi. Người tu tập niệm Phật, dù gặp chuyện quan trọng cấp bách gì đi nữa, đến lúc lâm chung cũng phải buông bỏ tất cả. Tâm thanh tịnh sáng suốt chỉ biết mỗi câu A Di Đà Phật, rõ ràng rành mạch, mỗi niệm mỗi niệm đều nắm giữ câu A Di Đà Phật. Mặc kệ ba ngày, năm ngày hay bảy ngày vãng sinh đều được cả. Tôi chỉ có tư tưởng niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương, từ đầu đến cuối đều không đổi dời lay chuyển. Nếu quý thiện hữu quán tưởng được như vậy, bảo đảm nhất định sẽ được vãng sinh Tây phương. Nhớ kĩ đừng giống như những người không có chút hiểu biết nào, đến lúc lâm chung mà chịu chút bệnh khổ lại kêu cha gọi mẹ, than trời trách đất, rồi cầu khấn trời thần, quỷ ma bảo hộ. Đây là một sai lầm cực kì nghiêm trọng. Luôn nhớ rằng người niệm Phật dẫu có bệnh khổ hay không, cũng chỉ cầu Phật A Di Đà từ bi thương xót, sớm đến tiếp đón. Những thần, tiên, trời, quỷ kia vẫn còn trong vòng sinh tử luân hồi sáu nẻo, có năng lực gì mà cứu độ chúng ta thoát li sinh tử đây? Chỉ có lòng từ bi của Phật A Di Đà, với đầy đủ đạo lực thần thông và uy lực từ 48 đại nguyện, mới có thể cứu giúp chúng sinh phàm phu, vĩnh viễn thoát khỏi vòng khổ sinh tử. Nếu quý vị có tư tưởng cầu thần, tiên, trời, quỷ đến cứu giúp thì mau chóng dứt trừ nó đi, chỉ nhất tâm niệm Phật cầu sinh Tây phương mà thôi.
Nếu tuổi thọ của quý thiện hữu chưa hết, niệm Phật cũng có thể tiêu trừ bớt nghiệp chướng, bệnh tật cũng giảm nhẹ. Nếu thọ mệnh đã đến lúc cạn kiệt, niệm Phật sẽ được vãng sinh về Tây phương. Nhưng nếu thiện hữu chỉ cầu mau khỏi bệnh mà không cầu nguyện sinh Tây phương, ngộ nhỡ tuổi thọ đã tận, mạng sống cũng mất mà Tây phương cũng chẳng sinh được. Hoặc nếu tuổi thọ chưa tận, thì bệnh tật kia nhất thời cũng khó hồi phục được, không chỉ khó hồi phục mà còn tự làm bệnh mình khổ hơn. Cần hiểu rằng, với tất cả chúng sinh phàm phu trên thế gian này, những điều khổ não kia đầy rẫy như thế nào? Nếu sinh về Tây phương thì sẽ sung sướng biết bao nhiêu? Nếu có tâm cầu thần linh ma quỷ bảo hộ, cũng chắc chắn có tâm sợ chết. Mà tâm sợ chết ấy sẽ tách biệt với bản nguyện của Phật A Di Đà.
Không được sinh về Tây phương nữa, thì vẫn phải chịu đau đớn trong biển khổ sinh tử dài dài, chưa biết kiếp nào mới mong được thoát khỏi. Khi thấy tự thân có tâm sợ chết, hãy tự trách mình rằng, sao lại sinh khởi tâm sợ chết này, làm chướng ngại đường về Tây phương, lẽ ra phải nên phát tâm niệm Phật dũng mãnh, quyết chí cầu sinh Tây phương mới đúng. Sau đó phải thành tâm tha thiết một lòng niệm Phật, cầu Phật lực từ bi sớm đến tiếp đón mình. Phải rõ biết, bệnh khổ giày vò lúc sắp ra đi là ác nghiệp từ nhiều đời kiếp của mình tới chiêu cảm, hoặc bởi oan gia trái chủ nhiều đời đến gây ra để đòi nợ cũ. Phải kịp thời thức tỉnh rằng bệnh khổ ấy khiến mình sinh tâm phiền não, ngăn trở mình không thể niệm Phật vãng sinh Tây phương. Chỉ cần hiểu được đạo lí này, tâm trí chúng ta sẽ không bị phiền não bệnh khổ trói buộc lay động, tự nhiên có thể đốc thúc mình càng thêm chí thành tha thiết niệm Phật hơn nữa, niệm niệm không buông lơi, toàn tâm nhất ý nương vào câu danh hiệu A Di Đà Phật, để vãng sinh về thế giới Tây phương Cực lạc.
