1.1. Về những thứ trong tầm kiểm soát và ngoài tầm quyền soát
[1] Khi suy xét tất cả các phạm trù nghệ thuật và năng lực, các anh sẽ nhận ra không có phạm trù nào có thể tự nhận thức được chính nó, cho nên không phạm trù nào có thể chấp thuận hoặc phản đối hành động của chính mình. [2] Ví như trường hợp năng lực văn phạm, nó có thể nhận thức được tới đâu? Chỉ có thể đến mức để nhận ra những cách diễn đạt. Còn năng lực âm nhạc thì sao? Họa may chỉ đến mức phân biệt được giai điệu. [3] Có năng lực nào nêu trên tự biến mình thành đối tượng tìm hiểu không? Không hề. Nếu các anh viết thư cho bạn mình, khi các anh muốn biết từ nào cần viết thì năng lực văn phạm sẽ nói cho anh biết, nhưng còn vấn đề liệu có nên viết cho bạn của mình hay không thì văn phạm không thể trả lời cho các anh được. Và tương tự, âm nhạc sẽ cho anh biết những giai điệu; nhưng còn chuyện lúc này các anh có nên hát và chơi đàn lia hay không thì nó chẳng thể nào nói cho các anh biết đặng. [4] Vậy thứ gì sẽ nói cho các anh biết đây? Đó phải là thứ năng lực có thể suy xét được chính nó và mọi thứ khác. Nó là gì? Chính là trí năng. Bởi vì, trong tất cả những năng lực ta được ban cho, chỉ năng lực này mới có thể thấu triệt được bản chất của chính nó — nói một cách cụ thể, nó biết được nó là gì, nó có thể làm gì, và nó đem lại cho ta những khả năng quý giá nào — đồng thời thấu hiểu được tất cả những năng lực khác. [5] Bởi vì còn thứ gì khác có thể cho chúng ta biết về vẻ đẹp của vàng? Bản thân vàng không nói cho chúng ta điều đó. Rõ ràng đó chính là khả năng giúp ta phân định những niệm tưởng của ta. [6] Còn thứ gì khác có thể đánh giá được những năng lực âm nhạc, ngữ pháp và những năng lực nghệ thuật, khoa học khác, chiêm nghiệm công dụng của chúng và xác định đúng thời điểm cho phát huy công dụng đó? Chỉ có trí năng chứ không có thứ nào khác.
[7] Thế thì, những vị thần đã đặt vào tay chúng ta thứ phẩm vật tuyệt vời và tối thắng hơn tất cả, cái năng lực thống lĩnh tất cả những năng lực khác, cái quyền năng để xử trị những niệm tưởng của mình; vậy nhưng tất cả mọi thứ khác các ngài không trao cho chúng ta. [8] Các ngài không muốn làm vậy chăng? Đối với ta, ta nghĩ rằng nếu có thể, hẳn các ngài đã tin tưởng trao cho chúng ta tất cả những quyền năng khác, nhưng đó lại là điều mà họ không thể. [9] Vì xét trên sự thực rằng chúng ta là những kẻ bị giam hãm trong một thân xác trần tục, sống giữa vô vàn những kẻ phàm phu khác, vậy thì làm sao chúng ta có thể tránh khỏi sự đọa đầy bởi những ngoại cảnh kia?
[10] Nhưng thần Zeus* nói gì về điều đó? “Epictetus, nếu có thể, ta đã làm cho cơ thể và những gì thuộc sở hữu của ngươi (những thứ hèn mọn mà ngươi cho là trân quý) được tự do và không còn giới hạn. [11] Nhưng cũng giống như mọi thứ khác, đừng bao giờ quên rằng cơ thể này không phải của ngươi, vả chăng chỉ là một tạo vật khéo léo từ đất sét. [12] Nhưng vì ta không thể làm cho ngươi được điều đó, ta đã ban cho ngươi một phần của chính ta, chính là khả năng kiểm soát hành động hay không hành động, cái thích và cái không thích, nói cách khác chính là khả năng xoay chuyển niệm tưởng của ngươi để dùng cho mục đích đúng đắn. Nếu ngươi đặt tâm trí vào điều này, và phó thác vấn đề của ngươi cho nó, ngươi sẽ không bao giờ phải phiền não vì những chướng ngại bên ngoài, ngươi sẽ không cần Quyển 1 ca thán, ngươi sẽ không đổ lỗi cho tha nhân, ngươi sẽ không còn phải bợ đỡ kẻ nào cả. [13] Những thứ này có hèn mọn trong mắt ngươi chăng?” Lạy trời không bao giờ! “Vậy ngươi đã toại ý rồi chăng?” Con khẩn cầu phước lành từ thần linh.
[14] Nhưng một điều thường xảy ra đó là mặc dù chúng ta có khả năng để chú tâm và cống hiến cho một thứ duy nhất, chúng ta lại thích chú tâm và bị ràng buộc với nhiều thứ — xác thân ta, tài sản, anh em, bạn bè, con cái và nô lệ của ta. [15] Và vì bị ràng buộc như vậy với nhiều thứ, chúng ta bị chúng đè nặng và ngăn trở. [16] Đó là lý do khi thời tiết tệ hại cho việc ra khơi, chúng ta đứng ngồi không yên, đảo mắt nhìn quanh và hỏi: “Ngọn gió nào đang thổi vậy?” Gió bắc. Đó có phải việc của ta không? “Khi nào gió tây thổi?” Nó thổi khi nào nó muốn, bạn hữu của tôi ạ, hay khi nào Aeolus quyết định như vậy. Bởi vì Thần linh đã phong cho Aeolus quyền làm chủ những cơn gió chứ chớ phải anh. [17] Vậy thì sao? Chúng ta phải tận dụng tất cả những thứ trong tầm quyền soát của ta, và xử trí với những thứ còn lại theo đúng tính chất tự nhiên của nó. “Vậy ‘tự nhiên’ ở đây là gì?” Theo ý chí của Thần linh.
[18] “Sao cơ? Nếu như giờ con bị chặt đầu, chẳng lẽ phải chịu đựng một mình sao?”
Thì đã sao? Hay anh muốn tất cả đều bị bêu đầu để anh thấy được an ủi? [19] Anh có sẵn sàng chìa cổ ra như Laternus* đã làm ở La Mã khi Nero ra lệnh chặt đầu ông? Ông đã chìa cổ ra đón nhận lưỡi đao và khi cú chém quá yếu để kết liễu, ông rụt lại một chút rồi lại chìa cổ đón nhát chém tiếp theo. [20] Và hơn nữa, trước đó, khi Epaphroditus* đến và hỏi ông nguyên nhân mối bất hòa với hoàng đế là gì, ông đã trả lời: “Nếu ta bận tâm đến việc nói ra, ta sẽ nói với chủ nhân của ngươi.”
[21] Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị gì để trợ giúp bản thân trong những tình huống khẩn cấp như vậy? Chắc hẳn là điều này: anh ta phải tự vấn bản thân điều gì là của ta và điều gì không phải của ta? Điều gì ta có thể làm và điều gì ta không thể làm? [22] Ta phải chết; thế thì ta có phải chết trong than khóc hay không? Ta phải bị giam cầm; thế thì ta có phải rên rỉ hay không? Ta phải bị đi đày; thế thì có kẻ nào cấm ta bước đi với một nụ cười, với một lòng quả cảm và sự thanh thản hay chăng? “Nói cho ta nghe bí mật của ngươi đi!” [23] Ta từ chối mở miệng, vì điều đó nằm trong tầm kiểm soát của ta. “Nhưng ta sẽ xích ngươi lại.” Ông nói gì, người kia? Xích ta lại? Chân của ta ông có thể xích — đúng vậy, nhưng ý chí định đoạt của ta — không đời nào, ngay cả Thần Zeus cũng không thể khuất phục nó được. [24] “Ta sẽ tống ngươi vào tù.” Ý ông là tống xác thân khốn khổ này của ta vào tù? “Ta sẽ chặt đầu ngươi.” Thì sao nào? Có bao giờ ta nói với ông rằng ta làm người duy nhất trên đời không thể bị chặt đầu không? [25] Đây là những ý nghĩ mà những người theo đuổi triết học nên chiêm nghiệm, đây là những bài học mà họ phải chép lại hằng ngày, đây là những điều họ phải tự thân rèn luyện.
[26] Thrasea* từng quen nói rằng: “Ta thà bị giết hôm nay còn hơn bị đi đày vào ngày mai”. [27] Thầy Rufus* đã đáp lại thế nào? “Nếu anh chọn cái chết như một sự trừng phạt nặng nề hơn, thì đó quả là một lựa chọn ngu ngốc; nếu anh chọn điều đó là con đường dễ dàng hơn, ai đã ban cho anh lựa chọn đó? Anh không sẵn sàng bằng lòng với những điều được ban cho anh sao?”
[28] Thế còn câu mà Agrippninus* từng nói: “Ta sẽ không là người tự cản bước chân mình!” có ý nghĩa gì? Một ngày nọ, tin tức truyền đến tai ông rằng “Bản án của ông đang được Viện Nguyên lão quyết định!”
[29] — “Ta hy vọng mọi thứ sẽ tốt đẹp, nhưng đã đến năm giờ rồi” — đó là thời điểm ông thường tập thể dục và tắm nước lạnh— “ta đi tập thể dục nào.” [30] Khi ông tập xong, có người đến và nói với ông rằng: — “Ông đã bị kết án rồi.”— “Đi đày hay tử hình?” Ông hỏi.— “Đi đày.” — “Còn tài sản của ta?”— “Không bị tịch thu.”— “Vậy thì đến Aricia và ăn tối ở đấy thôi.” [31] Ở đây anh thấy được ý nghĩa của việc tự rèn luyện những lĩnh vực mà một người cần phải tự rèn luyện, đến độ chí hướng không thể sụp đổ và ý muốn kiêng dè không hề bị ảnh hưởng bởi những điều họ muốn tránh. [32] Ta phải chết. Nếu phải chết bây giờ, ta sẵn sàng chết, nếu chưa, ta sẽ ăn tối bởi vì đã đến giờ ăn tối, và sau đó khi thời khắc đã điểm, ta sẽ chết. Và chết như thế nào? Như một người trả lại những thứ vốn không thuộc về anh ta.
1.2. Làm sao một người có thể bảo toàn được phẩm hạnh của mình trong mọi hoàn cảnh
[1] Đối với một giống loài có lý trí, chỉ có những điều đi ngược lại với tự nhiên mới là không thể chịu đựng, còn bất cứ thứ gì hợp lý đều có thể chịu đựng như thường. [2] Như đòn roi về bản chất không phải thứ không thể chịu đựng. — “Tại sao lại như vậy?” — Hãy nhìn theo hướng này: Những người Sparta sẽ nằm im chịu phép khi bị đánh bởi họ tự nhủ rằng đó là một hình phạt thích đáng. [3] — “Nhưng bị treo cổ thì sao, chẳng phải là quá sức chịu đựng ư?”— Khi một người cảm thấy điều đó hợp lý, anh ta sẽ bước lên giá treo và tự treo cổ chính mình. [4] Nói tóm lại, nếu nhìn nhận với sự cẩn trọng thích đáng, chúng ta sẽ nhận ra rằng không có thứ gì làm cho một sinh vật có lý trí đau khổ hơn là phải làm trái với lẽ thường, và ngược lại, không có thứ gì nhiếp phục anh ta mạnh hơn lẽ phải.
[5] Nhưng ý tưởng về lẽ phải và điều trái là không giống nhau đối với những người khác nhau, cũng như thiện và ác, lợi và hại. [6] Trên tất cả, đó chính là lý do mà chúng ta cần tới giáo dục, để ta có thể áp dụng quan niệm riêng của mình về việc điều gì là hợp lý và bất hợp lý trong từng trường hợp cụ thể theo một cách tự nhiên. [7] Bây giờ, để xác định được điều gì là hợp lý hay bất hợp lý, chúng ta không chỉ cần phải hình thành tư tưởng về giá trị những thứ bên ngoài, mà còn phải đánh giá vai trò của chúng trong mối liên hệ với tính cách của từng người. [8] Vì vậy việc phải đứng bưng chậu xú uế1 cho người khác là hợp lý đối với người này khi xét trên khía cạnh rằng nếu không làm như vậy, anh ta sẽ bị đánh đập và bỏ đói, nhưng sẽ không phải chịu bất cứ sự cay nghiệt hay hình phạt đau đớn nào nếu anh ta chịu làm như vậy; [9] trong khi đó, đối với người nọ, việc phải bưng chậu xú uế cho kẻ khác không chỉ là không thể chấp nhận được, mà cả việc bắt người khác bưng chậu xú uế cho mình cũng vậy. [10] Nếu anh hỏi ta: “Vậy trò có nên bưng chậu xú uế hay không?” ta sẽ đáp rằng việc có được thức ăn là điều giá trị hơn việc không có thức ăn, và việc không bị đánh tốt hơn việc bị đánh, cho nên nếu anh cân nhắc những lợi ích của mình dựa trên những tiêu chuẩn này, anh nên đi bưng chậu xú uế thì hơn. [11] “Đúng, nhưng điều đó thấp kém hơn con người của trò.” Trách nhiệm cân nhắc sâu xa hơn là của anh chứ chẳng phải ta, vì anh mới là người biết rõ bản thân và biết giá trị mà anh tự gán cho mình, cũng như cái giá mà anh sẵn sàng bán thân; vì mỗi người đều bán bản thân ở những mức giá khác nhau.
