Khi Tạp chí Văn nghệ Quân đội có ý định lấy tôi về làm biên tập viên, vợ tôi chẳng thích tí nào. Bằng chứng là Mai đã viết thư cho nhà thơ Vương Trọng kể lể hoàn cảnh gia đình và nói rõ nguyện vọng của mình là muốn tôi ở lại Quảng Trị. Thực ra, ở đây, công việc vợ chồng tôi ổn định, nhà cửa cũng tàm tạm rồi, các con học hành ngoan ngoãn. Biết vậy, nhưng ánh hào quang Nhà số 4 đã quá quyến rũ tôi và nói như anh Vương Trọng thì nên ra Hà Nội để tạo một địa chỉ thuận lợi sau này cho con cái. Tôi tìm cách thuyết phục, Mai nghe theo và hôm tiễn tôi ở ga Đông Hà chiều 8 tháng 3 năm 1997 vợ tôi vẫn cười nói như thường. Nhưng, đâu phải vậy, tuần sau tôi nhận được thư con gái thứ hai. Hòa Bình viết: Tiễn ba lên tàu xong mẹ về nhà nằm khóc thầm, con thương mẹ quá ba à!
Tháng 8 năm sau, Hòa Bình ra ở với tôi. Tôi xin cho con vào học lớp 8 trường Trung học cơ sở Thanh Quan. Lúc ấy, Hòa Bình mới 12 tuổi, hay mặc quần bò áo phông, tóc cắt ngắn nom như con trai.
Hai cha con tôi được bố trí một phòng tại Tạp chí, ăn ngủ làm việc trong 20 mét vuông ấy. Tôi làm cho con gái một chiếc chìa khóa cửa nhưng sợ nó quên nên phải luồn vào dây bắt đeo ở cổ. Đi học, đi chơi, thậm chí khi ăn khi ngủ con tôi đều đeo toòng teng nó, không tháo ra.
Hòa Bình ra Hà Nội được một tuần thì tôi được Tạp chí giao nhiệm vụ đưa anh em lớp bồi dưỡng viết văn đi thực tế ở Bộ đội Biên phòng Hà Giang. Công việc tập thể không thể từ chối nhưng để cho con gái đang lạ nước lạ cái ở nhà một mình tôi chẳng yên tâm chút nào.
Tôi bảo:
- Sáng mai ba đi công tác xa, con ở nhà một mình nhé.
- Dạ! - Hòa Bình gật đầu - Con tự nấu ăn hay răng ba?
- Con chịu khó đi ăn cơm bụi nhé, còn tối thì lên ngủ với chị Huyền con bác Khuất Quang Thụy.
- Dạ!
Tôi chợt nhớ ra:
- Ngày mai là trung thu rồi phải không con?
- Dạ, ngày mai là trung thu rồi đó ba.
- Thế thì, chiều ni ba với con ra Hàng Mã mua đồ, tối đón trung thu.
- Ồ, thích quá ba hè! - Hòa Bình reo lên.
Chưa đến trung thu mà phố Hàng Mã đã rực rỡ tưng bừng màu sắc trung thu. Đèn lồng, đèn ông sao, đèn cá chép, đèn con thỏ, trống bỏi, đồ chơi trẻ con bày la liệt. Hiện đại, dân gian, trong nước ngoài nước đủ cả. Tràn ngập ra cả vỉa hè, lối đi. Hai bố con đi ngắm đồ chơi. Hòa Bình thích lắm vì đây là lần đầu tiên biết chợ tết trung thu Hà Nội. Tôi mua cho con một chiếc đèn ông sao, một cái trống con, một con diều giấy. Tuy nhiên bánh trung thu, bưởi, hồng là không thể thiếu được.
Tối. Hai bố con đem chiếu lên sân thượng trải ra bày cỗ. Trời nhiều mây nên màu trăng bàng bạc, không sáng trong. Một bên con, một bên bố, ở giữa là mâm hoa quả, bánh kẹo. Nến thắp lên. Đèn ông sao lung linh. Tôi gõ trống tùng tùng. Hòa Bình cầm đèn ông sao giơ lên giơ xuống như đang đi rước trung thu với bạn ở xóm.