10. Giải thích mối nghi về bệnh khổ lúc lâm chung
Nếu lúc lâm chung, bệnh tật phát tác trầm trọng, người niệm Phật nhất định đừng khởi tâm nghi ngờ, cũng đừng sợ hãi. Thuở xưa Pháp sư Huyền Trang thời Đường lúc lâm chung cũng bị bệnh khổ giày vò, huống hồ chúng ta chỉ là kẻ phàm phu còn nhiều ràng buộc, làm sao có thể thoát khỏi bệnh khổ chứ? Chính vì bệnh khổ kia là ác nghiệp đời trước gây ra, vậy nên nếu chúng ta không niệm Phật, những ác nghiệp ấy sẽ lại tiếp tục chiêu cảm quả báo khổ sở ở đời sau nữa. Nhưng may thay là chúng ta còn có căn lành, hiểu được niệm Phật, vậy thì chắc chắn những ác nghiệp kia sẽ được năng lượng từ bi của Phật A Di Đà gia hộ và chuyển hóa, biến nghiệp xấu ác đời sau thành những quả báo nhẹ như những bệnh khổ hôm nay. Chúng cũng chỉ là nỗi khổ tạm thời, sau khi kham nhẫn một thời gian ngắn, chúng ta sẽ được vãng sinh Tây phương. Chúng ta hãy tiếp tục dụng hết tâm sức để nương nhờ năng lực từ câu A Di Đà Phật này, không để rơi rớt bất cứ niệm nào bị cuốn trôi bởi bệnh khổ. Chính vào lúc này là thời khắc phân định xem chúng ta sẽ thác sinh vào Tây phương hay rơi vào địa ngục khổ đau ở đời sau. Nếu tâm thức bị cuốn theo bệnh khổ phiền não, chúng ta chắc chắn sẽ bị rơi vào địa ngục. Nhưng nếu tâm thức luôn tỉnh thức và nương theo Phật hiệu A Di Đà thì chúng ta nhất định sẽ được vãng sinh Tây phương. Cẩn trọng! Thật sự cẩn trọng!
Nếu hơi thở người bệnh dần gấp rút, khó niệm được bốn chữ A Di Đà Phật, vậy thì niệm một chữ “Phật” cũng được. Mỗi một niệm của tâm đều bám theo chữ “Phật” này, và giữ lấy ý niệm muốn được vãng sinh Tây phương. Nếu bị bệnh tật giày vò quá đau đớn, ngay cả từ “Phật” này cũng không phát ra được, lúc này người bệnh chỉ cần suy nghĩ mặc niệm trong tâm rằng, có một vị Phật A Di Đà từ bi đưa tay tiếp đón mình ở ngay trước mặt một cách chân thật và xác thực nhất. Trong tâm, mỗi niệm vẫn khởi ý muốn được vãng sinh Tây phương, lúc mệnh chung nhất định sẽ được vãng sinh Tây phương đúng như tâm nguyện ấy.
Bậc cổ đức từng nói: “Lúc lâm chung chẳng thể quán cũng không thể trì niệm, chỉ cần khởi ý tưởng biết có Phật, người ấy mệnh chung sẽ được vãng sinh, trong Kinh Pháp cổ đã nói như thế”.
Giải thích sơ lược rằng: Người lúc thường ngày quán tượng niệm Phật nhưng chưa đạt được công phu tam muội, người tu trì danh niệm Phật chưa đạt đến công phu nhất tâm bất loạn, khi đến lúc lâm chung, bởi chịu bức bách khó chịu vì bệnh khổ, thân tâm đều không được an ổn, thêm nhiều chướng ngại khác ngăn trở, chẳng thể nào quán tưởng hoặc quán tượng, cũng không đủ sức để trì danh, nếu có thể mặc niệm trong tâm có một tôn Phật A Di Đà đưa tay tiếp đón ở trước mặt đầy chân thật và thiết thực, niệm niệm chỉ mong vãng sinh về Tây phương cho đến tận niệm cuối cùng, người ấy sẽ nương theo niệm đó mà vãng sinh về Tây phương. Đây là những lời vàng ngọc từ chính kim khẩu Đức Thế Tôn tuyên thuyết trong Kinh Pháp cổ.