1 Công việc hạ tiện nhất theo quan niệm của người Hy Lạp.
[12] Đó là lý do tại sao khi Florus* đắn đo liệu có nên tham gia buổi biểu diễn của Nero và diễn vài đoạn hay không, Agrippinus* đã nói với anh ta rằng: “Đi đi!”; [13] và khi Florus hỏi lại: “Tại sao ông không đi?”, ông đáp: “Bởi vì tôi chưa một giây nào nghĩ về điều đó.” [14] Bởi vì rằng ngay khoảnh khắc con người ta bắt đầu đắn đo về những câu hỏi như vậy, cân đo và so sánh giá trị của những thứ bên ngoài, anh ta đã gần chạm tới ngưỡng trở thành loại người đánh mất tất cả nhận thức về phẩm hạnh của họ. [15] Anh còn hỏi gì ta nữa? “Sự sống hay cái chết đáng trọng hơn?” Ta trả lời: Sự sống. [16] “Khổ đau hay khoái lạc?” Ta trả lời: Khoái lạc. “Nhưng nếu không chịu đóng vai trong vở bi kịch đó, tôi sẽ phải rơi đầu.” [17] Vậy thì đi mà đóng vai của anh đi, ta sẽ không tham gia đâu. “Tại sao?” Bởi vì anh chỉ coi bản thân là một sợi chỉ trong muôn vàn những sợi chỉ khác của chiếc áo mà thôi. “Thế thì sao?” Thế thì việc của anh là nên suy nghĩ xem làm thế nào để giống với những kẻ khác, cũng như một sợi chỉ bình thường không muốn khác biệt so với những sợi khác. [18] Nhưng về phần ta, ta muốn làm màu tím*, làm một dải băng nhỏ lấp lánh tôn lên vẻ kiều diễm và lộng lẫy cho phần còn lại của chiếc áo. Vậy tại sao anh lại nói ta phải “giống những thứ khác”? Nếu ta làm như anh nói, làm sao ta có thể giữ được sắc tía kia?
[19] Helvidius Priscus* cũng đã nhìn ra điều này, và một khi đã thấu triệt, ông biến nó thành hành động. Khi Hoàng đế Vespasian gửi lời cho ông rằng chớ có đến tham dự cuộc họp của Viện Nguyên lão, ông đã trả lời: “Ngài có quyền tước đoạt vị trí nguyên lão của thần, nhưng chừng nào thần còn ngồi ở vị trí này, trách nhiệm của thần là phải tham dự những cuộc họp” [20] — “Nếu ngươi vẫn đến tham dự thì ngậm miệng lại là được” — “Nếu ngài không hỏi ý kiến của thần, thần sẽ ngậm kín miệng” — “Nhưng ta buộc phải hỏi đến ngươi” — “Vậy thì trách nhiệm của thần là trả lời theo như cách thần cho là đúng” [21] — “Nhưng nếu ngươi làm như vậy, ta sẽ xử tử ngươi” — “Đành vậy, thần có bao giờ nói với ngài là thần bất tử chưa? Ngài làm đúng vai trò của ngài, và thần làm đúng vai trò của thần. Vai trò của ngài là xử tử thần, và vai trò của thần là chết mà không run sợ; vai trò của ngài là cho thần đi đày, và của thần là ra đi mà không nao núng.”
[22] Anh hỏi rằng Priscus làm vậy để được gì, trong khi ông ta chỉ là một cá nhân nhỏ bé? Và chút mảng màu tím kia thì cống hiến được gì cho cả bộ áo cơ chứ? Còn gì lớn lao hơn việc nổi bật lên khi là màu tím đặc trưng, và tồn tại như một tấm gương cho tất cả phần khác noi theo? [23] Nếu là một kẻ khác, khi nhận được lời đánh tiếng của Caesar hãy tránh xa Viện Nguyên lão trong những trường hợp như vậy, anh ta sẽ trả lời: “Đội ơn bệ hạ đã miễn xá cho thần.” [24] Nhưng với một người như vậy thì Caesar cũng chẳng cần phải nhọc công để ngăn cản hắn ta đến Viện Nguyên lão làm gì, vì biết rằng kẻ đó cũng sẽ ngồi im như tượng, hay nếu phát biểu thì hắn ta cũng sẽ chỉ nói những thứ Caesar muốn hắn phải nói, và còn hàng tá lý do như thế nữa.
[25] Một vận động viên nào đó cũng đã hành xử theo cách này, khi anh ta đứng trước mối họa diệt thân nếu tinh hoàn* của anh ta không được cắt đi. Một người anh của anh ta (một triết gia) đến và nói rằng: “Này người anh em, em định làm gì? Chẳng phải ta chỉ cần cắt phần đó của em đi và đến phòng tập như bình thường sao?” Nhưng vận động viên đó không chấp nhận như vậy, anh ta đã quyết tâm làm ngược lại và bỏ mạng. [26] Khi ai đó hỏi: “Anh ta làm việc đó như thế nào? Trên quan điểm của một vận động viên hay một triết gia?”, Epictetus đã trả lời: Trên quan điểm của một người đàn ông, và một người được tuyên bố là nhà vô địch tại Olympia, đã chiến đấu để bảo vệ danh hiệu của mình, đã dành cả cuộc đời của mình ở những nơi như vậy, thay vì để dầu làm hoen ố mình nơi thao trường của Baton1. [27] Vậy mà có kẻ sẽ lại sẵn sàng để đầu mình bị chặt xuống nếu hắn giữ lại được cái mạng hèn đó mà không cần đầu. [28] Đây chính là ý nghĩa của việc hành xử đúng với tính cách của một người, và chính là sức mạnh mà sự suy xét này đem lại cho những người có thói quen vận dụng nó vào trong mọi vấn đề xảy đến. [29] “Đến đây nào Epictetus, cạo râu* của ngươi thôi2.” Nếu là một triết gia, ta sẽ trả lời: Ta sẽ không cạo nó đi đâu. “Vậy thì để ta chặt đầu ngươi.” Nếu điều đó làm ông hài lòng thì hãy lấy đầu tôi đi.
1 Baton được bầu làm người giám sát thao trường trong thời của Hoàng đế Marcus Aurelius.
2 Bộ râu thường thấy ở những người Hy Lạp và không thông dụng ở La Mã, những người để râu thường được cho là triết gia từ thế kỷ 2 trước Công nguyên. Hoàng đế Domitian có ác cảm với giới triết gia và bắt tất cả đi đày. Một số họ, để che giấu thân phận, đã cạo đi bộ râu của mình. Epictetus từ chối làm điều đó.[30] Ai đó đã hỏi: “Vậy làm sao mỗi chúng ta nhận ra được điều gì là thích hợp với tính cách của mình?” Epictetus đáp, làm sao khi một con sư tử tấn công, một con bò mộng có thể ý thức được sự hùng mạnh của nó mà đứng ra che chở cho đàn của mình? Chẳng phải một điều rất rõ ràng là việc sở hữu sức mạnh phải được hậu thuẫn bằng ý thức về sức mạnh đó hay sao? [31] Và tương tự trong trường hợp của chúng ta, nếu ai đó sở hữu sức mạnh như vậy, anh ta sẽ không thể không ý thức được nó. [32] Và tuy vậy, một con bò mộng không trở thành một con bò mộng trong chốc lát, cũng giống như việc một người đạt được sự cao thượng của tâm hồn vậy; không, anh ta phải trải qua tôi luyện trong mùa đông khắc nghiệt, qua đó làm cho bản thân luôn sẵn sàng, thay vì cắm đầu lao đến những thứ không phù hợp với anh ta mà không hề cân nhắc thiệt hơn.
[33] Chỉ xin cảnh báo một điều rằng, hãy suy xét về cái giá mà anh sẵn sàng bán quyền năng ý chí tự do của mình. Nếu không vì lý do đặc biệt nào đó, hãy chắc chắn rằng anh không bán nó với giá quá rẻ mạt. Nhưng có lẽ những điều vĩ đại và phi thường thuộc sở hữu của những con người khác, của Socrates* và những bậc thượng nhân giống như ông.
[34] “Vậy nếu cách hành xử đó là phù hợp với bản chất tự nhiên của chúng ta, tại sao không có nhiều người làm như thế?”
Có phải con ngựa nào sinh ra cũng là thiên lý mã, con chó nào cũng thính với mọi mùi hương? [35] Đã đành là vậy, nhưng chỉ bởi vì ta vốn không phải thiên tài bẩm sinh, ta có nên buông xuôi tất cả nỗ lực phát huy tốt nhất khả năng của mình chăng? Thần linh ơi không đời nào! [36] Epictetus này sẽ vĩnh viễn không thể vượt qua được Socrates; nhưng chỉ cần không quá thua kém* ông ấy cũng đủ cho ta rồi. [37] Ta cũng không thể trở thành đại lực sĩ Milo*, nhưng ta cũng không bỏ bê cơ thể của mình; ta không phải là Vua Croesus, nhưng cũng không bỏ bê tài sản của mình; ta cũng sẽ không ngừng nỗ lực trong bất kỳ lĩnh vực nào chỉ bởi vì nỗi thất vọng khi không thể đạt đến tột đỉnh của sự hoàn hảo.
1.3. Chúng ta rút ra được gì từ sự thật rằng Thiên chủ là Đấng Cha lành của loài người
[1] Giá như một người có thể hoàn toàn tin tưởng vào sự thật này, rằng chúng ta là những đứa con quan trọng bậc nhất của Thiên chủ*, và Thiên chủ chính là Đấng Cha lành của cả người trần và thần linh, thì ta cho rằng kẻ đó sẽ không dung túng cho những suy nghĩ xấu xa hay hạ tiện nào về bản thân mình. [2] Ví như Caesar nhận nuôi anh, sẽ không có ai chịu nổi tính tự cao tự đại của anh; vậy tại sao khi anh biết mình là đứa con của Đấng Cha Trời mà anh lại không tràn đầy cảm giác kiêu hãnh cơ chứ? [3] Tuy nhiên, hiện tại chúng ta không cư xử như vậy, nhưng vì trong sự cấu thành của chúng ta có hai yếu tố* được trộn lẫn với nhau, xác thân này, chúng ta giống với động vật, còn lý trí và trí tuệ, chúng ta giống với những vị thần, một số người chúng ta nghiêng về phía bản tính xấu xa và trần tục, và chỉ một số ít trong chúng ta hướng về điều thần thánh và thiêng liêng. [4] Bởi vì tất cả mọi người, bất luận họ là ai, đều phải đối mặt với từng vấn đề dựa trên niềm tin của anh ta về vấn đề đó, số ít người nghĩ rằng họ sinh ra vì lòng trung thành, vì lòng tự trọng, và để phát huy đúng những niệm tưởng của mình, những người đó sẽ không dung dưỡng bất kỳ suy nghĩ xấu xa, thấp kém nào về bản thân, trong khi đó, số đông con người sẽ làm điều ngược lại, họ nói: [5] “Vốn dĩ ta có là gì đâu chứ? Một con người thấp kém đáng thương”, hoặc “Cái xác thịt khốn khổ này của ta.” [6] Khốn khổ, không sai, nhưng anh vẫn còn có thứ cao hơn xác thịt đáng thương của mình cơ mà. Cớ sao anh lại thờ ơ với điều đó, và rồi trói buộc bản thân vào những điều trần tục?
[7] Cũng bởi vì có mối thâm tình máu mủ với thể xác này nên một số kẻ trong chúng ta mới phải quỵ lụy trước nó để trở thành giống lang sói, giống loài phản trắc, tham lam, tai hại; hay như loài sư tử, hoang dại, hung tàn và bất trị; hoặc giả như loài cáo chồn, hay thứ gì thấp kém và đê hèn hơn thế. [8] Vì lẽ làm gì có giống loài nào lươn lẹo và hiểm độc hơn cáo, hay những loại vật quỷ quyệt và ranh ma hơn thế. [9] Chi bằng hãy coi chừng và bảo trọng kẻo một ngày anh sẽ trở thành một trong những giống loài như vậy lúc nào không hay!
1.4. Bàn về sự tiến bộ
[1] Người đạt được sự tiến bộ — người đã học được từ những triết gia rằng chí hướng của ta phải luôn hướng về những thứ tốt đẹp và chán ghét những thứ xấu xa, và cũng hiểu được rằng sự tự do và thanh thản chỉ có thể đạt được bởi người không nản lòng với những chí hướng của mình, cũng không rơi vào điều anh ta muốn tránh né — người như vậy rút hết mọi mưu cầu của mình* ra khỏi tâm trí, tạm thời gác chúng sang một bên, và chỉ có cảm giác chán ghét đối với những thứ nằm trong phạm vi ý chí định đoạt1 của mình. [2] Bởi vì nếu anh ta cố né tránh những thứ nằm ngoài ý chí định đoạt của mình, cho dù anh ta có chán ghét chúng như thế nào đi nữa, một ngày kia anh ta cũng phải sẽ vấp phải chúng, và tự khổ phạt lấy mình. [3] Về phần đạo đức, nếu đạo đức hứa hẹn cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc, sự thanh thản và tự do khỏi tham muốn, vậy thì tiến bộ về mặt đạo đức cũng chính là đang tiến dần lên những điều tốt đẹp này. Bởi vì một điều không thể sai khác là [4] cho dù sự hoàn thiện có dẫn dắt chúng ta đi đến đoạn kết nào đi nữa, sự tiến bộ chính là một con đường đưa ta đến với mục đích này.
1 Phạm vi định đoạt của ý chí (Sphere of Choice) chính là vùng mà con người có toàn quyền quyết định, tức là chỉ tồn tại trong tâm thức mỗi người. Đối với ngoại cảnh và sự kiện bên ngoài, con người không thể kiểm soát được hoàn toàn. Thuật ngữ này được sử dụng rất nhiều trong Chủ nghĩa Khắc kỷ.
[5] Bằng như mọi người đã đồng ý rằng đạo đức là thứ giống như ta đã nói, sao còn truy tầm và phát huy sự tiến bộ ở nơi khác? Đạo đức có thể đem đến cho ta điều gì? Sự bình thản. [6] Vậy ai là kẻ đang tiến bộ? Phải chăng là những người đọc nhiều luận thuyết của Chrysippus*? [7] Nếu là như vậy, phải chăng đạo đức chẳng bao hàm điều gì ngoài việc phải hiểu tư tưởng của Chrysippus? [8] Tuy là vậy, nhưng mặc dù đã đồng ý rằng đức hạnh đưa chúng ta đến một mục tiêu cứu cánh (Sự bình thản trong tâm hồn), chúng ta vẫn tuyên bố rằng con đường dẫn tới đức hạnh, cụ thể là sự tiến bộ, lại tạo ra một kết quả khác. [9] Ai đó nói rằng: “Anh chàng kia đã có thể tự mình đọc Chrysippus cơ đấy.” Thần linh ơi, quả là một tiến bộ vượt bực làm sao! [10] Còn anh, cớ sao anh lại châm biếm anh ta? Cớ sao anh lại làm anh ta không thể nhận ra sai lầm của chính mình? Anh có sẵn lòng chỉ cho anh ta thấy đức hạnh có thể giúp chúng ta thành tựu được gì, để anh ta có thể biết nên tìm sự tiến bộ ở đâu không? Hãy đi tìm đi hỡi con người tội nghiệp, tìm đúng nơi anh phải đặt nỗ lực của mình. Và đó là ở đâu? [11] Ở chí hướng và những điều chán ghét, để anh không thất bại trong việc hoàn thành chí hướng của mình, cũng không sụt nhào vào những điều anh muốn tránh xa; ở động lực để hành động hoặc không hành động, để anh không mắc phải sai lầm; ở sự tán đồng và từ chối, để anh không bị lầm lạc. [12] Hai điều đầu tiên là những điều quan trọng và căn bản nhất. Nhưng nếu các anh vẫn còn sợ hãi và run rẩy trong khi tìm cách để không sụt nhào vào thứ anh muốn né tránh, hãy nói cho ta biết các anh tiến bộ ở chỗ nào?