- Không biết mẹ đã mua đồ trung thu cho chị Sao với cu Minh chưa ba nhỉ? - Hòa Bình bất chợt hỏi.
Tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Dâng lên nỗi nhớ thương vợ và hai con Mai Sao, Hoàng Minh ở Quảng Trị.
- Chắc mua rồi. Năm nào mẹ cũng mua trước.
- Năm ni con không được đón trung thu với chị Sao, em Minh, bọn cu Trung, cu Mắm, cu Đái, cu Tiến, bé Phương, bé Thu… - Giọng con gái tôi ngùi ngùi.
- Ừ, đến Tết ba đưa con vô tha hồ chơi với mấy đứa trong xóm - Tôi nói lảng đi - Thôi, bây giờ ba con mình phá cỗ nghe.
- Phá cỗ ba hè! - Hòa Bình vỗ tay tán thưởng.
Bánh trung thu cắt ra nhưng cả tôi và con gái đều ăn không hào hứng. Tôi có cảm giác miếng bánh nghèn nghẹn ở cổ. Mới biết, không gì thay thế được sự đoàn tụ gia đình. Bữa ăn ngon nhất là bữa ăn sum họp người thân.
Sáng mai. Tôi lên xe đi công tác. Dọc đường, thấy đèn ông sao, đèn cá chép... lại bồi hồi nhớ con, đứa ở quê, đứa ở Hà Nội một mình. Nỗi buồn nhớ ấy cứ nao nao trong tôi suốt dọc đường đi cho tới đêm khuya khi đứng ở Đồn Biên phòng Bạch Đích đóng trên núi cao tám trăm mét ngắm trăng thu vời vợi. Bây giờ, Hòa Bình đã ngủ hay đi chơi trung thu với chị Huyền? Ba đi công tác xa, ở nhà một mình nhớ mẹ, nhớ chị Sao, em Minh, nhớ bọn trẻ trong xóm có khóc không? Năm nào bọn trẻ trong xóm cũng múa lân đi đến các nhà xin tiền, vui lắm. Cỗ trung thu hằng năm mẹ lo thật chu đáo, nào bánh kẹo, nào trái cây, ê hề chén không hết. Mai Sao, cu Minh năm nay đón trung thu thế nào? Vắng Hòa Bình chắc chị em chúng và bọn trẻ trong xóm nhắc nhiều lắm? Bao nhiêu câu hỏi hiện lên trong tôi. Lòng bâng khuâng thương nhớ tôi thầm ước một ngày rất gần trong ánh rằm tháng tám vàng rượi, cả nhà quây quần quanh cỗ trung thu. Thế mà, điều tôi không ngờ tới là ước mơ bình dị ấy phải bảy năm sau tôi mới thực hiện được.
Mười ngày sau tôi mới về Hà Nội. Đứng trước cửa phòng, nhìn qua cửa kính thấy Hòa Bình đang ngồi học bài. Khuôn mặt trái xoan nhẹ nhõm, cái đầu tóc ngắn nghiêng nghiêng. Chiếc chìa khóa đeo toòng teng ở cổ bắt đèn sáng lấp lánh. Con gái! Rung lên trong tôi tiếng gọi thân thương. Nước mắt ứa ra lúc nào không biết…
Mùa hoa thầu đâu nở
Về quê lần này tôi hơi ngạc nhiên khi thấy dân quê mình vẫn còn trồng nhiều cây thầu đâu đến thế. Thầu đâu chẳng phải là loại cây gì lạ mà nó chính là cây xoan, cây sầu đông theo cách gọi của dân làng tôi.