11. Phương pháp trợ niệm
Đối với vấn đề trợ niệm, trước tiên cần tìm hiểu kĩ bệnh tình của người bệnh như thế nào? Nếu hơi thở của họ vẫn nhẹ nhàng, chậm rãi, vậy bắt đầu niệm tán Liên trì (một lần), tụng Kinh A Di Đà (một quyển), tụng Chú Vãng sinh (ba lần, nếu được có thể tụng 21 lần), tụng tám câu kệ Tán Phật (A Di Đà Phật thân sắc vàng,…), tiếp đến niệm câu Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật (một lần), niệm hồng danh sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật (khoảng mười lần), sau đó chuyển niệm bốn chữ hồng danh A Di Đà Phật.
Nếu bệnh tình đã nguy cấp, bắt đầu niệm trực tiếp từ bốn chữ hồng danh A Di Đà Phật là được. Pháp khí chỉ cần dùng khánh là đủ, vì tiếng mõ hơi trầm không nên dùng. Người trợ niệm phân thành năm nhóm, hai nhóm ban ngày và ba nhóm ban đêm. Mỗi nhóm ít nhất từ hai vị trở lên, đặt mốc một giờ đồng hồ thì đổi nhóm với nhau.
Phương pháp niệm Phật: Nhóm đầu ban ngày niệm ra tiếng, nhóm thứ hai mặc niệm, đúng một giờ thì đổi ngược lại. Cứ như thế luân phiên thay đổi cho nhau qua mỗi giờ đồng hồ. Đầu đêm, nhóm một niệm ra tiếng, nhóm hai và nhóm ba mặc niệm hoặc dưỡng hơi. Một giờ sau thì nhóm hai niệm ra tiếng, nhóm một và nhóm ba mặc niệm hoặc dưỡng hơi. Một giờ sau đổi sang nhóm ba niệm ra tiếng, cứ luân phiên như thế sau mỗi một giờ đồng hồ. Vì làm như vậy mọi người có thể duy trì sức lực lâu dài đến ba ngày, năm ngày, bảy ngày, nửa tháng cho đến một tháng. Cứ theo thứ tự nhóm một bắt đầu, tiếp đến nhóm hai rồi nhóm ba. Hết một lượt thì quay lại nhóm đầu tiên và tiếp tục xoay vần như thế, ngày đêm đều liên tục tiếng niệm Phật không dừng nghỉ. Mỗi ngày ba lần dùng cơm, người nhóm sau luân phiên thay cho người nhóm trước. Nếu dùng cơm xong trước khi tới thời gian đổi nhóm thì các thành viên trợ niệm thay nhau nghỉ ngơi để tinh thần luôn được tỉnh táo.
Lúc trợ niệm, trước tiên phải nói với người bệnh rằng: “Nếu thiện hữu niệm theo mọi người được thì hãy đồng thanh niệm. Nếu hơi thở suy yếu không theo kịp, thì thiện hữu lưu tâm chú ý lắng nghe mọi người niệm Phật. Tuy nhiên, tai phải nghe sao cho rõ ràng từng câu từng chữ. Tâm cũng phải ghi nhớ rành mạch từng câu từng chữ. Phải hết sức toàn tâm toàn ý hòa nhập vào âm thanh của câu danh hiệu A Di Đà Phật”. Dặn dò họ như vậy rồi thì bắt đầu tiến hành trợ niệm. Khi rơi vào hôn trầm, tức là chìm vào giấc ngủ, người bệnh sẽ không còn nghe thấy tiếng niệm Phật nữa. Người trợ niệm lúc ấy phải dùng khánh đặt gần tai người bệnh, gõ nhẹ một tiếng hoặc hai tiếng, đồng thời cao giọng niệm Phật vài tiếng, giúp người bệnh thức tỉnh, niệm niệm không rơi vào hôn trầm.
Khi người bệnh sắp dứt hơi thở, nếu đại chúng trợ niệm đông đảo, những người thân trong gia đình nên đến trước bàn Phật, hoặc quỳ niệm, hoặc lễ niệm. Đồng thời, tâm phải quán tưởng có Phật A Di Đà phóng hào quang lớn chiếu sáng tiếp dẫn người mất, người mất chắp tay ở giữa luồng sáng của Đức Phật và vãng sinh về Tây phương. Vào thời điểm này, cả ban niệm Phật nên phân thành hai ca luân phiên nhau, mỗi ca niệm Phật lớn tiếng trong nửa giờ đồng hồ, liên tục cho đến khi người mất đã dứt hơi được ba giờ, sau đó luân phiên tiếp tục như lúc trước (nhưng là niệm Phật lớn tiếng).