[13] Hãy đến đây và cho ta thấy anh đã tiến bộ tới đâu trong những điều ta vừa nói. Giả sử như ta đang nói chuyện với một vận động viên và nói rằng: Cho ta thấy đôi vai của anh, và anh ta đáp: “Nhìn những quả tạ* của tôi đây.” Ta đã thấy anh và quả tạ của anh rồi! Điều ta muốn thấy đó là anh đạt được gì sau khi dùng những quả tạ đó kìa. [14] “Cứ lấy luận thuyết On Motivation (Bàn về động lực) và xem trò đã đọc nó kỹ như thế nào.” Đó không phải là điều ta muốn biết, chàng nô lệ à, ta muốn biết cách anh vận dụng những động lực của mình để hành động và kiềm chế hành động, cách anh xử lý những sự yêu ghét của mình, và cách anh tiếp cận tất cả điều này, cách anh dốc lòng vào đó, chuẩn bị cho điều đó, và suy xét xem có hài hòa với lẽ tự nhiên hay chưa. [15] Nếu đã hài hòa, hãy cho ta thấy bằng chứng, và ta sẽ nói cho anh biết anh có đang tiến bộ hay không; nếu không hợp với lẽ tự nhiên, hãy đi đi và đừng có đơn thuần bằng lòng với việc diễn giải những quyển sách kia, mà hãy tự viết những quyển sách cho chính mình đi. Điều đó thì có lợi gì cho anh cơ chứ? [16] Anh có biết rằng một quyển sách chỉ đáng giá năm đồng denarii*? Vậy anh cho rằng người nào hiểu được nó lại đáng giá hơn năm đồng denarii ư? [17] Đừng bao giờ đặt nỗ lực của mình một đằng và trông chờ sự tiến bộ một nẻo.
[18] Vậy ta tìm thấy sự tiến bộ ở đâu? Nếu bất kỳ ai trong các anh ngoảnh mặt với những thứ bên ngoài để quay vào tập trung mọi nguồn lực cho tâm ý bên trong, để tôi luyện và hoàn thiện nó, để làm cho nó hòa hợp với tự nhiên, làm nó thăng hoa và tự do, không ràng buộc, không vướng mắc, đáng tin cậy và nhu thuận theo mọi sự; [19] và nếu anh hiểu được rằng bất cứ ai khao khát những thứ ngoài tầm kiểm soát của họ, hay muốn né tránh điều gì đó, đều không thể là người đáng tin hoặc tự do, họ sẽ trở thành những nạn nhân của sự thay đổi vô thường, phải nghiêng ngả theo những điều kể trên, và khó có thể tránh khỏi cảnh làm tôi tớ cho những kẻ khác, những kẻ nắm giữ thứ họ muốn hoặc ngăn chặn được những thứ làm họ e sợ. [20] Bằng như khi anh ta tỉnh giấc lúc trời sáng, anh ta chịu quán xét và giữ đúng những nguyên tắc này, tắm rửa bản thân như một người có uy tín, ăn uống như một người tự trọng, luôn đặt những quy tắc hướng đạo của anh ta vào mọi hành động để xử lý mọi việc, giống như một người chạy bộ làm khi tập chạy, hay như một người luyện giọng thực hành khi luyện giọng [21] — vậy thì người này đang thực sự có tiến bộ, người này không phải là một kẻ lữ hành lang thang trong vô vọng.
[22] Nhưng nếu anh ta hướng những nỗ lực của mình về những điều trong sách vở, và anh ta miệt mài với những thứ này, rời bỏ quê hương để học được những thứ này, ta sẽ bảo anh ta trở về nhà ngay đi và đừng bỏ lơ công việc của mình ở đó nữa, [23] bởi vì mục đích du học của anh hoàn toàn vô nghĩa. Không, điều thực sự đáng cho ta học là cách để giải thoát cuộc sống khỏi mọi khổ đau và bất hạnh, và loại bỏ những lời than khóc như “Ôi, nỗi khổ của ta thật to lớn!” hay “Ta là một kẻ thật đáng thương!”, cùng với những bất hạnh và điều trái ý nghịch lòng; [24] và để biết được chân tướng của cái chết, án trục xuất, tù đày, và độc dược là gì, để anh ta có thể thốt ra những lời khi đang bị giam cầm trong ngục tù như Socrates: “Crito thân yêu của ta*, nếu điều sắp xảy ra làm vừa lòng các đấng Thần linh, hãy để nó xảy ra!”, thay vì “Chao ôi, ta thật là một lão già bất hạnh, chẳng lẽ ta sống đến tuổi bạc đầu chỉ để hứng chịu điều này ư?” [25] Ai có thể nói ra những lời lẽ đó? Anh có nghĩ ta sẽ đề cập tới những hạng người vô danh với gốc gác tầm thường? Chẳng phải vua Priam1 đã nói như vậy sao? Chẳng phải Oedipus đã nói như vậy sao? Trên thực tế có vị vua nào không nói như vậy chăng? [26] Bởi lẽ bi kịch là gì ngoài sự miêu tả của những vần thơ bi thương về nỗi thống khổ của những kẻ đặt nặng những thứ vật dục ngoài thân? [27] Nếu con người phải bị dẫn dụ để học được rằng những vật ngoài thân, thứ nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, không có nghĩa lý gì đối với chúng ta, về phần mình, ta sẽ sẵn sàng chịu nghe lời dụ dỗ đó, nếu điều này cho phép ta sống một cuộc đời bình thản và không xao động từ nay đến mãi về sau; còn về phần những điều anh ước muốn, thì anh mới là người phải suy xét kỹ càng.
1 Vua của thành Troy.
[28] Chrysippus dạy cho chúng ta điều gì? Ông nói: “Để các anh có thể biết rằng những suy tưởng này đều không xa rời cái chốn mà từ đó hạnh phúc và sự thanh thản được nảy sinh, tự do khỏi những đam mê, [29] hãy đọc những quyển sách của ta và anh sẽ thấy rằng những suy tưởng đó, những suy tưởng đã trao cho ta sự tự do khỏi những đam mê trần tục, thật đúng đắn và thuần nhất với lẽ tự nhiên.” Ồ, thật là một dịp may hiếm có! Quả là một ân nhân* chỉ lối soi đường cho chúng ta! [30] Con người ở khắp nơi đã dựng miếu mạo, đền thờ để tưởng nhớ Triptolemus* vì đã cho chúng ta mùa màng để nuôi dưỡng nhục thân. [31] Nhưng ai trong các anh đã từng dựng đền thờ nhân danh ngài, người đã tìm ra chân lý, người đem lại ánh sáng và truyền thụ lại cho tất cả, chân lý đó không chỉ để cho chúng ta giữ được mạng sống, mà còn để ta sống một cuộc đời thật tốt đẹp? Ai đã từng xây miếu mạo hoặc tôn tượng, hoặc quỳ trước Thiên chủ để tạ ơn Ngài vì ân điển này chưa? [32] Vì lẽ Ngài đã ban cho chúng ta ngũ cốc và nho, chúng ta dâng lễ vật hiến tế lên cho các vị Thần, vậy mà khi họ ban cho chúng ta một thứ quả ngọt nhiệm mầu giữa nhân gian, bằng cách tiết lộ cho chúng ta sự thật về hạnh phúc, chẳng lẽ chúng ta lại không tạ ơn Thiên chủ vì ân phước đó?
1.5. Phê bình các học giả
[1] Epictetus nói, nếu có một người phủ nhận một sự thật quá hiển nhiên, sẽ không dễ dàng tìm được lý lẽ để thuyết phục anh ta thay đổi suy nghĩ của mình. [2] Và lý do cho việc này không phải nằm ở năng lực của anh ta; hay ở sự yếu kém của người muốn giáo huấn anh ta; mà bởi khi một con người bị dồn đến đường cùng và bộ óc của anh ta đã chai cứng như sỏi đá, làm sao người khác có thể thuyết phục được anh ta bằng cách tranh luận cho đặng?
[3] Có hai loại người có đầu óc cứng nhắc như vậy, một người bị chai sạn vì trí tuệ, một người vì cảm giác hổ thẹn khi anh ta quyết tâm không chấp nhận điều hoàn toàn hiển nhiên và cũng không chịu rút lui khỏi cuộc tranh luận. [4] Đa số chúng ta sợ sự hoại diệt của thân thể và sẽ làm mọi cách để trốn tránh điều đó, nhưng đối với sự hoại diệt của tâm hồn, chúng ta lại tỏ ra bình chân như vại. [5] Và nói về tâm hồn, khi ai đó rơi vào trạng thái không thể nắm bắt hoặc thấu hiểu được lý lẽ, chúng ta nghĩ rằng anh ta đang gặp vấn đề; nhưng nếu một người khác đánh mất sự khiêm cung và cảm giác hổ thẹn của mình, chúng ta thậm chí còn gọi đó là sức mạnh của lập trường vững chắc!
[6] Anh có nhận ra anh đang tỉnh táo không? “Không”, ông học sĩ trả lời, “bởi vì cả trong mơ ta cũng không thể tưởng tượng được việc mình đang tỉnh táo.” Chẳng lẽ giữa hai cảm giác thức và tỉnh không có sự khác biệt gì với anh sao? “Không có.” [7] Làm sao ta có thể tranh luận với con người này thêm chút nào nữa? Lửa nào, sắt nào để ta có thể dùng để làm cho anh ta nhận ra sự u mê của mình đây? Ngay cả khi anh ta nhận ra, anh ta cũng giả vờ không biết; anh ta còn tệ hơn cả một cái xác thối. [8] Một người không thể nhận ra sự khác biệt, anh ta đang ở trong một tình trạng tồi tệ. Trái lại, con người này tuy có thể nhìn nhận, nhưng không chịu thay đổi và tiến bộ; anh ta đang ở trong một tình trạng còn tồi tệ hơn. [9] Cảm giác hổ thẹn và sự khiêm tốn của anh đã bị vứt bỏ hoàn toàn, và khả năng lý trí của anh ta, nếu chưa bị vứt bỏ thì cũng đã bị phá hoại thậm tệ. Ta có gọi đó là sức mạnh của ý chí hay không? Thần linh ơi không đời nào, trừ khi chúng ta buộc phải gán định nghĩa đó cho những kẻ bại hoại để chúng thích nói và làm bất cứ thứ gì chúng nghĩ ra giữa thanh thiên bạch nhật.
1.6. Bàn về Thiên ý
[1] Từ tất cả những điều xảy ra trong vũ trụ, một người sẽ dễ dàng có thể tôn vinh Thiên ý* nếu họ sở hữu hai phẩm chất sau, khả năng nhìn nhận một sự việc cụ thể trong mối tương quan với tổng thể và lòng biết ơn. [2] Bởi vì nếu không có hai thứ này, con người ta sẽ không thể nhận ra tác dụng của những sự việc xảy đến, hoặc không thực sự biết ơn ngay cả khi anh ta hiểu về nó.
[3] Nếu Thiên chủ tạo ra màu sắc mà không tạo ra khả năng thị giác thì điều đó có nghĩa lý gì chứ?— “Chẳng có nghĩa lý gì cả.” [4]—Ngược lại, nếu Ngài tạo ra khả năng thị giác mà không làm cho sự vật trở thành đối tượng của khả năng đó, vậy thì nó phục vụ cho mục đích gì?— “Không gì cả.” [5] — hay thêm nữa, nếu Ngài tạo ra cả hai thứ mà không tạo ra ánh sáng? [6] — “Cả trong trường hợp đó cũng chẳng có ích lợi gì cả.”—Vậy thì ai, ai đã làm cho thứ này ứng hợp với thứ khác? Ai đã làm lưỡi kiếm vừa với chuôi và chuôi kiếm vừa với lưỡi? Chẳng lẽ không có ai sao? [7] Và từ cấu trúc của những món đồ đã hoàn thiện này, chúng ta dễ dàng nhận ra được chúng chắc chắn là thành quả của một người thợ nào đó, chứ chẳng phải là sản phẩm của thời vận rủi may. [8] Mỗi sản phẩm này có tiết lộ gì về người làm ra nó không? Nếu có thì tại sao sự vật, ánh sáng và thị giác lại không như vậy cơ chứ? [9] Cũng như giống đực và cái, cùng với ham muốn được chung đụng với nhau, và khả năng để họ sử dụng những cơ quan được tạo ra cho mục đích đó, chẳng lẽ những thứ này không tiết lộ gì về người tạo tác ra chúng? Chắc chắn là có. [10] Cấu trúc phi thường* này của tâm trí chúng ta không chỉ cho phép chúng ta nhận được những niệm tưởng từ những đối tượng của giác quan khi chúng tác động đến ta, mà còn cho phép chúng ta chọn lựa trong số những niệm tưởng đó, gia giảm chúng, và qua đó tạo ra những sự kết hợp khác nhau, hay thay thế những niệm tưởng này bằng những niệm tưởng khác có liên quan. Có lý nào điều này vẫn không đủ để làm động lòng một số người, và làm cho họ thay đổi quan điểm của mình để dành chỗ cho Đấng tạo hóa? [11] Hoặc nếu không, hãy để tự họ giải thích thứ gì đã tạo ra tất cả điều này, hay làm sao mà những tuyệt tác mang đậm dấu ấn nghệ nhân này có thể ra đời do tình cờ và tự thân hóa hiện.
