Mẹ tôi có mang em vào năm bom đạn ác liệt ở Quảng Bình.
Thời ấy, không ai ở vùng đất này kể cả lũ con nít như chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ sống sót qua cuộc chiến tranh. Bom trên trời giội xuống, pháo ngoài biển câu vào, làng xóm bị đào lên lấp xuống tan nát tơi bời. Hồi chín, mười tuổi, tôi đã tận mắt thấy cảnh người bị mảnh bom phạt cụt đầu, máu bắn lên thành tia ở cổ, những đoạn ruột người, ruột trâu bò… mắc trên cành cây, thức ăn và phân vãi ra tung tóe. Có nhà đêm ngủ chung hầm bị bom ném trúng, cả bảy người nhặt lại chỉ được một rá thịt bầm tím lấm lem đất cát.
Mẹ, tôi còn nhớ, bụng to bề bề vẫn phải tất tả buôn xuôi bán ngược để nuôi anh em tôi, mặc kệ trên bom dưới đạn. Nhìn chúng tôi, mẹ hay thở dài, tưởng đời mẹ phải chịu chiến tranh giặc giã ai dè đến đời các con cũng nỏ thoát. Một đôi quang gánh, chiều đi chợ mua cá về kho, sáng mai đem lên mấy làng làm nông lân cận đổi khoai, đổi lúa về. Nhờ thế, mà mẹ bữa cơm bữa cháo nuôi được bốn đứa con để ba tôi rảnh rang lo việc ở trạm y tế xã.
Mẹ sinh em Hà ra sao tôi không được rõ. Chỉ biết là mẹ không sinh ở nhà. Đi học về, tôi nghe bà nội bảo: “Ba bây đưa mạ bây đi đẻ ở bệnh viện huyện rồi”. Cái chuyện sinh đẻ thế nào lũ con nít như tôi làm sao biết được, chỉ mang máng nghĩ rằng mấy hôm nữa mẹ sẽ bồng em bé về.
Mấy hôm sau, mẹ bồng em bé về thật. Tôi nhìn nó, nhăn nheo, bé như một con mèo, ngo ngoe trong chiếc tã màu cỏ úa. Mấy đứa em tôi cũng xúm đến, cái Liên cầm tay mẹ lắc lắc: “Mạ, dăng em nhỏ dứa?”. “Em mới sinh mần răng mà to được con”, giọng mẹ buồn buồn. “Dứa, em miềng têng chi mạ?” - thằng Hóa ngọng líu hỏi: “Ba đặt tên cho em là Hà; Quý, Hóa, Liên, Hùng, Hà, mấy con thấy hay không?” - mẹ có phần vui hơn. Bà nội góp lời: “Con gái đặt tên Hà hay đó, mệ cũng thích cái tên nớ…”.
Từ khi mẹ mang em Hà về tôi thấy mẹ có vết sẹo vắt ngang bụng. Tôi hỏi, mẹ bảo: “Mẹ phải mổ khi sinh em Hà”. “Sao đẻ bọn con mẹ không phải mổ?”, tôi hỏi tiếp. Mẹ xoa đầu tôi: “Vì em Hà hư không chịu ra nên bác sĩ phải mổ để đưa em ra”. Tôi không hiểu lắm điều mẹ nói nhưng cũng lờ mờ đoán được mẹ sinh em Hà ra không giống mình.
Nhà có thêm em bé, mẹ vất vả hơn. Vài tháng sau khi sinh mẹ lại phải quang gánh trên vai chạy chợ. Sợ chúng tôi đói, mẹ tranh thủ thời gian cuốc đất trồng thêm khoai sắn. Áo bà ba nâu, quần xắn gối, chiếc nón đã sổ vành đội đầu, mẹ cặm cụi cuốc hết vạt đất này đến vạt đất khác. Đất chân núi, sỏi nhiều, chiếc cuốc chốc chốc lại tóe lửa. Chiếc áo mẹ mặc đầm đìa mồ hôi, khi khô từng quầng muối đọng trắng xóa.