Lúc người bệnh sắp sửa ngừng thở, người trợ niệm đang trực ban cần đặc biệt lưu tâm. Nếu người bệnh xuất hiện những hiện tượng bệnh khổ như mặt vã mồ hôi, đầu tay thân chân đều bất ổn và loạn xạ; hoặc rơi vào hôn mê như ngủ sâu, không còn hay biết gì cả. Khi thấy những trạng thái như vậy xuất hiện, đó là vì lúc thường ngày người bệnh không mấy dụng công niệm Phật, nên sẽ khó làm chủ được chính niệm lúc này. Người trợ niệm cần đến gần người bệnh lớn tiếng nhắc nhở rằng: “Thiện hữu (cả họ lẫn tên)…! Tây phương ở ngay trước mặt thiện hữu rồi, hãy dốc lòng khởi niệm A Di Đà Phật, quyết sinh về Tây phương thôi! Thiện hữu (cả họ lẫn tên)…! Tây phương ở ngay trước mặt quý thiện hữu rồi, hãy dốc lòng khởi niệm A Di Đà Phật, quyết sinh về Tây phương thôi!” Nhắc liên tiếp hai lần lặp lại như thế, lại theo dõi môi và nét mặt của họ, nếu vẫn bất động như trước vậy thì lặp lại câu vừa rồi thêm một lần nữa. (Trường hợp người bệnh có hiểu biết sâu sắc, thì nói rằng: “Tây phương ngay ở trong câu danh hiệu A Di Đà Phật”). Tối đa không quá ba lần. Sau đó chỉ nên niệm Phật lớn tiếng.
Sau khi người bệnh ngừng thở, trong khoảng giai đoạn cơ thể chưa hoàn toàn lạnh lẽo, người trực ban trợ niệm cần đặc biệt lưu tâm, tuyệt đối không được phép thăm dò thân xác người mất và để người nhà khóc than, chỉ có tiếp tục niệm Phật lớn tiếng như cũ. Phải đợi qua một ngày một đêm, mới được phép nhờ người có kinh nghiệm và kiến thức nhẹ nhàng chậm rãi xem xét cơ thể người mất, cho đến khi toàn thân người mất lạnh lẽo thì việc trợ niệm mới kết thúc hẳn, sau đó chuyển thân xác người mất tới trước tượng Phật, hồi hướng cho người mất được vãng sinh Tây phương. Nhưng nếu toàn thân chưa lạnh hết thì ban trợ niệm phải tiếp tục phát tâm niệm Phật lớn tiếng như thế một, hai hoặc ba ngày sau nữa. Càng những lúc này, người trợ niệm càng nên quán tưởng mình đang gánh vác sứ mệnh cứu độ chúng sinh liễu sinh thoát tử thay cho Như Lai, đừng vì chút lao nhọc vất vả ngắn ngủi mà làm lỡ việc vãng sinh Tây phương của thần thức người mất. Mọi người phải phát tâm dũng mãnh cố gắng thêm chút nữa, đợi đến khi toàn thân người mất lạnh hẳn thì mới ngừng trợ niệm. Trợ niệm như vậy đúng thật là phát tâm Bồ đề chân chính, là biểu hiện thiết thực của việc hành Bồ tát đạo.
12. Thời gian tắm rửa, thay y phục
Sau khi toàn bộ cơ thể người mất đã lạnh hẳn, đợi hai giờ sau nữa mới được tắm rửa và thay y phục mới cho họ. Những chỗ co gập đã bị cứng dần, có thể dùng khăn vải cũ thấm nước nóng đắp lên chỗ đó, vài phút sau chúng sẽ mềm trở lại. Nếu người mất chưa nhắm mắt, cũng dùng khăn vải cũ thấm nước ấm rồi đắp lên hai mắt của họ, vài phút sau mắt sẽ nhắm lại được.
Về vấn đề áo quần cho người mất, chỉ cần là những bộ áo quần thường ngày họ hay mặc là được, áo liệm cũng không nên quá nhiều quá tốt. Nên hiểu rằng, yêu thương người mất quan trọng ở việc giúp họ vãng sinh Tây phương, được đại an lạc. Chỉ khi giúp người mất được vãng sinh Tây phương thì mới được xem là thật sự hiếu thảo, yêu thương và chăm sóc họ. Nếu chỉ chú tâm ở hình thức bên ngoài, để người ngoài khen ngợi, trang trí tẩm liệm, mai táng hay tổ chức tang lễ với quy mô hoành tráng, mà không quan trọng lợi ích chân thật của người mất thì thật sai lầm quá lớn vậy.