[12] Vậy những thứ này chỉ được tạo ra cho duy nhất loài người hay chăng? Thật ra, rất nhiều khả năng chỉ có ở con người chúng ta, những thứ mà loài động vật lý tính như chúng ta đặc biệt cần đến, nhưng anh sẽ nhận ra rằng chúng ta cũng chia sẻ một số năng lực với những loài động vật phi lý tính. [13] Vậy có khi nào chúng cũng hiểu được mọi thứ vận hành như thế nào không? Hoàn toàn không, bởi vì vận dụng là một chuyện nhưng thấu hiểu lại là một chuyện khác. Thiên chủ cần những con vật phi lý tính này biết cách vận dụng những niệm tưởng, nhưng lại cần chúng ta thấu hiểu về tác dụng của chúng. [14] Đối với loài vật kia, chỉ cần biết ăn, uống, nghỉ ngơi và sinh sản là đủ, và thực hiện những chức năng khác sao cho phù hợp với từng cá thể, trong khi đối với chúng ta, giống loài đã được Ngài ban cho khả năng trí tuệ, thì bấy nhiêu vẫn chưa đủ. [15] Trừ khi chúng ta biết hành xử có lề lối và trật tự cũng như thuận theo bản tính và đặc điểm của mỗi cá nhân, chúng ta sẽ không thể đạt đến giới hạn thực sự của mình. [16] Bởi vì sự cấu thành của mỗi sinh vật đều khác nhau, những hành vi và giới hạn của chúng cũng khác nhau. [17] Cho nên nếu cấu tạo của một sinh vật chỉ được đặc chế cho việc sử dụng, chỉ cần sử dụng thôi là đủ; nhưng trường hợp một sinh vật có khả năng để thấu hiểu được việc sử dụng đó, nếu nó không vận dụng khả năng hiểu biết đó, nó sẽ không thể nào đạt đến điểm cuối tối thượng của chính mình.
[18] Về phần động vật thì sao? Thiên chủ đã tạo ra từng loại dựa theo mục đích của chúng, loài để ăn, loài để phục vụ trên cánh đồng, loài để làm ra phô-mai, và các loài khác với những tác dụng riêng; và để thực hiện được những chức năng này, làm sao chúng lại cần hiểu những niệm tưởng và có khả năng để phân biệt những thứ đó? [19] Nhưng Thiên chủ đã đưa loài người đến với thế giới này để làm người giám sát bản thân anh ta và những việc làm của anh ta, không chỉ quan sát mà còn phải thấu hiểu những việc đó. [20] Cho nên sẽ là một điều đáng hổ thẹn đối với một con người nếu anh ta bắt đầu và kết thúc ở cùng một điểm với giống loài cầm thú phi lý trí. Thay vì vậy, anh ta nên khởi đầu cùng với chúng và kết thúc nơi bản tính của anh ta. [21] Anh phải về đích với sự chiêm nghiệm, thấu hiểu và con đường sinh mệnh hài hòa với tự nhiên. [22] Vậy thì hãy thận trọng, đừng đi hết cuộc đời mà không suy nghiệm về những sự thật này.
[23] Anh đi quãng đường dài đến Olympia để ngắm nhìn công trình của Phidias* và tất cả mọi người đều xem việc chết đi mà chưa được chứng kiến những cảnh tượng đó là một điều bất hạnh. [24] Vậy mà anh chẳng cần phải đi đâu, anh đã có những kỳ quan trước mắt mình rồi, anh có khao khát được chiêm ngưỡng và thấu hiểu chúng chăng? [25] Chẳng lẽ anh không bao giờ nhận ra anh là ai và anh sinh ra để làm gì, hay bản chất của khả năng quan sát này là gì?
[26] “Nhưng những điều trái ý nghịch lòng luôn xảy ra trên cuộc đời này.”
Và những thứ đó chẳng xảy ra trên Olympia sao? Anh có bị thiêu đốt bởi sức nóng hay không? Anh có bị chen lấn và chật chội hay không? Anh có cảm thấy gặp khó khăn khi tìm chỗ tắm rửa không? Anh có bị ướt sũng trong mưa không? Anh có phải chịu tra tấn bởi tiếng gầm rú và la hét không có hồi kết không? [27] Nhưng bằng cách cân bằng chúng với khả năng quan sát tuyệt vời này, ta nghĩ anh có thể bằng lòng và chịu đựng được chúng. [28] Hãy đến đây, chẳng phải anh đã được ban cho những khả năng giúp anh có thể chịu đựng được bất kỳ điều gì xảy đến hay sao? Chẳng phải anh đã được ban cho sự vĩ đại của tâm hồn? Và sự dũng cảm? Và sức bền bỉ? [29] Nếu ta có sự vĩ đại của tâm hồn, vậy lý do gì ta phải lo âu với bất kỳ thứ gì vô thường ngoài kia? Thứ gì còn có thể làm cho ta bối rối hoặc xao động, hoặc giả có chút âu sầu? Chẳng lẽ ta không thể vận dụng những năng lực của mình cho những mục tiêu mà vì đó những năng lực này được sinh ra, mà lại đi ca thán và than khóc về những việc xảy đến hay sao?
[30] “Vâng nhưng tôi bị sổ mũi.” Vậy tay anh để làm gì hỡi chàng nô lệ? Chẳng phải để anh chùi mũi anh sao? [31] “Nhưng có lý nào để bệnh sổ mũi được sinh ra trên đời chứ?” [32] Nếu anh biết chùi mũi mình thay vì soi mói tìm lỗi thì hay biết mấy. Anh nghĩ Heracles* sẽ trở thành thứ gì nếu không nhờ vào con sư tử vàng, con quái vật Hydra, con hươu vàng, con heo rừng, cùng với những con người man rợ và tàn độc bị chàng quét tan khỏi trái đất? [33] Chàng ta sẽ làm gì nếu những chướng ngại đó không tồn tại? Chẳng phải rõ ràng Heracles sẽ chui vào nệm ấm chăn êm mà ngủ sao? Vậy, thứ nhất chàng sẽ không thể trở thành Heracles nếu đã dành cả quãng đời để ngủ quên trên sự xa hoa và an nhàn; và kể cả nếu chàng vẫn trở thành Heracles, thì điều đó có tốt đẹp gì cho chàng đâu? [34] Đôi bàn tay, thần lực, sức bền, và tâm hồn cao thượng của chàng còn có tác dụng gì nữa đâu nếu những điều kiện và cơ hội kia không ở đó để kích thích và tôi luyện cho chàng?
[35] “Vậy Heracles có nên tự tìm lấy cơ hội cho mình, và tìm cách dẫn dụ sư tử, heo rừng và quái vật Hydra vào đất nước mình hay không?”
[36] Đó là một việc cực kỳ ngu xuẩn và điên rồ. Nhưng bởi vì chúng thực sự có tồn tại và phải được đối đầu, chúng phục vụ cho một mục đích hữu ích đó là làm hiển hách và tôi luyện con người Heracles.
[37] Vậy bây giờ anh đã nhận ra những điều này, và suy ngẫm về những khả năng mà anh sở hữu, hãy nói rằng: “Xin thần Zeus hãy đem đến cho con bất kỳ khảo nghiệm nào mà ngài muốn, bởi vì con đã nắm chắc công cụ mà ngài ban cho và những tiềm lực này sẽ giúp con đạp lên tất cả mọi điều có thể xảy đến.”* [38] Nhưng anh lại không nói được như vậy, anh ngồi đó và run sợ trước suy nghĩ về những thứ có thể xảy ra, rồi rên rỉ, ỉ ôi, ca thán những chuyện thực sự xảy ra; rồi anh đổ mọi tội lỗi lên các vị thần. [39] Còn điều gì ngoài lòng bất tín có thể đem đến sự ti tiện như vậy trong tâm hồn? [40] Thiên chủ không chỉ ban cho chúng ta khả năng chịu đựng thế sự xoay vần mà không cần phải hạ thấp nhân phẩm hay chịu bị khuất phục, mà Ngài, một đấng minh quân và đức cha lành, còn làm cho những khả năng đó trở nên không bị chướng ngại, không bị cưỡng bách, và không bị ngăn trở, Ngài đặt chúng hoàn toàn vào lòng bàn tay chúng ta, mà không hề chừa lại chút quyền lực nào cho mình để chế ngự và bó buộc chúng ta. [41] Anh, người đã được ban cho những khả năng hoàn toàn tự do và nằm trong quyền kiểm soát của mình, lại không thể vận dụng được chúng và thất bại trong việc nhận ra mình được ban cho thứ gì và từ ai, [42] chỉ biết ngồi đó mà than khóc. Một số người trong các anh mù mờ về người ban ân bố đức cho mình và thậm chí chẳng nhận ra ân nhân của mình là ai, trong khi những người khác để cho sự ti tiện trong tâm hồn dắt mũi đến mức chửi rủa và than phiền về Thiên chủ. [43] Nhưng ta có thể cho anh thấy được rằng anh hoàn toàn có tiềm lực và hành trang cần thiết để trở thành một người với tâm hồn cao thượng và dũng mãnh, còn chứng minh cho ta thấy những dịp nào xứng đáng để cho anh than vãn và chửi rủa thì là chuyện của anh.
1.7. Bàn về việc vận dụng lý luận giả định, lý luận đa nghĩa và những lý luận tương tự
[1] Đa số mọi người không ý thức được rằng việc tìm hiểu về những lý luận giả định hoặc đa nghĩa, và những lý luận phát sinh từ nghi vấn, hay nói cách khác là tất cả mọi lý luận, đều có liên quan đến các trách nhiệm trong cuộc sống. [2] Bởi vì trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu, chúng ta đều muốn tìm hiểu làm sao mà một người tài năng và đạo đức có thể tìm ra con đường mà anh ta phải theo đuổi trong đời và cách anh ta phải hành động. [3] Ta có thể nói rằng một bậc chính nhân sẽ không tham gia vào các cuộc tranh luận, [4] hoặc nếu có, ông ta cũng sẽ chỉ tham gia một với một thái độ qua loa và hờ hững. Còn thì, nếu một người không đồng ý với hai nhận định trên, vậy người đó nên nghiên cứu về những chủ đề này bao gồm cả phần vấn và đáp.
[5] Vậy việc lý luận đòi hỏi điều gì? Phải thiết lập được sự thật, phủ nhận điều giả dối, và chưa đưa ra phán xét trong những trường hợp còn hồ nghi. [6] Vậy học bao nhiêu đó đã là đủ chăng?
“Vâng, đã là đủ,” ai đó đáp.
Vậy giả như có một người muốn tránh nhầm lẫn khi sử dụng những đồng tiền xu, liệu đã đủ chăng khi anh ta được dạy rằng: “Chấp nhận những đồng drachma thật và từ chối những đồng giả”?
[7] “Không, thế vẫn chưa đủ.”
Vậy cần thêm điều gì nữa? Còn điều gì ngoài khả năng kiểm tra đồng xu và phân biệt giữa đồng drachma giả và đồng thật? [8] Và cũng vậy, trong việc tranh luận, thốt ra lời nói thôi chắc chắn vẫn chưa đủ, nhưng ta có cần phải biết làm thế nào để kiểm nghiệm và phân biệt giữa điều chân thật, giả dối và chưa chắc chắn không?
“Tất nhiên là cần thiết.”
[9] Ngoài ra, việc lý luận cần những điều gì khác? Anh phải chấp nhận những điều theo sau tiền đề mà anh đã đưa ra. [10] Vậy trong một lĩnh vực lý luận ta, chỉ cần am hiểu duy nhất điều đó thôi sao? Không, vẫn chưa đủ, một người cũng cần phải hiểu được rằng một sự việc sẽ phát sinh như là kết quả của những sự việc khác, và đôi khi, một sự việc phát sinh từ một điều duy nhất, và đôi khi lại từ sự đan xen của nhiều nhân tố. [11] Hãy suy xét liệu việc học thêm kỹ năng này có thực sự cần thiết chăng nếu một người muốn biểu hiện thật thông minh trong các cuộc tranh luận, và có thể chứng minh được từng luận điểm của mình, cũng như theo kịp được cách trình bày của đối phương mà không bị dắt mũi bởi những kẻ sử dụng kiểu tranh luận ngụy biện theo lối đưa ra dẫn chứng. [12] Cũng từ đó, ngày càng có nhiều người trong chúng ta đã thực hành và ứng dụng những kiểu lập luận suy luận và đưa ra những con số hợp lý, điều này đã chứng minh tính cần thiết của nó.
[13] Nhưng đôi khi có những trường hợp như thế này: chúng ta đưa ra một số tiền đề nhất định, và những kết luận suy ra từ tiền đề đó hóa ra lại là sai. [14] Ta phải làm gì? Chấp nhận kết luận sai lầm đó sao? [15] Làm sao có thể như thế được? Vậy ta có nên thừa nhận rằng ta đã sai khi chấp nhận những tiền đề kia? Không, điều này cũng không được phép. Hoặc ta nói: kết quả này không phải từ những tiền đề kia? Nhưng điều này cũng là không thể. [16] Vậy người ta phải làm gì trong những trường hợp như vậy? Chẳng phải rất giống với những món nợ sao? Cũng giống như việc thỉnh thoảng vay mượn không làm cho một người trở thành con nợ, mà cần phải thêm vào đó việc anh ta tiếp tục nợ khoản tiền và chưa hoàn trả; cũng vậy, việc chúng ta đã chấp nhận các tiền đề không buộc chúng ta phải chấp nhận phần suy luận, nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục chấp nhận những tiền đề đó. [17] Nếu tiền đề không thay đổi* đến cuối cùng, chúng ta phải tiếp tục giữ nguyên nó và thừa nhận kết luận suy ra từ nó.
[18] Nhưng nếu những tiền đề không còn giữ nguyên như khi chúng được đặt ra, [19] chúng ta cần phải rút lại điều ta đặt ra, và không tuân theo kết luận từ tiền đề đó nữa. [20] Đây là điều chúng ta cần suy xét liên quan đến các tiền đề, chính là những thay đổi kiểu này và những điều chỉnh liên quan, bởi vì trong quá trình hỏi và đáp, hoặc trong việc rút ra kết luận, hoặc bất kỳ giai đoạn nào của cuộc tranh luận, trong trường hợp những tiền đề trải qua quá trình điều chỉnh này, chúng sẽ trở thành căn nguyên của rắc rối đối với những người thiếu kinh nghiệm nếu họ không thể thấy được điều phát sinh. Tại sao chúng ta cần làm điều này? [21] Để trong hoàn cảnh này, chúng ta sẽ không hành xử một cách ngẫu nhiên, bất hợp lý và bối rối.