Tối nào tôi thấy mẹ cũng phải rửa vết mổ. Đã hơn một năm mà chỗ mổ khi mẹ sinh em Hà vẫn chưa lành. Mủ vẫn còn rỉ ra. Có lẽ, do mẹ tôi làm việc nặng nhiều quá, mồ hôi thấm rịn vào vết mổ nên khó khô. Bà tôi, ba tôi nhiều lúc nhắc mẹ nhưng vì quá thương con nên mẹ ít khi ngơi tay làm việc. Bù lại, nhờ có sắn khoai của mẹ trồng nên chúng tôi có cái ăn trong những ngày bom rơi đạn nổ.
Điều làm mẹ buồn nhất là em Hà không chịu lớn. Nó cứ nhỏ xíu như hồi mới sinh. Hơn một tuổi rồi mà em vẫn chỉ nằm một chỗ trên tấm phản trong nhà lều sơ tán. Hình ảnh của Hà ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Một thân hình mỏng dính da bọc lấy xương, xanh xao. Nếu như không có đôi mắt rất đen ngân ngấn nước và cái miệng bé xinh lúc nào cũng phải hé mở ra để hớp không khí chắc không ai nghĩ rằng đây là một sinh linh đang còn sống. Em thở rất khó nhọc, nghe như ngắt rời ra từng nhịp yếu ớt. Cho Hà ăn cháo uống sữa cũng khó, mọi thứ như mắc lại ở cổ, cố lắm em mới nuốt được.
Ba nói, em bị sinh thiếu tháng lại phải bị mổ nên suy dinh dưỡng trầm trọng. Ba làm nghề y, thỉnh thoảng kiếm được ít thuốc bổ và mẹ vẫn chắt chiu từng hào để dành tiền mua sữa cho Hà. Những thứ ấy thời chiến tranh ở quê tôi hiếm lắm. Nhưng mọi sự cố gắng của ba mẹ tôi đều không được đền đáp xứng đáng. Em Hà vẫn như thế. Mỏng dính. Từng rẻ xương sườn nhô lên rõ mồn một sau làn da xanh tái. Hơi thở ngắt rời. Khò khè. Mỗi khi nuốt sữa, nuốt cháo cổ em như bị kéo dài ra.
Hà rất hay bị đi lỏng. Nhiều lần ba tôi phải truyền dịch cho em. Một lần, tôi không quên được… Chiều tối, đi học về, vào ngõ tôi đã nghe tiếng mẹ tôi khóc ai oán: “Con ơi… đừng bỏ mẹ mà đi nghe con. Con đi… mẹ cũng không sống nổi đâu. Trời ơi, có hành hạ thì hành hạ tui, có bắt thì bắt tui chết… tại sao lại bắt con tui… nó còn nhỏ lắm. Trời ơi…”. Tôi hốt hoảng bước vội vào nhà. Em tôi nằm đó leo lét như ngọn lá sắp rớt cành. Mẹ khóc. Bà chấm nước mắt. Ba đang tiêm cho em. Mấy đứa em tôi ngơ ngác. Bà con ngồi đứng trong nhà ngoài sân. Một chiếc quan tài nhỏ bé bằng gỗ tạp vừa mới đóng xong đang để ngoài sân.
Cứ tưởng rằng lần ấy em tôi đi. Chưa. Có phải vì động lòng bởi tiếng khóc ai oán của mẹ tôi mà Trời còn để cho Hà ở lại với mẹ.
Tai họa lại dội xuống gia đình tôi. Mẹ tôi mất. Một loạt bom bi của máy bay Mỹ rải xuống xóm tôi đã giết chết mẹ trong cái đêm mùa hạ mây đen quần đảo ấy. Tôi mồ côi mẹ lúc mười hai tuổi, các em tôi còn bé hơn, Hà lúc đó lên hai.