13. Cách tiến vong tốt nhất
Sau khi người mất vãng sinh Tây phương, việc tiến vong tốt nhất là ăn chay niệm Phật (người thân cần cai rượu, thịt cá hoặc dâm dục). Nếu muốn tạo công đức lớn cho người mất, nên thỉnh các vị Tăng Ni đến niệm Phật tụng kinh. Số ngày nhiều ít tùy thuộc vào mong muốn và sự phù hợp của mỗi gia đình. Về niệm Phật tiến vong, tốt nhất là toàn bộ thành viên trong gia đình đều tham gia, bởi vì người thân có mối quan hệ tình cảm và huyết thống với nhau, niệm Phật sẽ thành khẩn tha thiết hơn những người khác. Khi niệm Phật, không phân biệt là Tăng Ni xuất gia hay tại gia thế tục, chỉ cần mọi người chí thành tha thiết thì công đức sẽ vô lượng. Công đức niệm Phật mỗi ngày đều hồi hướng trước bàn linh cho người mất được vãng sinh Tây phương. Nếu người mất đã được sinh Tây phương, công đức niệm Phật của người thân sẽ giúp họ được tăng cao phẩm vị hoa sen. Nếu chưa được vãng sinh, cũng nương nhờ năng lượng từ công đức niệm Phật này mà họ được vãng sinh Tây phương.
Hầu hết người thế tục thường xem trọng các việc tụng kinh, bái sám và cúng thí thực, v.v. nhưng lại xem nhẹ việc niệm Phật. Đây thật sự là thiếu sót rất lớn. Như trong Quán kinh nói: “Niệm một câu A Di Đà Phật, có thể diệt được tội nặng sinh tử trong 80 ức (8.000.000.000) đại kiếp”. Vậy sao ta dám xem nhẹ công đức niệm Phật như thế? Lại trong văn Hạ phẩm thượng sinh thuộc Quán kinh chép: “Nghe qua tên đề của 12 bộ kinh, tiêu trừ được tội ác cực nặng trong 1.000 kiếp. Niệm một câu danh hiệu Phật A Di Đà, đoạn diệt tội sinh tử của 5.00.00 đại kiếp”. Lại bảo rằng: “Chỉ riêng nghe đến danh hiệu của Phật A Di Đà, đã có thể đoạn trừ được tội sinh tử trong vô lượng đại kiếp”. Những lời ấy đều được ghi chép trong kinh điển, có căn cứ có minh chứng rõ ràng, không phải là lời nói sáo rỗng. Từ đó có thể thấy công đức niệm Phật vô lượng vô biên và thù thắng vi diệu như thế nào.
Thường những pháp sự như tụng kinh, bái sám, cúng thí thực, v.v. sẽ tạo ra công đức rất lớn nếu người tham dự đều có tâm chí thành. Nhưng tiếc thay, con người thời nay tâm chí thành rất nhỏ bé, hiếm hoi. Như Tổ sư Ấn Quang từng nói: “Người thời nay, phần nhiều qua loa hời hợt, không đúng như pháp, chỉ mong hoành tráng bên ngoài, dễ rơi vào chú trọng hình thức hơn. Nếu ai cũng chuyên tâm niệm Phật, càng nhiều người niệm Phật công đức càng rộng lớn càng thù thắng. Đem công đức niệm Phật ấy hồi hướng cho pháp giới chúng sinh đều được sinh về Tây phương, thì công đức ấy càng vĩ đại cao cả hơn biết nhường nào. Mà lợi ích người mất đạt được cũng càng thù thắng hơn thế nữa”.
Sau khi người mất vãng sinh Tây phương rồi, những người thân quyến trong suốt 49 ngày nên cố gắng phát tâm ăn chay niệm Phật, giữ gìn năm giới thanh tịnh (không sát sinh hại mạng, không trộm cướp, không tà dâm, không gian dối, không uống rượu và ăn các thứ mặn cay nồng). Nếu làm được như thế, cả người mất kẻ sống đều được lợi lạc vô lượng và thù thắng.