[22] Điều đó cũng đúng với những giả thuyết và lập luận giả thuyết. Vì đôi khi ta cần đặt ra những giả thuyết để làm nền tảng cho lập luận theo sau. [23] Vậy ta có nên thừa nhận tất cả giả thuyết được đặt ra hay không? Và nếu không phải tất cả, vậy thì thừa nhận cái nào? [24] Và một khi người ta thừa nhận một giả thuyết, họ có nên chấp giữ nó mãi mãi, hay có lúc họ nên buông bỏ nó? Và với những kết luận suy ra từ chúng, người ta có nên chấp nhận những kết luận này và phủ nhận những kết quả mâu thuẫn với chúng không?
“Có.”
[25] Nhưng ai đó nói: “Nếu anh thừa nhận một giả thuyết có thể xảy ra, ta sẽ, thông qua tranh luận, bắt anh chấp nhận một điều bất khả.” Người trí có từ chối tham gia vào việc tranh luận này, và né tránh tất cả mọi thắc mắc và thảo luận liên quan không? [26] Nhưng còn ai ngoài người trí giỏi vận dụng lập luận, thông thạo trong việc vấn đáp, không thể bị lừa gạt và dắt mũi bởi suy luận ngụy biện? [27] Liệu anh ta có tham gia vào một cuộc thảo luận hấp tấp và thiếu cẩn trọng hay không? Nếu như vậy, làm sao anh ta còn có thể là loại người mà ta hằng tưởng tượng? [28] Nếu không có sự luyện tập và chuẩn bị, làm sao anh ta có thể đưa ra một lập luận nhất quán và vững chắc? [29] Chỉ cần chứng minh rằng anh ta có thể làm được như thế, và tất cả những nghiên cứu sẽ trở nên vô nghĩa và nhảm nhí, không thống nhất với định nghĩa của chúng ta về bậc chính nhân. [30] Tại sao chúng ta vẫn lười biếng, bất cẩn và chậm chạp? Tại sao chúng ta luôn biện minh để tránh công việc nặng nhọc, và không chịu thức khuya để huân tập lý trí của mình?
[31] “Nhưng tóm lại, nếu trò sai lạc trong những vấn đề này cũng đâu đến mức như trò giết cha mình, có đúng không?”
Hãy nói cho ta biết, kẻ nô lệ kia, cha anh có ở đây để anh giết đâu? Vậy thực sự anh đã làm gì? Phạm vào lỗi lầm duy nhất mà anh có thể phạm trong hoàn cảnh này. [32] Đây là lời cãi cố ta nói với thầy Rufus* khi thầy chỉ trích ta vì không phát hiện ra một bước thiếu của một tam đoạn luận: “Tại sao thầy lại như vậy, đâu phải trò đốt cả kinh đô này đâu!” Thầy đã đáp rằng: “Trong trường hợp này, kẻ nô lệ kia, bước thiếu ấy quả chính là kinh đô đó!” [33] Vậy chẳng lẽ không còn lỗi lầm nào ngoài việc giết cha hoặc đốt kinh đô hay sao? Trong khi việc xử lý những niệm tưởng của ta một cách ngẫu hứng, thiếu suy xét và hấp tấp, việc không thể nhìn ra điều gì là nhất quán trong việc vấn đáp — chẳng lẽ những điều này không được xem là lỗi lầm sao?
1.8. Những năng lực suy luận của chúng ta có thể gây hại cho những kẻ ít học
[1] Chúng ta có bao nhiêu cách hoán đổi những khái niệm tương đương với nhau, thì lại có bấy nhiêu cách để đánh tráo những luận cứ và những tam đoạn luận giản ước*. [2] Lấy ví dụ về luận điểm này: “Nếu anh mượn tiền và vẫn chưa hoàn trả thì anh nợ tôi số tiền đó.” Câu này cũng tương đương với câu “Anh không mượn tiền tôi và chưa trả tiền gì, cho nên anh không nợ tiền tôi.”
[3] Và không có ai sánh được với một triết gia trong việc đổi tráo các dạng tranh luận này bằng kỹ năng. Bởi vì nếu một tam đoạn luận giản ước thực sự là một tam đoạn luận chưa hoàn chỉnh, vậy thì rõ ràng một người đã thực hành vận dụng những câu tam đoạn luận hoàn chỉnh sẽ không gặp khó khăn nào trong việc vận dụng những câu chưa hoàn chỉnh.
[4] Vậy tại sao chúng ta không rèn luyện bản thân và rèn luyện cho nhau theo cách này? [5] Bởi vì ngay cả bây giờ, mặc dù chúng ta dành toàn bộ thời gian để rèn luyện bản thân trong lĩnh vực này và không hề chểnh mảng trong việc bồi dưỡng nhân cách của chính mình, chúng ta vẫn chưa tiến được chút nào về phía toàn thiện. [6] Vậy tại sao chúng ta lại muốn ôm đồm thêm công việc này? Và hơn nữa, công việc này không chỉ làm chúng ta sao nhãng việc học hỏi những điều thiết yếu hơn, mà còn tạo điều kiện cho sự ngạo mạn và tự phụ, theo một cách chẳng vô hại chút nào. [7] Bởi lẽ khả năng đưa ra tranh luận thuyết phục và hợp lý có thể tạo ra một hiệu ứng cực kỳ mạnh mẽ, đặc biệt là khi chúng được phát triển qua quá trình rèn luyện và được chắp thêm đôi cánh của sự tự tin nhờ vào khả năng ngôn ngữ thượng thừa. [8] Sự thật đó là, bất kỳ khả năng nào mà kẻ ít học hoặc kẻ có nhân cách thấp kém học được đều tiềm tàng mối nguy hại cho chính bản thân họ, bởi vì chúng làm cho họ tự mãn và ra vẻ ta đây. [9] Suy cho cùng, làm gì có cách nào để thuyết phục một thanh niên xuất sắc trong những lĩnh vực tranh luận này rằng anh ta không nên trở thành một yếu tố phụ trợ cho chúng, mà nên bắt chúng làm vây cánh cho anh ta kia chứ? [10] Thay vào đó, anh ta sẽ đạp lên những điều chúng ta khuyên nhủ và bước đi vênh váo ngang qua chúng ta với bản mặt hếch lên trong tự mãn, không bao giờ để cho ai chỉ ra khuyết điểm và chỗ lầm lạc của mình.
[11] “Ý thầy là gì? Chẳng phải Plato* là một triết gia hay sao?”
Đúng, và chẳng phải Hippocrates* là một bác sĩ à? [12] Nhưng anh có thể thấy ông ấy giỏi ăn nói như thế nào. Liệu khả năng giỏi ăn nói có phải phẩm chất của một bác sĩ không? Vậy tại sao anh lại thắc mắc về những phẩm chất vô tình xuất hiện ở một cá nhân? [13] Nếu Plato từng là một người mạnh mẽ và điển trai, vậy ta, con người đang ngồi ở đây, cần phải bỏ công cán ra để trở nên mạnh mẽ và điển trai, như thể những thứ đó là cực kỳ thiết yếu đối với triết học chỉ bởi vì một triết gia nào đó từng vừa là một người mạnh mẽ và điển trai vừa là một triết gia à? [14] Chẳng lẽ anh không muốn phân biệt và hiểu được những phẩm chất nào con người cần để trở thành triết gia* và những phẩm chất nào tồn tại ở đó một cách trùng hợp hay sao? Này nhé, nếu ta được xem là một triết gia, vậy anh cũng phải bị què như ta sao?
Vậy ta có cho những khả năng đó là vô dụng chăng? [15] Thánh thần ơi không đời nào! Giống như ta chẳng có lý do gì để khinh rẻ khả năng thị giác cả. [16] Cũng vậy, nếu anh hỏi ta điều tốt đẹp thật sự của con người là gì, ta chỉ có thể trả lời anh điều đó tùy thuộc vào việc ý chí của họ được đặt ở nơi đâu.
1.9. Từ ý tưởng rằng chúng ta là giống loài đồng thể với Thiên chủ, con người ta có thể rút ra được bài học gì?
[1] Nếu những điều mà những triết gia rao giảng về sự đồng thể giữa Thiên chủ và con người là sự thật, nhân loại còn con đường nào khác ngoài đi theo con đường của Socrates, và khi một người được hỏi rằng họ đến từ đâu, đừng bao giờ đáp rằng: “Tôi là người Athens” hay “Tôi là người Corinth”, mà hãy nói: “Tôi là một cư dân của vũ trụ.” [2] Bởi tại sao lại nói rằng anh là một người Athens, mà không nói rằng anh chỉ là một người dân sống ở một góc đường, nơi mà thân xác đáng thương này của anh bị ném xuống khi anh chào đời? [3] Rõ ràng anh gọi bản thân là người Athens hay Corinth bởi vì đó là những nơi tập trung quyền lực, nó dung chứa cả cái xó xỉnh nhỏ bé kia và toàn bộ gia đình của anh, cũng như là nơi mà dòng máu của tổ tiên anh đã truyền lại đến đời anh, dựa vào điều ấy mà anh gọi mình là “người Athens” hay “người Corinth” ư?
[4] Khi một người đã học được cách vận hành của vũ trụ, và ngộ ra được rằng “Không có thứ gì vĩ đại, tối thượng và đại đồng như một xã hội mà nhân loại và Thiên chủ cùng hiệp đồng với nhau. Từ đó sản sinh ra một động lực tạo tác không chỉ hoài thai ông cha ta, mà còn sinh ra và nuôi dưỡng vạn vật trên trái đất, và đặc biệt là những giống loài có lý trí — [5] bởi chỉ những cá thể này mới có thiên tính phù hợp để câu thông với Thiên chủ bằng trí tuệ.” [6] Lẽ nào người đã ngộ được điều này rồi lại không tự nhận anh ta là cư dân của vũ trụ? Anh ta còn lý do gì để e sợ những thứ xảy đến với nhân loại? [7] Liệu việc có bà con thân thích với Caesar Đại đế, hay người nào đó nắm giữ quyền lực ở La Mã có đủ để đảm bảo rằng một người sẽ được sống trong an toàn, và tránh được mọi tai ương hay thoát khỏi mọi nỗi sợ? Trong khi chúng ta có Thiên chủ là Đấng tạo hóa, Đấng Cha lành, và người bảo hộ cho chúng ta, bao nhiêu đó chẳng phải là quá đủ để giúp ta vượt thoát sợ hãi và khổ đau hay sao?
[8] “Vậy trò tìm ở đâu ra thức ăn nếu trò chẳng có gì trong tay?” Ai đó hỏi.
Vậy làm sao những nô lệ tìm được, làm sao những kẻ chạy trốn, họ dựa vào điều gì để trốn chạy khỏi chủ nhân của họ? Họ có dựa vào đồn điền, người hầu hay vàng bạc của họ không? Không, không dựa vào gì ngoài bản thân họ, vậy mà họ đâu có chết đói. [9] Và liệu triết gia của chúng ta trên chuyến hành trình viễn xứ có đặt niềm tin vào kẻ khác và dựa dẫm vào họ, thay vì tự lo lấy thân, để chứng tỏ bản thân mình thua kém và hèn nhát hơn những động vật phi lý trí? Bởi vì mỗi con vật đều có thể tự lực sinh tồn, và không hề thiếu khả năng kiếm ăn và lối sống hợp với bản chất của chúng?
[10] Ta cho rằng người thầy già của các anh không cần thiết phải phí sức ngồi đây để chỉ cho các anh làm cách nào để buông bỏ tâm ý hạ tiện về bản thân, hay để đừng nhìn nhận bản thân theo cách thấp hèn, [11] mà tốt hơn, ông ấy chỉ cần đảm bảo rằng không ai trong số những thanh niên các anh, khi biết chúng ta có cùng giống dòng với những vị thần và rằng ai ai cũng bị trói buộc bằng sợi xích của thân thể trần tục, tài sản và tất cả mọi thứ thiết yếu để duy trì cuộc sống, sẽ muốn vứt bỏ mọi thứ vì chúng thật chướng ngại, mệt nhọc và vô dụng, để khởi hành về với dòng Thánh của mình. [12] Đây mới là điều mà đáng ra các bậc đạo sư và nhà giáo dục, nếu họ xứng đáng với danh hiệu đó, phải lao tâm khổ tứ để thực hiện.
Đáng ra của các anh là phải đến chỗ ông ấy và nói rằng: “Thưa thầy Epictetus, chúng con không thể chịu được việc phải bị gông cùm với cái xác thịt đáng thương này của mình một chút nào nữa, phải luôn chu cấp cho nó thức ăn và nước uống, cho nó ngủ nghỉ và giữ cho nó sạch sẽ, rồi còn phải vì nó mà giao tế với đủ loại hạng người. [13] Chẳng phải những thứ này chẳng can hệ và dính líu gì đến chúng con, và cái chết chẳng có gì xấu xa hay sao? Và chẳng phải rằng theo ý nghĩa nào đó thì chúng con có liên hệ đến Thiên chủ, và khởi phát từ Ngài ư? [14] Hãy cho chúng con quay trở về với cội nguồn của mình; cho chúng con thoát khỏi xiềng xích trói buộc nặng nề. [15] Ở trần hạ này toàn là phường trộm cướp, tòa án và những kẻ bạo chúa khét tiếng, cứ nghĩ đến việc quyền lực của chúng chụp lên đầu chúng con cũng chỉ bởi vì thân xác thấp hèn này và những thứ sở hữu của nó mà xem. Hãy để chúng con cho chúng thấy chúng chẳng nắm giữ chút quyền hành nào đối với bất cứ ai.”
[16] Và ta chỉ cần đáp lại rằng: Các anh phải chờ đợi Thiên chủ*, những người bạn của ta ạ. Khi Ngài ra tín hiệu và giải phóng anh khỏi nghĩa vụ của mình dưới trần đời này, lúc đó anh có thể rời bỏ để đi về với Ngài. Nhưng lúc này, các anh phải nhẫn nại để giữ vững vị trí mà Ngài đã sắp đặt cho anh. [17] Thật ra thời gian ở lại trần thế này của các anh rất ngắn, và dễ dàng vượt qua đối với những người có tâm như các anh. Bởi vì kẻ bạo quyền nào, đạo tặc nào, tòa án nào lại có thể gây hoang mang cho những người không còn chú trọng vào thân xác và sở hữu của nó nữa. Cho nên hãy chờ đợi, và đừng rời bỏ mà không có lý do chính đáng.