Thầu đâu mọc ở góc vườn, bên đường, bến sông hay giữa đồng không mông quạnh. Nó là thứ cây không kén đất, dễ trồng dễ lớn, chỉ hơi buồn là suốt ba tháng mùa đông tương tư nỗi gì mà rụng trụi lá chỉ còn những cành nhánh khẳng khiu in lên nền trời ẩm ướt. Thế mà, chỉ sau Nguyên tiêu mươi ngày những cây thầu đâu đã xum xuê lá hoa. Từng chùm, từng chùm hoa mọc chi chít bên nhau tạo thành một vầng mây màu tím nhạt. Hoa thầu đâu thơm dịu, khẽ khàng chứ chẳng nồng gắt như hoa sữa.
Tôi có cảm nhận thầu đâu ở quê tôi như cây gạo ở ngoài Bắc. Nó có thể mọc ở khắp nơi nhưng lại mang hồn thôn dã nhiều hơn cả. Thầu đâu giữ kỷ niệm cho những mảnh vườn quê trong hương hoa lành lặn, chân mộc của mình cũng như cây gạo bằng sắc hoa đỏ thắm thường gợi nhắc tới cũ xưa châu thổ Hồng Hà phì nhiêu.
Đang độ Giêng Hai, khi cây gạo đang còn chờ đom đóm bay ra để nở hoa thì thầu đâu quê tôi đã lâng lâng thơm khắp nẻo. Chẳng thể nhận ra những cành cây khô mốc khiu khẳng hôm nào nữa, thầu đâu tràn trề lá hoa; lá xanh nõn, hoa tím nhẹ làm xôn xao người xa xứ về quê. Tôi nghe lại dĩ vãng của mình trong tiếng hoa thủ thỉ bay ra từ những góc vườn. Hình như, đêm càng sâu thì tiếng hoa càng tỏ, âm sắc hương vị quê nhà thấm nhập vào tôi tự nhiên như hồi còn thơ bé. Một câu lục bát bật dậy trong đầu:
Quê nhà một chốn Giêng Hai
Hoa thầu đâu tím như ai đã từng...
Ai đã từng tím với hoa thầu đâu nhỉ? Cô bé láng giềng tuổi Kỷ Hợi chăng? Hiện rõ trước mắt tôi một đám cưới con nít bày toàn hoa miền cát, thầu đâu tím, tía tô đỏ, tứ quý hồng. Tôi làm chú rể, em là cô dâu ríu rít bên nhau như hai con chim sẻ mà dân làng tôi gọi là chim rặt rặt. Trong mùi hoa thầu đâu thơm ngọt cặp vợ chồng trẻ con ôm nhau nằm trên cỏ mặc lũ kiến hôi chạy lăng xăng quanh đó. Trên đầu chúng tôi là một đám mây màu tím lao xao. Cơn gió đi qua, mấy cánh hoa thầu đâu bé bỏng rụng xuống chiếc giường cỏ của tôi và em. Chao ôi, sao mà nhớ thế!
Đêm qua, tôi đến ngõ nhà em. Một ngôi nhà ba tầng lừng lững. Tấm biển quán “Tình quê” được kẻ khá điệu đà treo trước cổng. Người ta nói rằng quê mình bây giờ được mệnh danh là “Hồng Kông” của tỉnh và quán ka-ra-ô-kê do em làm chủ hút nhiều khách lắm. Thời buổi kinh tế thị trường, nhiều ngành nghề mới bung ra, món gì càng gắn với sự sung sướng của con người càng được chú ý. Càng hái được nhiều tiền người ta càng thích ăn uống chơi bời. Cũng là lẽ thường tình của cuộc sống thôi mà. Một chút buồn se se lan nhẹ trong lòng để nhớ thêm cái thời hàn vi trong trẻo, cơm độn áo vá mà tâm hồn đầy hoa cỏ bâng lâng. Thôi, cứ để những kỷ niệm đẹp ngủ yên ở một góc lòng như em bây chừ dẫu là ai, dù thế nào tôi vẫn yêu cái nhu nhú của đôi núm vú chũm cau thời hạt mưa rào theo chiếc bẹ chuối chảy róc róc vào chum nước đầu hồi nhà mạ với câu ru buồn buồn cất lên từ cánh võng đay:
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu keng bôông bín, nấu chè đậu đen...