14. Hỏi đáp về thân trung ấm
Hỏi: Sau khi người thân đã mất, những thân nhân quyến thuộc phải ăn chay niệm Phật trong suốt 49 ngày, tạo các thứ công đức hồi hướng cho họ, việc này sẽ mang lại ý nghĩa gì?
Đáp: Nếu người đã mất được sinh về Tây phương rồi, người thân vẫn ăn chay niệm Phật trong 49 ngày và tạo các công đức hồi hướng cho họ, việc này sẽ giúp tăng cao phẩm vị hoa sen cho người đã vãng sinh và khiến tất cả người thân quyến trong nhà đều được phúc đức vô lượng.
Hoặc nếu người mất chưa được vãng sinh, dù đã qua đời nhưng chưa quyết định sẽ đầu thai vào cõi nào, tức là đang rơi vào giai đoạn thân trung ấm, lúc này người thân niệm Phật, tạo các công đức lành, đồng nghĩa với việc gieo trồng căn lành Tịnh độ cho họ, khiến họ sinh lòng tin phát nguyện niệm Phật cầu vãng sinh Tây phương trong khi còn ở thân trung ấm. Chỉ cần người thân và chính họ có đầy đủ ba tư lương Tịnh độ, nhất định được Phật tiếp đón vãng sinh Tây phương.
***
Hỏi: Trung ấm nghĩa là gì?
Đáp: Một người sau khi mất, thần thức họ rời khỏi thể xác nhưng chưa được thác sinh hoặc đầu thai vào đâu cả. Giống như khi chúng ta bước ra khỏi ngôi nhà của mình, nhưng chưa vào ngôi nhà khác, vẫn còn đang ở trung gian, đây gọi là trung ấm. Sau khi mất, ngoài những người niệm Phật được vãng sinh Tây phương, người cực thiện được sinh lên cõi trời, người cực ác thì đọa địa ngục Vô gián sẽ không trải qua giai đoạn trung ấm thì những người bình thường, không thuộc hàng cực ác hoặc cực thiện đều phải trải qua giai đoạn trung ấm.
Trong giai đoạn đó, nếu nhanh thì trong khoảng một cái búng tay thần thức người mất sẽ tùy nghi thác sinh vào một trong sáu đường thiện ác, nếu muộn thì đến 49 ngày sau, hoặc lâu dài hơn nữa.
***
Hỏi: Tại sao con người chết đi rồi không trực tiếp được đầu thai, lại cần phải qua giai đoạn thân trung ấm, sau 49 ngày mới được đi đầu thai, vì duyên cớ gì như vậy?
Đáp: Vì chưa định được các nghiệp thiện ác mà người mất đã tạo từ nhiều đời kiếp đến nay. Vọng tâm vô minh nghiệp thức, một niệm tâm thiện, một niệm tâm ác, sinh rồi diệt, diệt rồi lại sinh, nghiệp thiện ác đến đi bất định. Nếu nghiệp thiện định thì tâm ấy cực thiện, từ tâm thiện kia mà sinh vào các cảnh giới trời, người, A tu la. Tâm thức kia cũng nương theo đó mà thác sinh vào các cõi lành ấy. Cũng nhờ tâm thiện lại phân thành thiện thượng phẩm, thiện trung phẩm và thiện hạ phẩm, nên mới cảm ra ba đường thiện khác nhau là trời, người và A tu la.
Nếu ác nghiệp định tức là tâm ấy cực ác, chính từ ác tâm kia mà các cảnh giới của đường ác như súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục biến hiện ra. Tâm thức kia cũng nương theo đó mà đầu thai vào cõi ác ấy. Bởi vì tâm ác cũng có ác thượng phẩm, ác trung phẩm và ác hạ phẩm, nên mới cảm ra ba đường ác khác nhau là súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục.
Từ mối liên hệ này, nên người thân quyến trong 49 ngày cần ăn chay niệm Phật, tạo các công đức lành cho người mất, giúp người mất nương nhờ năng lượng từ những công đức ăn chay niệm Phật này mà tiêu giảm tội ác, tăng trưởng phúc thiện, vãng sinh Tây phương, hoặc siêu thăng cõi trời, sinh vào cõi người. Nếu người nhà không phát tâm ăn chay niệm Phật tạo công đức, ngược lại còn sát sinh bừa bãi, tà dâm và tạo những ác nghiệp khác, cho đến thoải mái ăn thịt uống rượu, các thứ tanh hôi cay nồng, v.v. có thể nghiệp đời trước của người mất vốn là thiện, cũng do đây mà tan biến hết, chuyển thành nghiệp ác. Còn nếu nghiệp đời trước vốn đã là ác, thì ác nghiệp lại chồng chất sâu nặng hơn nữa. Mà ác nghiệp chồng chất thì là ác nghiệp thượng phẩm, chắc chắn sẽ bị rơi vào địa ngục, gánh chịu thống khổ suốt nhiều nghìn năm.