[18] Đây là điều mà một người thầy nên nói với những học trò xuất sắc của ông. [19] Nhưng hiện tại thì sao? Người thầy của các anh chỉ là một các xác không hồn, và bản thân các anh cũng vậy. Khi anh được no bụng hôm nay, anh lại ngồi than vãn về ngày mai, trăn trở làm sao để ngày sau có thức ăn cho vào miệng. [20] Chàng nô lệ à, nếu anh tìm được thức ăn, anh sẽ được sống, còn không thì anh sẽ giã từ trần thế; cánh cửa vẫn rộng mở. Tại sao lại ca thán? Còn chỗ nào để khóc than? Còn dịp nào để huênh hoang? Tại sao người này lại ganh tỵ với người khác? Tại sao một người lại để mình bị lóa mắt bởi những kẻ nhiều tiền lắm của và nắm giữ quyền hành, đặc biệt là khi họ là những gã khệnh khạng và xấu tính? [21] Họ làm được gì cho chúng ta? Những thứ mà họ có quyền để thao túng đâu có liên quan gì đến ta, và những thứ chúng ta thực sự quan tâm thì họ không thể rờ tay đến. Vậy ta hỏi các anh, ai có thể bắt một người với tinh thần như vậy phục tùng được cơ chứ?
[22] Thái độ của Socrates đối với những vấn đề này là gì? Chắc chắn là giống như điều mà ai cũng sẽ làm nếu họ tin rằng họ chính là quyến thuộc của Thần linh. [23] Socrates nói với những thẩm phán xét xử mình: “Nếu các ông nói với tôi rằng:
‘Chúng tôi sẽ xử ông vô tội trong vụ này miễn là ông không đưa ra lời bàn luận nào như trước giờ ông đã làm, và không làm phiền bất cứ ai trong chúng tôi từ trẻ đến già nữa.’ [24] Tôi sẽ trả lời: Các ông thật vô lý khi nghĩ rằng nếu một trong những tướng quân của ông bắt ta phải đứng canh gác, ta phải giữ vững vị trí, phòng thủ nó, phải chọn cái chết hàng nghìn lần thay vì đào ngũ, còn nếu Thiên chủ đặt chúng ta vào một vị trí và vẽ ra con đường ta phải đi, chúng ta lại nên chạy trốn!*” [25] Socrates đã nói theo đúng nghĩa như một người có quyến thuộc với Thần linh. [26] Tuy nhiên, với chúng ta, chúng ta chỉ nghĩ bản thân là những thân xác phàm tục, như thể chúng ta chỉ là nội tạng và bộ phận sinh dục, bởi vì chúng ta nhượng bộ nỗi sợ và tham vọng; và chúng ta nịnh nọt những kẻ có thể giúp đỡ cho ta về những phương diện ấy, cùng với sự nể sợ dành cho họ.
[27] Ai đó nhờ ta viết thư gửi đến thành La Mã thay cho anh, người này đã phải trải qua điều mà hầu hết mọi người cho là tai họa. Anh từng là một người có địa vị và giàu có, anh đã đánh mất tất cả rồi trôi dạt về đây. Và ta đã viết thay cho anh ta với một giọng điệu khiêm nhường. [28] Tuy nhiên, sau khi đọc lá thư, anh ta liền trả lại và nói: “Tôi muốn cầu sự giúp đỡ của ông, chứ không phải sự thương hại của ông, chẳng có điều gì tồi tệ xảy ra với tôi* cả.” [29] Cũng theo cách đó, Rufus Musonius muốn thử thách ta, ông đã nói: “Chủ nhân của anh sẽ làm điều này điều nọ với anh”, [30] và khi ta đáp rằng đó là những việc bình thường xảy ra trong trong kiếp nhân sinh, ông trả lời: “Tại sao ta phải đứng ra có lời với chủ nhân của anh trong khi ta có thể nhận được điều đó từ anh?” [31] Bởi vì thật ngớ ngẩn và vô ích khi tìm kiếm một điều ở người khác trong khi ta có thể nhận được từ bản thân mình. [32] Vậy ta, người nhận được từ bản thân món quà của sự cao thượng và phẩm chất cao quý, còn đi đòi của người khác ruộng đất, tiền của hay địa vị để làm gì? Thần linh ơi không đời nào! Ta sẽ không lơ là với những sở hữu đích thực của mình theo cách đó. [33] Nhưng khi một người sống ti tiện và hèn nhát, người ta có thể làm gì cho hắn ngoài việc viết giúp hắn những lá thư như thể trên danh nghĩa một cái xác. “Xin hãy ban cho chúng tôi xác chết của người này và một ly đầy dòng máu đáng thương của anh ta”. Vì thực sự thì người như vậy có gì hơn là một cái xác và lượng máu bằng một chiếc ly. Nếu anh ta có giá trị hơn, anh ta sẽ nhận ra không ai phải chịu đựng đau khổ vì những hành động của người khác.
1.10. Dành cho những người dành tâm huyết để thăng tiến ở La Mã
[1] Nếu chúng ta tận lực với công việc của mình như những nguyên lão của thành La Mã đối với những điều mà họ lao tâm khổ tứ, có lẽ chúng ta cũng đã có thể thành tựu được điều gì đó. [2] Ta từng biết một người lớn tuổi hơn ta đang chịu trách nhiệm cung cấp ngũ cốc cho La Mã, khi ông ta đi ngang qua đây trên đường trở về từ chuyến đi đày; ta nhớ lại ông ấy đã lên án lối sống cũ của mình và tuyên bố rằng từ giờ sẽ không quan tâm gì ngoài việc sống quãng đời còn lại trong bình lặng và thanh thản: “Bởi vì tôi còn bao nhiêu thời gian nữa đâu”, ông nói. [3] Và ta nói với ông: “Ông sẽ không làm được đâu; ngay khi ông hít thở bầu không khí của thành La Mã, ông sẽ quên hết mọi lời mình đã nói”; và ta nói với ông ấy rằng [4] nếu ông có một cơ hội dù là nhỏ nhất để bước vào cung điện, ông sẽ tìm cách tiến thân sâu hơn, với một trái tim hăm hở và những lời tạ ơn Thiên chủ. “Epictetus,” ông trả lời: “nếu sau này ông thấy ta đặt chân vào cung điện, ông cứ tùy ý nghĩ sao về ta cũng được.”
[5] Chà, rồi ông ấy làm gì? Trước khi đến La Mã, ông nhận được một chiếu chỉ từ Đại đế Caesar vời ông ấy đến yết kiến, và ngay lập tức ông quên hết mọi thứ mình đã nói, rồi thì lăn xả vào hết việc này đến việc khác. [6] Ta chỉ ước chi được đứng cạnh ông ấy ngay bây giờ và nhắc lại những lời ông đã nói khi ghé qua đây, và nói với ông: “Tôi đoán giỏi hơn ông nhiều đấy!”
[7] Ta rút ra được kết luận gì? Ta có nói rằng con người là giống loài sinh ra để sống thụ động không? Không đời nào! Nhưng tại sao chúng ta lại không chủ động? [8] Hãy lấy ta ra làm ví dụ: Khi ngày mới lại lên, ta nhắc cho bản thân nhớ những điều ta phải đọc trong những giờ học*. Rồi trong một khoảnh khắc ta nói với bản thân: “Nhưng tại sao ta lại quan tâm đến việc người nào diễn giải lời lẽ của họ ra sao nhỉ? Trước tiên nên đánh một giấc đã.” [9] Là vậy đấy, nhưng công việc của những người ở La Mã làm sao có thể so sánh với chúng ta. Nếu anh chú ý những việc họ làm, anh sẽ nhận thấy sự khác biệt. Bọn họ chẳng làm gì cả ngày dài ngoài việc bỏ phiếu, tranh cãi, tính toán chi li từng chút ngũ cốc và từng mẫu đất, cùng tằn tiện từng chút lợi nhuận như vậy. [10] Liệu có giống nhau không khi ta nhận được một lá thư thỉnh cầu như: “Tôi van ngài hãy để tôi xuất đi một ít ngũ cốc”, và một lá thư như: “Tôi xin ngài hãy tham vấn Chrysippus giúp tôi về cách mà vũ trụ hoạt động và vị trí của giống loài có lý trí trong đó là gì; hãy hỏi bản thân ngài là ai và bản chất thiện và ác của ngài là gì.”? [11] Hai lá thư thỉnh cầu này có điểm chung nào? Chúng có cần sự quan tâm đồng đều nhau hay không? [12] Việc thờ ơ với cái này và thờ ơ với cái kia có đáng xấu hổ ngang nhau hay không? Kết luận của ta là gì? Chỉ có người già chúng ta biếng nhác và ham ngủ hay sao? [13] Không, phần lỗi lớn hơn là ở các anh. Bởi vì, trên thực tế, những ông già như chúng ta khi thấy những thanh niên chơi đùa cùng nhau, chúng ta cũng sẽ hăm hở nhập bọn cùng chúng. Còn hơn thế nữa, nếu ta thấy chúng là những đứa có ngộ tính và hăng hái muốn tham gia với chúng ta trong sứ mệnh theo đuổi chân lý, ta cũng sẽ háo hức cùng nỗ lực với chúng.
1.11. Bàn về tình cảm gia đình
[1] Khi một viên quan chức đến gặp Epictetus và tham vấn ông về một số vấn đề cụ thể, ông đã hỏi người kia có vợ con hay chưa; [2] và khi người kia trả lời: “Có rồi”, ông hỏi tiếp: Anh thấy cuộc sống gia đình của anh thế nào? “Khổ lắm”, người kia nói. Ý anh là gì? [3] Ông hỏi; Vì hẳn là người ta không lấy vợ sinh con để rồi chìm trong đau khổ, mà là vì mong muốn được hạnh phúc. “Vâng,” người đó nói, [4] “nhưng tôi thật đau khổ vì những đứa con tội nghiệp của tôi, gần đây con gái tôi mắc bệnh, tôi không thể chịu được khi ở gần con bé, cho nên tôi đã chạy trốn nó, cho đến khi có người báo tin cho tôi rằng con bé đã khỏe lại.” — Chà, anh có nghĩ làm vậy là đúng không? [5] — “Tôi hành xử một cách tự nhiên thôi”, anh ta nói. Gượm đã, Epictetus lên tiếng, đó lại chính là điều anh cần thuyết phục tôi, rằng anh đã hành xử thuận theo tự nhiên, và ta sẽ thuyết phục anh mọi thứ thuận theo lẽ tự nhiên thì đương nhiên phải đúng. [6] — “Tất cả những người cha”, anh ta nói, “hay ít nhất là đa số chúng tôi đều làm như vậy.” Ta không hề phủ nhận điều đó, Epictetus nói, rằng các bậc cha mẹ đều cảm thấy như vậy, nhưng câu hỏi ở đây đó là việc cảm thấy như vậy có đúng chăng. [7] Bởi nếu nói như vậy thì ngay cả những khối u sinh ra cũng là tốt cho cơ thể, vì chúng tự nhiên sinh ra; và lỗi lầm của chúng ta cũng là tự nhiên, bởi vì gần như tất cả hoặc chí ít là đa số mọi người ở đây đều có lỗi lầm. [8] Hãy chứng minh cho ta làm sao mà những điều đó là tự nhiên được. [9] Giả sử như chúng ta bàn luận về trắng và đen, tiêu chuẩn nào để chúng ta phân định chúng? — “Bằng thị giác”, người kia nói. — Còn nếu chúng ta nói về những thứ nóng hay lạnh, cứng hay mềm, ta nên dùng tiêu chuẩn nào? — “Xúc giác.” [10] — Vậy thì khi chúng ta bàn luận về điều gì thuận tự nhiên, đúng đắn và điều ngược lại, chúng ta cần dùng tiêu chí đánh giá nào? “Tôi không biết” anh ta nói. [11] Nghe này, không có gì quá tai hại nếu ta không biết cách để kiểm tra màu sắc, hương thơm cũng như mùi vị, nhưng anh có nghĩ việc một người không phân biệt được tốt xấu, hành vi nào là tự nhiên và phản tự nhiên, là một thiếu sót không đáng kể không? “Không, ngược lại, đó là một thiếu sót trầm trọng nhất.” [12] — Vậy giờ nói cho ta biết, tất cả mọi thứ mà một vài người cho là tốt và phù hợp có đều là đúng như vậy không? Ví dụ như, những ý kiến của những người Do Thái, người Syria, người Ai Cập, và người La Mã về thức ăn đều đúng chăng? “Làm sao mà thế được ?” [13] — Ngược lại, ta suy ra được rằng nếu quan điểm của người Ai Cập đúng thì quan điểm của các quốc gia khác phải sai; nếu ý kiến của người Do Thái hay thì ý kiến của những người khác phải dở. “Chắc chắn rồi.” [14] — Và nơi nào sự ngu dốt tồn tại thì nơi đó thiếu thốn kiến thức và giáo dục đối với những lĩnh vực quan trọng.
Người kia đồng ý. [15] Một khi anh nhận ra được điều này, Epictetus nói, anh sẽ biến nó thành điều quan tâm số một của anh từ đây trở đi, và không còn bận tâm về vấn đề gì khác, ngoài việc tìm ra những phương tiện để xét đoán xem điều gì là tự nhiên và vận dụng tiêu chuẩn của anh để phân xử từng tình huống xảy đến.