Bà tôi thay mẹ chăm sóc em. Vẫn nước cháo, nước sữa đút cho em nhưng nước cháo là chủ yếu vì mẹ tôi mất, nguồn thu của gia đình giảm nhiều không đủ tiền mua sữa thường xuyên cho Hà. Đây là những năm tháng cơ cực nhất của chúng tôi. Mẹ mất, ba buồn lắm, lại phải mượn chén rượu giải khuây. Nhà nhiều lúc thiếu gạo ăn, chúng tôi phải thái rau muống hấp vào cơm. Có khi còn ăn cả cám rang. Đến sắn khoai cũng hiếm.
Em Hà vẫn nằm một chỗ, không ngồi dậy được. Càng mỏng dính. Xanh tái. Khò khè. Em gắn chặt với tấm phản ấy từ lúc mẹ bế về nhà đến giờ chưa một lần chuyển dịch. Ăn. Ngủ. Bài tiết. Ở đấy. Chỉ một tư thế, nằm ngửa, bụng sát vào lưng, đầu gối lộ rõ. Chỉ một tư thế, nhìn lên mái lều ám khói, không nói, không cười, không khóc được thành tiếng, dưới gào rú của bom đạn. Chỉ một tư thế, từ buổi chiều định mệnh trước khi mẹ đi chợ còn thơm lên trán và dặn mấy câu đến khi mẹ đã nằm dưới ba thước đất lạnh lẽo ngoài bãi cỏ.
Mẹ mất tròn sáu tháng. Tôi đi học về, vào ngõ thấy mùi hương thoang thoảng. Nhà có mấy người vào ra. Chiếc quan tài định dùng cho em tôi lần trước ai lại đem ra đặt giữa sân. Mấy dì tôi đang dùng khăn lau cho sạch. Tôi linh cảm điều chẳng lành đang đến với Hà. Tôi lao vào nhà. Trên tấm phản quen thuộc em nằm đó. Vẫn mỏng dính, xanh tái nhưng tuyệt nhiên không nghe tiếng khò khè nữa. Đôi mắt đen khép lại. Chiếc miệng xinh xinh không còn mở ra hớp khí. Con Hà đi với mạ con rồi, bà nội tôi nói trong nước mắt. Ly cháo vẫn còn để bên cạnh. Mấy bông hoa sim tím tôi hái vào cho em sáng qua vẫn còn, tuy đã héo rồi. Tôi nắm tay em. Lạnh ngắt. Bàn tay cũng mỏng tang như chực tan vào không khí.
Bà nội kể với mọi người: “Hôm qua tui thấy mạ hắn về, mạ hắn nhìn tui, nhìn con Hà nói, thôi mệ để cho cháu đi với con… tui tỉnh dậy nghe con Hà khóc, lần đầu tiên tui thấy cháu nó khóc thành tiếng, đôi mắt cháu nhìn tui như muốn nói điều chi đó, lạ lắm, ai dè chiều ni nó đi luôn”.
Nấm mộ nhỏ của em Hà ở bên cạnh mộ mẹ. Như một chiếc thúng úp xuống đất. Mấy anh em tôi thường hay ra đây thăm mẹ, chơi với em. Mùa sim chín tôi lên núi hái xuống mấy chùm quả đặt lên mộ em. Em chưa bao giờ ăn được thứ quả này, nhưng là trẻ con đứa nào chẳng thích nó, những trái sim chín mọng ấy. Tôi nghĩ, Hà vẫn là trẻ con, mãi mãi trẻ con. Tôi chưa bao giờ mơ thấy mẹ và em về nhà nhưng cái Liên, em gái tôi thì vẫn thấy. Liên kể, mẹ bồng Hà về nhưng chỉ đứng ngoài ngõ trông vào, mẹ gọi em ra, mà không nói chi cả chỉ thở dài, Hà đã nói được rồi anh ạ, nó gọi em chị Liên, chị Liên…
Có thật thế không, Hà đã về với mẹ và nói được như cái Liên em tôi kể? Đến bây giờ trong tôi vẫn còn day dứt câu hỏi đó.