***
Hỏi: Nếu gia đình nghèo khổ thiếu thốn, nội trong 49 ngày này vừa ăn chay niệm Phật lại cố gắng tạo các công đức lành, thì đời sống của họ sao có thể duy trì được nữa?
Đáp: Trong các công đức ấy thì công đức niệm Phật là thù thắng nhất. Nếu gia đình nghèo khổ túng thiếu, không thỉnh mời được chư Tăng Ni đến nhà, thì tự cả gia đình ăn chay niệm Phật, công đức ấy cũng rất thù thắng. Thời gian niệm Phật mỗi ngày, quy định sáng sớm sau khi niệm Phật xong thì đến trước bàn linh người mất hồi hướng cho họ rồi dùng bữa sáng. Buổi trưa niệm Phật trước khi dùng bữa, hoặc dùng bữa xong thì niệm Phật, tùy nghi theo công việc mà sắp xếp sao cho tiện. Buổi tối dùng cơm tối xong mới niệm Phật, niệm xong thì đến trước bàn linh hồi hướng. Quy định mỗi ngày niệm Phật ba cữ, hồi hướng ba lần. Trong thời gian làm các công việc khác cũng có thể niệm Phật thầm. Phương pháp niệm Phật độ vong này vừa có thể tiết kiệm, cách thức lại giản đơn thuận tiện sẽ không làm trở ngại đời sống, công đức cũng lớn lao. Nhờ vậy mà gia đình cũng được cát tường bình an, dòng tộc người người đều được phúc, người mất cũng hưởng phần lợi ích thù thắng. Đây là cách tốt nhất để âm siêu dương thái, người còn kẻ mất đều được lợi lạc.
15. Dẫn chứng phẩm Lợi ích người còn kẻ mất trong Kinh Địa Tạng
Trưởng giả Đại Biện chắp tay cung kính hỏi Bồ tát Địa Tạng rằng: “Bạch đại sĩ! Sau khi chúng sinh trong cõi Nam Diêm Phù Đề mệnh chung, các quyến thuộc từ lớn đến nhỏ vì họ mà tạo các công đức, cho đến thiết trai cúng dường làm các điều thiện (niệm Phật, ăn chay, trì giới, cúng dường Tam bảo, v.v.) thì người mệnh chung sẽ được lợi ích lớn và được giải thoát (sinh tử) chăng?”
Bồ tát Địa Tạng đáp rằng: “Thưa trưởng giả! Các chúng sinh ở hiện tại hoặc tương lai khi đến ngày sắp mệnh chung, được nghe một danh hiệu Phật, một danh hiệu Bồ tát, một danh hiệu Bích chi Phật, dẫu có tội hoặc không tội đều được giải thoát” (tức vãng sinh Tây phương Cực lạc). Lại nói rằng: “Quỷ vô thường không hẹn mà đến, thần thức dạo khắp cõi u minh, chưa biết phân rõ tội ác, nội trong 49 ngày như ngu như điếc. Đợi cho đến khi thần phán định nghiệp quả thì mới theo đó thọ sinh, nhưng trong lúc còn chưa phân định ấy phải chịu trăm nghìn nỗi sầu khổ. Huống gì rơi vào trong các đường ác, sẽ đau đớn gấp bao nhiêu lần như thế. Người mệnh chung chưa được thọ sinh, phải đợi chờ trong suốt 49 ngày đêm, mỗi niệm mỗi niệm đều trông mong tình thân cốt nhục tạo các phúc đức để cứu vớt họ. Sau 49 ngày ấy, tùy nghiệp thọ nhận quả báo, nếu là tội nhẹ (như những tội thông thường) thì sẽ chịu khổ trong khoảng trăm nghìn năm trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chưa biết ngày được giải thoát. Nếu là tội sâu dày (tội vô gián), sẽ phải đọa vào đại địa ngục trong nghìn kiếp vạn kiếp (mỗi một đại kiếp bằng với 1.343.840.000 năm ở nhân gian), vĩnh viễn chịu khổ sở đau đớn”. Lại nói: “Nếu có thể vì người mất, rộng tạo các điều thiện trong 49 ngày đêm (niệm Phật, ăn chay, giữ giới, cúng dường Tam bảo, v.v.) sẽ giúp chúng sinh ấy được vĩnh viễn xa lìa các đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), sinh lên các cõi trời, hưởng thụ những niềm vui vi diệu, người thân trong gia tộc cũng được lợi ích vô lượng”.