[16] Nhưng hiện tại thì ta chỉ có thể giúp anh được bấy nhiêu đây về vấn đề anh đang quan tâm: [17] Anh có nghĩ rằng tình cảm gia đình là tự nhiên và tốt đẹp hay không? — “Tất nhiên là có rồi.” — Vậy nhé, tình yêu của gia đình là điều tự nhiên và tốt đẹp, và chẳng phải là những gì hợp lý thì cũng tốt đẹp sao? — “Chắc chắn rồi.” — [18] Vậy giữa lý trí và tình cảm có tồn tại xung đột hay không? — “Tôi nghĩ là không.” — Nếu không thì trong trường hợp xung đột xảy ra, chỉ có một trong hai thứ đó hợp với lẽ tự nhiên, thứ còn lại hẳn là phản tự nhiên có đúng chăng? “Đúng là vậy.” [19] — Vậy ta có thể suy ra rằng mỗi khi chúng ta nhận thấy lý trí và tình cảm thống nhất trong một hành động, chúng ta có thể tự tin khẳng định rằng điều này là đúng đắn và tốt đẹp. “Vâng, đúng là vậy” anh ta đáp. [20] Vậy thì ta cho rằng anh sẽ không phủ nhận rằng việc rời xa đứa con bệnh tật của mình để trốn tránh là một điều hợp lý. Vấn đề còn lại dành cho chúng ta là suy xét xem liệu việc đó có hợp tình hay không. — “Vậy chúng ta hãy cùng suy xét.”
[21] Ta hỏi anh, đối với anh, một người dành trọn tình cảm cho con mình, có đúng chăng khi anh chọn cách chạy trốn và bỏ con bé lại? Còn mẹ con bé, cô ấy có thương con bé không?” [22] — “Tất nhiên là có.” — Vậy người mẹ cũng nên bỏ đi hay không? — “Cô ấy không nên.” — Còn bảo mẫu của con bé thì sao? Cô ấy không thương con bé à?— “Có chứ,” anh nói. — Vậy cô ấy cũng nên bỏ con bé lại sao? — “Không đời nào.” — Thêm nữa, hộ vệ của con bé có thương nó không? — “Anh ấy có.” [23] —Thế thì nên chăng anh ta cũng rời đi nốt và để con bé lại một mình không, bị bỏ mặc trong bất lực bởi vì tình cảm dạt dào của cha mẹ và những người thân của nó, hoặc chết trong vòng tay của những người không hề quan tâm hay yêu thương nó? — “Thật sai trái lắm thay.” [24] — Lại nữa, thật bất công và bất hợp lý khi có những việc mà người có nhiều tình cảm được làm, nhưng người chẳng thua kém chi về mặt tình cảm lại không được phép làm. [25] Hãy nói ta nghe, liệu khi anh bị bệnh, anh có muốn những thân nhân của anh và tất cả những người khác, ngay cả vợ con anh, cũng sẽ thể hiện tình cảm với anh theo cách đó, để anh lại một mình trối mặc không? — “Không đời nào.”
[26] Anh có muốn được những người xung quanh yêu thương đến độ họ sẽ để anh lại một mình khi anh đau ốm, cũng chỉ vì thứ tình cảm quá sức dạt dào? Hay cũng vì lý lẽ đó mà anh muốn được yêu thương bởi kẻ thù của mình, nếu điều đó là có thể, để họ mới là những kẻ sẽ tránh xa khỏi anh? Nếu là như vậy, chúng ta buộc phải kết luận rằng hành vi của anh chẳng hề xuất phát từ lòng yêu thương. Vậy lý do của anh là gì? [27] Chẳng lẽ không có điều gì xúi giục và thúc ép anh phải bỏ đứa con hay sao? Làm sao có thể chứ? Phải có một dạng động lực nào đó, giống như động lực đã làm một người đàn ông ở thành La Mã bịt mắt mình lại khi con ngựa anh ta đặt cược phi nước đại, để rồi khi con ngựa bất ngờ chiến thắng, anh ta đã ngất lịm đi và người ta phải dùng những miếng bọt biển để giúp anh ta tỉnh lại. Động lực ở đây là gì? [28] Đây có lẽ không phải là lúc để giải thích rõ ràng cặn kẽ*, nhưng cũng để thuyết phục chúng ta rằng — nếu những gì các triết gia nói là đúng — chúng ta không được tìm động lực ở đâu khác ngoài ta, nhưng đó luôn là thứ động lực duy nhất đã thúc đẩy chúng ta làm điều này và không làm điều khác, nói điều này và không nói điều khác, cảm thấy hưng phấn hay buồn khổ, để ta chạy trốn khỏi một thứ hoặc theo đuổi nó — [29] chính là thứ động lực đã thúc đẩy ta và anh vào giây phút này, anh đến và ngồi lắng nghe ta, và ta nói những gì ta biết. Động lực ở đây là gì? [30] Chẳng có gì khác ngoài ý nghĩ rằng chúng ta thấy tốt nhất nên làm điều này. Có đúng không? “Không sai một li.”
Và nếu chúng ta nghĩ làm việc khác sẽ phù hợp hơn, chúng ta đã làm điều chúng ta cho là đúng với ta. [31] Cho nên khi Achilles than khóc, lý do của anh ta không phải cái chết của Patroclus* (bởi vì không phải ai cũng phản ứng theo cách này khi chiến hữu của mình hy sinh) mà anh ta cảm thấy than khóc là hành động phù hợp vào lúc đó. [32] Và trong trường hợp của anh, anh đã trốn chạy vì anh nghĩ làm điều đó là hợp lý; và ngược lại nếu anh ở lại, đó cũng là vì anh nghĩ như thế là phù hợp. Và giờ thì anh đã rời đi để đến thành La Mã vì ý anh cho rằng đó là việc nên làm; nếu anh quyết định điều ngược lại thì anh đã không đi. [33] Nói cách khác, không phải cái chết, sự tù đày, nỗi thống khổ hay bất kỳ thứ gì như vậy là nguyên nhân của hành động và sự không hành động của anh, mà chính là những quan điểm và đánh giá. [34] Tôi đã thuyết phục được anh về điểm này chưa?
“Thưa, rồi”, anh nói.
Cho nên trong mỗi trường hợp, nhân nào sẽ sản sinh ra quả nấy. [35] Từ bây giờ, mỗi khi chúng ta làm một điều sai trái, chúng ta sẽ không đổ lỗi cho bất kỳ thứ gì khác ngoài tư tưởng của chính mình, thứ đã dẫn dắt chúng ta đi vào con đường đó. Và chúng ta sẽ cố gắng trừ diệt tận gốc nó, quyết liệt còn hơn cả với những khối u và chỗ nhiễm trùng trên cơ thể ta. [36] Cũng vậy, ta sẽ quy những hành động đúng đắn của mình cho nguyên nhân đúng đắn. [37] Chúng ta sẽ không đổ tội cho nô lệ, hàng xóm hay vợ con như thể họ đã làm cho những điều xấu xa đổ ập lên đầu chúng ta, bởi vì giờ chúng ta biết được rằng nếu không áp đặt suy nghĩ của mình lên mọi thứ, chúng ta sẽ không thực hiện những hành động xuất phát từ sự xét đoán đó. Và quyền định đoạt tư tưởng đó nằm trong tay chính chúng ta chứ không hề thuộc về thế lực bên ngoài.
“Thực vậy”, người kia nói.
[38] Từ ngày hôm nay trở về sau, đối tượng để chúng ta mày mò và xét đoán sẽ không phải là bản chất của bất cứ thứ gì khác nữa — cho dù đó là đất đai, những kẻ nô lệ, nhà cửa hay chó mèo — mà sẽ chỉ là tư tưởng của chúng ta mà thôi. — “Tôi hy vọng là vậy”, anh nói. [39] Từ đây anh nhận ra rằng mình phải vào vai một người học trò — tiêu điểm của mọi lời châm chọc — nếu anh thực sự muốn thấu tỏ được những tư tưởng của mình. Và điều đó, như anh đã nhận thức được đầy đủ, không phải là công việc có thể hoàn thành trong một giờ hay một ngày.
1.12. Bàn về sự hài lòng
[1] Khi nói về những vị thần*, có những người cho rằng thần không tồn tại, lại có người cho rằng thần có tồn tại nhưng luôn thụ động, thờ ơ và không quan tâm đến bất kỳ thứ gì, [2] hạng người thứ ba lại nói thần có tồn tại nhưng chỉ quan tâm đến những thứ lớn lao và những thứ trên thiên giới, chứ ít để tâm đến những thứ ở trái đất; và hạng người thứ tư nói rằng thần cũng quan tâm đến việc dưới trần thế và vận mệnh của của nhân loại, nhưng chỉ theo một cách tổng quát, và không quan tâm đến từng cá nhân; [3] lại có hạng thứ năm, hạng người của Odysseus và Socrates, họ nói rằng:
“Con đi đến đâu
Ngài chứng tri đến đó*.
[Homer, Iliad, X. 279]
[4] Trước hết việc cần thiết là suy xét những quan điểm này xem liệu chúng có đúng hay chưa. [5] Bởi vì nếu thần không tồn tại, làm sao ta có thể đặt mục tiêu theo chân các vị thần cho đặng. Lại nữa, nếu thần có tồn tại, nhưng họ lại chẳng quan tâm đến việc gì cả, trong trường hợp đó thì đi theo họ có lợi ích gì chứ? [6] Xét thêm trường hợp họ có tồn tại và cai quản mọi thứ nhưng họ lại chẳng hề câu thông gì với người phàm, và cụ thể là với chính bản thân ta, thì việc đi theo họ chẳng đáng là mục tiêu cứu cánh.
[7] Người có trí tuệ và thiện lương sau khi đã suy xét kỹ lưỡng những điều này sẽ phó thác tâm hồn mình cho ngài, đấng vận hành vũ trụ, giống như những công dân tốt phó thác vào luật pháp quốc gia. [8] Người đang được hưởng nền giáo dục nên tiếp nhận sự dạy dỗ với mục tiêu này trong tâm khảm: “Làm sao ta có thể theo gương thần linh trong mọi việc, làm sao ta có thể hành động vừa lòng thuận ý các đấng linh thiêng và làm sao ta có thể đạt được tự do?” [9] Bởi vì một người sẽ có được tự do nếu vạn vật đều quy thuận theo ý chí của anh ta và không ai có thể làm chướng ngại con người đó nữa.
[10] “Vậy chẳng lẽ tự do cũng giống như điên loạn sao thưa thầy?”
Không đời nào! Điên loạn và tự do chẳng hề có điểm chung gì với nhau.
[11] “Nhưng, trò muốn mọi điều mình ao ước đều xảy ra như ý muốn, cho dù đó là gì đi nữa.”
[12] Vậy thì anh đang trong trạng thái điên loạn rồi, anh mất trí rồi! Anh có biết rằng tự do là một điều cao quý và đáng để ta quan tâm không? Nhưng đối với ta, việc ước muốn mọi thứ diễn ra theo ý ta muốn một cách vô tội vạ không hề cao quý chút nào, mà ngược lại đó là điều tồi tệ nhất. Ví như việc viết chữ thì sao? [13] Ta có viết chữ “Dion”* theo cách ta muốn hay không? Không, mà ta được dạy phải viết nó theo cách nó được quy ước. Còn trong âm nhạc thì sao? Cũng giống vậy thôi. [14] Nói chung tất cả lĩnh vực, nghệ thuật hay khoa học đều như vậy cả. Bằng không thì chúng ta chẳng cần phải hiểu biết bất cứ điều gì, nếu mọi thứ đều tự thay đổi tùy theo ý chí của từng người. [15] Liệu có thể nói rằng chỉ trong riêng lĩnh vực này, lĩnh vực lớn nhất và quan trọng nhất, lĩnh vực của sự tự do, ta mới có thể ước muốn tùy thích chăng? Không đời nào, điều cần học được ở đây là: học cách để uốn nắn ý chí của mình theo đúng bản chất của vạn vật. Vạn vật vận hành như thế nào? Chúng vận hành theo cách vị chủ quản sắp đặt chúng định ra. [16] Ngài đặt để ra mùa hè và mùa đông, mùa trăm hoa đua nở và mùa muôn loài cằn cỗi, đặt ra thiện và ác cũng như những cặp mâu thuẫn khác vì sự hài hòa của vũ trụ, và cho mỗi chúng ta một cơ thể cùng những bộ phận cơ thể, cho ta tài sản và những con người khác để ta chung sống.
[17] Chúng ta nên tiếp cận giáo dục trước hết bằng việc khắc ghi những quy luật sắp đặt của vạn vật này trong tâm tưởng, không phải để ta thay đổi trật tự có sẵn của vạn vật (bởi vì ta không được phép làm điều đó, và sẽ chẳng tốt đẹp gì hơn nếu ta được phép làm điều đó), mà để cho vạn vật xung quanh ta tồn tại như đúng bản chất của chúng, để ta có thể giữ cho tư tưởng của mình hòa hợp với mọi điều đang diễn tiến.
[18] Ta hỏi các anh, có cách nào để chạy trốn khỏi xã hội không? Làm sao chúng ta có thể? Ta có thể thay đổi bản chất của con người bằng cách gắn bó với họ không? Ai trao cho ta quyền năng đó? [19] Về phần chúng ta, ta còn có thể làm gì, chúng ta có thể tìm ra phương pháp nào để đối xử với họ? Có cách nào để ta mặc kệ họ làm những điều họ nghĩ là đúng, trong khi chúng ta vẫn sống thuận theo tự nhiên? [20] Nhưng các anh vẫn còn bạc nhược và bất mãn, nếu các anh ở một mình, các anh nói mình bị cô lập, và nếu cách anh ở giữa xã hội các anh lại gọi những người khác là những kẻ bịp bợm và đầu trộm đuôi cướp, các anh còn tìm lỗi ở cha mẹ, con cái, anh em và láng giềng của mình. [21] Tại sao khi ở một mình, anh không gọi đó là bình yên và tự do, và xem mình ngang hàng với các đấng thần linh; khi anh ở giữa đám đông, anh không nên gọi đó là một chốn hỗn tạp hay nơi nhiễu nhương, mà là một cuộc đại tiệc hay ngày lễ hội, và rồi chấp nhận mọi thứ với tinh thần hài lòng. Vậy đâu là sự trừng phạt dành cho những kẻ không chấp nhận mọi thứ với tinh thần như thế? Hình phạt đó là họ phải sống với con người của chính mình. [22] Có người bất mãn với việc ở một mình ư? Cứ để anh ta cô độc. Một người bất mãn với cha mẹ mình? Cứ để anh ta làm một đứa con bất hiếu và tối ngày than vãn. Một người bất mãn với con cái? Cứ để anh ta làm một người cha tệ bạc.
[23] “Đáng lẽ phải tống hắn vào tù.”