16. Phụ: Hai điều hỏi đáp
Hỏi: Có người thường ngày tín nguyện niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung thì thần thức hôn mê chẳng thể mở lời. Lúc này, người trợ niệm có giúp được gì cho họ không? Nếu giúp được thì thần thức người kia đã hôn mê, trở nên vô tri vô giác thì tác dụng ở đâu? Nếu không giúp được gì, vậy công đức tín nguyện niệm Phật thường ngày há chẳng phải luống công vô ích sao?
Đáp: Công đức niệm Phật bất khả tư nghì. Có người thuở bình sinh thường tín nguyện niệm Phật, nhưng đến lúc lâm chung thần thức lại bị hôn mê, không nói được lời nào. Chỉ cần gặp được bậc thiện tri thức phát tâm trợ niệm giúp đỡ thì lợi lạc mà người mất thụ hưởng cũng vô lượng khó lường. Trước khi thần thức người kia chưa tách lìa thể xác, chỉ cần lúc thức tỉnh được nghe tên Phật thì có thể phát khởi tâm tín nguyện niệm Phật thường ngày, lúc lâm chung sẽ được Phật lực tiếp đón vãng sinh Tây phương chẳng có gì để hoài nghi! Nếu hôn mê cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, đến lúc thần thức lìa thể xác, do nghiệp từ trước đến nay của họ chưa định rõ, nên còn phải trải qua giai đoạn trung ấm. Trong thời gian trung ấm, nhờ có quyến thuộc và bạn bè niệm Phật, người mất lúc này sẽ hồi tưởng lại tâm tín nguyện niệm Phật thuở còn sống, nhờ đó được Phật tiếp đón vãng sinh Tây phương.
Nếu không có người thân thích tạo phúc niệm Phật, mà chỉ được thiện tri thức trợ niệm, dẫu chẳng được vãng sinh nhưng cũng nhờ thắng duyên ấy mà tăng trưởng căn lành Tịnh độ ở đời sau. Như kinh chép rằng: Thuở Phật còn tại thế, có một cụ già gặp một con hổ dữ, bèn trốn ở trên cây. Do quá sợ hãi nên cụ niệm lên một tiếng Nam mô Phật. Nhờ căn lành này, sau đã được Phật cứu độ. Huống hồ những người thường ngày sớm đã tín nguyện niệm Phật thành khẩn như thế? Do đó có thể biết công đức niệm Phật thù thắng thế nào, tuyệt đối chẳng phải luống công vô ích.
***
Hỏi: Người điếc lúc lâm chung tuy được người khác trợ niệm, nhưng lại chẳng thể nghe được tên Phật, vậy trợ niệm có ích gì?
Đáp: Người điếc do nghiệp nhĩ căn đã tạo từ đời trước, nên nay mới cảm lấy quả báo này. Tuy không nghe được tên Phật, nhưng lâm chung được người trợ niệm cũng có thể vãng sinh. Tại vì sao? Người điếc tuy khiếm khuyết nhĩ căn, nhưng tính nghe vẫn còn. Chỉ cần người kia tự tâm tỉnh táo minh mẫn, tín nguyện kiên cố, một lòng cầu sinh Tây phương, thì khi mệnh chung ắt cảm Phật đến nghênh đón. Lại nhờ thiện tri thức trợ niệm, cộng thêm tâm lực bất khả tư nghì của chúng sinh và công đức bất khả tư nghì của hồng danh Phật A Di Đà, nên người ấy được vãng sinh Tây phương. Cũng giống như thuận gió dong buồm, xe nhẹ chạy đường quen vậy!
Lại vào lúc lâm chung, người kia nghiệp trước sắp dứt, nghiệp sau chưa sinh, duy có thức thứ tám (A lại da thức) có tác dụng. Người kia thuở sinh tiền vì nghiệp chướng nên mới không trọn nhĩ căn không đầy nhĩ thức, đến thời khắc này quả trước đã tận, thì thức thứ tám tự nó có thể nghe, có thể biết, có thể thức tỉnh.