Kiểu tù tội nào chứ? Anh ta đã ở trong tù rồi; bởi vì ngục tù của con người chính là nơi nào có người làm cho họ thấy trái ý nghịch lòng. Trái lại, Socrates* chưa hề ngồi tù vì ông ấy đã sẵn lòng lưu lại nơi đó.
[24] “Thế thì trò phải chịu bị què chân sao?”
Kẻ nô lệ ơi, không phải anh muốn buộc tội vũ trụ chỉ vì một cái chân bị què đó chứ? Anh không sẵn lòng hiến dâng nó vì lợi ích của toàn thể à? Anh không muốn buông bỏ nó sao? Anh không muốn dâng nó lên cho người đã ban nó cho anh một cách toại nguyện à? [25] Anh sẽ cảm thấy phật lòng và bất mãn với sự sắp xếp của thần Zeus, người đã cùng với chị em nhà Fates hiện hữu lúc anh ra đời và dệt nên sợi chỉ sinh mệnh của anh sao? [26] Anh có biết rằng anh nhỏ bé thế nào giữa vũ trụ mênh mông này?
Đó là ta nói về cơ thể của anh, bởi vì xét về trí tuệ thì anh không hề thua kém chư vị thánh thần; do tầm vóc trí tuệ không thể đo được bằng độ dài hay chiều cao mà bằng giá trị của nó.
[27] Anh còn không mau đặt tâm huyết của mình ở nơi anh ngang hàng với chư vị thần linh. [28] “Chao ôi, cứ nhìn người cha và người mẹ của con mà xem, con thật bất hạnh làm sao!” Thì sao nào? Khi đến với cuộc đời anh có quyền lựa chọn và nói: “Cầu cho người này kết hôn với người này vào giờ này để tôi được sinh ra” không? [29] Anh chẳng hề có lựa chọn đó: cha mẹ của anh phải hiện hữu trước và sự ra đời của anh đi theo sau. Sinh ra từ kiểu cha mẹ nào à? Chính từ kiểu cha mẹ đã sinh ra anh.
[30] Vậy nếu họ là kiểu người như vậy, thì anh không có giải pháp nào khác à? Chắc chắn là vậy nếu anh không biết với mục đích gì mà anh được sinh ra với nhãn quan, anh sẽ luôn bất hạnh và đau khổ nếu anh chọn cách nhắm nghiền mắt lại trong khi mọi sắc màu vẫn luôn hiện hữu xung quanh; thế thì khi tâm hồn anh vốn hàm chứa sự cao cả và vĩ đại để đối mặt với bất kỳ điều gì xảy đến, mà anh lại không hề hay biết, chẳng phải anh sẽ còn bất hạnh, khốn khổ hơn nữa? [31] Những điều xảy đến hoàn toàn tương thích với năng lực xử lý của anh, nhưng anh lại quay lưng với năng lực của mình vào đúng giây phút đáng lẽ anh phải sẵn sàng sử dụng nó và tỉnh giác. [32] Thay vào đó, hãy tạ ơn thần linh vì đã tạo điều kiện để anh có thể vượt lên trên những thứ các ngài đặt vào tầm tay của anh, và chỉ bắt anh chịu trách nhiệm cho những thứ trong phạm vi năng lực của mình. [33] Về cha mẹ của mình, các ngài chẳng bắt anh phải chịu trách nhiệm về họ, tương tự với những người anh em, cơ thể, tài sản, sự sống và cái chết. [34] Vậy chư vị bắt anh phải chịu trách nhiệm cho việc gì? Đó là việc nằm trong tầm kiểm soát của anh — vận dụng đúng những tư tưởng của chính mình. [35] Tại sao các anh phải vác theo những gánh nặng không phải trách nhiệm của mình? Các anh chỉ đang tự làm khó mình đó thôi.
1.13. Làm sao có thể làm hài lòng thần linh trong mọi việc?
[1] Khi một người hỏi Epictetus ăn như thế nào để làm hài lòng thần linh, ông trả lời: Nếu anh ăn uống có tiết chế và cảm thấy thỏa mãn, bên cạnh đó là sự điều độ, đó chẳng phải là cách ăn để làm thỏa mãn các vị thần sao? [2] Và chẳng phải khi anh gọi nước nóng đến nhưng kẻ nô lệ không trả lời, hoặc vâng lời nhưng lại chỉ đem đến nước ấm, hay cậu ta chẳng hề có ở nhà, thì việc không nổi cáu hoặc mất bình tĩnh là đã làm hài lòng các vị Thần rồi sao?
[3] “Làm gì có ai chịu được người như vậy chứ?”
Chàng nô lệ à, chẳng lẽ anh không nhẫn nhịn được với người anh em của mình, người cùng gọi Đức Zeus là cha, và được sinh ra trong cùng huyết thống, đều có nguồn gốc từ thiên thượng? [4] Hay do anh đã được đặt vào vị trí quyền lực như thế này, anh định ngay lập trở mặt thành một kẻ bạo chúa chăng? Chẳng lẽ anh không định nhớ lại thân phận của mình và của những người anh đang cai trị hà khắc? Rằng họ là quyến thuộc, là anh em, là con cái của Đức Zeus?
[5] “Nhưng ta đã mua chúng chứ chúng đâu có mua ta.” Anh có biết mắt mình đang nhìn về đâu không? Anh đang nhìn xuống mặt đất, vào hố sâu, vào những luật lệ khốn khổ của chúng ta, luật lệ của người chết*, thế nên anh không còn màng chi đến luật của thánh thần sao?
1.14. Rằng thần linh luôn coi sóc tất cả chúng ta
[1] Khi một người hỏi Epictetus rằng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng mọi hành vi của họ đều được Thiên chủ theo dõi. Epictetus trả lời, anh có nghĩ mọi thứ đều thống nhất với nhau hay không? “Trò nghĩ như vậy,” anh ta trả lời. [2] Vậy anh có nghĩ rằng vạn vật trên địa cầu này vận hành một cách thống nhất với những thứ trên trời hay không? “Trò nghĩ vậy.”
[3] Làm sao tự nhiên có thể vận hành theo một trật tự hoàn hảo như vậy nếu không có ý chỉ của Thiên chủ, khi Ngài cho cây cối đơm hoa, chúng đơm hoa, khi Ngài cho chúng sinh trưởng, chúng sinh trưởng, khi Ngài cho chúng kết trái, chúng kết trái, khi Ngài cho chúng chín quả, chúng chín quả; khi Ngài cho quả rụng, quả sẽ rụng, khi Ngài cho chúng rụng lá, chúng rụng lá, và khi Ngài cho phép chúng thu mình lại, bất động và yên nghỉ, chúng bất động và yên nghỉ. [4] Do đâu mà mặt trăng lên rồi xuống, mặt trời mọc rồi lặn, để ta có thể chứng kiến vạn vật trên mặt đất chuyển xoay và biến đổi sang thái cực bên kia của chúng? [5] Nếu cây cối và xác thân của chúng ta chịu ảnh hưởng và có mối liên hệ chặt chẽ với vũ trụ như vậy, chẳng lẽ tâm hồn của chúng ta lại không? [6] Và nếu linh hồn của chúng ta kề cận và hòa hợp với Thiên chủ như một chiết thân từ thánh thể của Ngài, chẳng lẽ Ngài không ý thức được từng chuyển động của chúng ta như những chuyển động trong chính bản thể của ngài sao?
[7] Hãy suy xét điều này: anh có khả năng chiêm nghiệm về sự vận hành thiêng liêng và quy luật biến thiên biến địa của vũ trụ cũng như hiểu biết về chuyện đời, chuyện người. Anh có khả năng uyển chuyển theo vạn vật trong nhận thức và tư duy, đôi khi đồng thuận, đôi khi đối nghịch, đôi khi lại ngờ vực. [8] Anh lại có thể lưu giữ những niệm tưởng về vô vàn những đối tượng; khi tâm trí anh chịu tác động của những đối tượng này, nó sẽ tiếp nhận những ý tưởng tùy theo ấn tượng đầu tiên của anh về chúng; và từ vô số những đối tượng này, anh diễn dịch và lưu giữ từng khách thể dưới dạng sản phẩm của trí tưởng tượng, trí sáng tạo, và cả dưới dạng ký ức.
[9] Nếu anh có thể làm được tất cả những điều này, không lẽ Thiên chủ không thể cai quản vạn vật, hiện hữu với vạn vật và câu thông được với vạn vật? [10] Mặt trời có thể chiếu soi một vùng rộng lớn của vũ trụ, chỉ có một phần nhỏ không thể chiếu đến tạo thành cái bóng của trái đất*, vậy liệu có thể có chuyện chính Ngài, người đã tạo ra mặt trời — thứ chỉ là một phần nhỏ của Đấng sáng thế nếu đem so sánh với toàn thể — và vẽ ra quỹ đạo của nó, lại không có quyền năng để nhận thức được vạn vật đang tồn tại không?
[11] Một người nói: “Nhưng trò không thể làm theo tất cả điều này cùng một lúc được.”
Tất nhiên không ai nói rằng anh có thể sánh ngang với quyền năng của Đức Zeus1. [12] Nhưng Ngài đã ban cho mỗi người một vị thần chưởng quản kề cận cạnh bên, vị thần hộ vệ của chính Ngài, và giao phó chúng ta vào vòng tay bảo vệ của vị đó, vị thần không bao giờ ngủ và không thể bị lừa gạt. [13] Ngài còn có thể giao phó chúng ta cho vị vệ thần nào tâm huyết và xuất sắc hơn vị này nữa? [14] Do đó, khi anh đóng cửa nhà mình lại và chỉ còn bóng tối ở lại với anh, đừng bao giờ nói rằng anh đang ở một mình: anh không hề đơn độc, Thiên chủ đang ở đó, cùng với vị vệ thần kia. Họ cần gì ánh sáng để nhìn thấu anh cơ chứ?
1 Epictetus sử dụng tên Zeus để thay thế qua lại cho “Thiên chủ” và “Đấng thiêng liêng”, để thể hiện chân hồn thiêng liêng của vũ trụ.
[15] Trước Đức Thiên chủ, anh phải đưa ra lời thệ nguyện giống như ba quân thệ nguyện trung thành với Caesar. Họ là thuộc hạ được trả công, nhưng họ thề rằng sẽ đặt sự an nguy của Đại đế Caesar lên hàng đầu; và anh là kẻ đã nhận được vô vàn ân điển to lớn từ Đấng bề trên, sao anh còn chưa thề nguyện, hay nếu đã thề nguyện rồi sao còn chưa làm trọn lời thề ấy? [16] Và lời thề của anh là gì? Đó là không bao giờ cãi lời, không bao giờ đổ thừa, không bao giờ tìm lỗi trong bất kỳ món quà nào của Thiên chủ, không bao giờ để ý chí nổi loạn khi anh phải thực hiện hoặc chịu đựng những gì anh cần phải trải qua. [17] Lời thề của những binh sĩ có giống với lời thề của chúng ta hay không? Binh sĩ thề sẽ không tôn kính người nào hơn Caesar, nhưng chúng ta thề sẽ đặt tinh thần tự trọng lên trên hết.
1.15. Triết học hứa hẹn điều gì?
[1] Khi một người tham vấn Epictetus về việc làm sao để người anh em của anh ta không còn hiềm khích với anh ta nữa, ông trả lời: [2] Triết học không hứa hẹn sẽ đảm bảo những điều kiện tốt đẹp thuộc về ngoại cảnh cho con người, bởi vì điều đó nằm ngoài phạm vi đối tượng quan tâm chính của triết học. Cũng giống như gỗ là nguyên liệu của người thợ mộc, và đồng là nguyên liệu của người đúc tượng, nghệ thuật sống lấy cuộc sống của từng cá nhân làm nguyên liệu của mình.
[3] “Vậy cuộc sống của người anh em tôi thì sao?”
Đó lại là nguyên liệu cho nghệ thuật sống của bản thân anh ta, nhưng đối với anh, nó lại thuộc về những thứ bên ngoài, giống như đất đai, sức khỏe, danh tiếng. Triết học không hứa hẹn bất cứ thứ gì như vậy, [4] nhưng triết học nói rằng: “Trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ giữ nguyên tắc chủ tể của ta hợp với lẽ tự nhiên.”— nguyên tắc chủ tể của ai? — “Của chính cá thể mà ta đang tồn tại trong đó.”
[5] “Nhưng trong trường hợp đó, làm sao tôi có thể ngăn người anh em của tôi nổi nóng với tôi?”
Hãy đưa anh ấy đến gặp ta và ta sẽ nói cho anh ta nghe, nhưng chuyện anh ta nổi nóng không phải là việc để ta bàn với anh.
[6] Khi người thỉnh cầu lời khuyên của ông nói: “Điều tôi muốn biết là làm sao để cư xử thuận theo lẽ tự nhiên trong trường hợp người anh em đó không muốn hòa giải với tôi?” Epictetus trả lời: [7] Không có điều gì vĩ đại có thể được thành tựu trong một lúc, điều đó cũng chẳng hề xảy ra dù với một chùm nho hay những quả lựu. Nếu anh nói với ta rằng anh muốn ăn lựu, ta sẽ trả lời: “Chờ đến mùa lựu đi rồi anh sẽ được ăn.” Hãy để cho cây lựu ra hoa và rồi kết quả, sau đó chờ ngày quả chín. [8] Cho nên, nếu ngay cả một cây lựu cũng không thể chín ngay một lúc và trong một giờ ngắn ngủi, chẳng lẽ anh lại muốn gặt hái thành quả của tâm hồn con người sau chút ít thời gian và công sức ít ỏi như vậy sao? Đừng bao giờ trông chờ vào điều đó, ngay cả khi ta bảo anh phải làm như vậy.
1.16. Bàn về Thiên ý
[1] Đừng ngạc nhiên khi những loài động vật khác có tất cả những thứ cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu thể chất của chúng, không chỉ thức ăn và nước uống mà còn nơi để trú ngụ, và chúng không cần giày dép, quần áo, chăn gối, trong khi chúng ta cần tất cả những điều đó. [2] Bởi vì những động vật đó không tồn tại vì bản thân chúng, mà sinh ra để phục vụ lợi ích nào đó, sẽ không có ích lợi gì nếu chúng cũng có những nhu cầu như chúng ta. [3] Hãy nghĩ xem mọi việc sẽ như thế nào nếu chúng ta chẳng những phải ưu tư về những nhu cầu của mình mà còn phải lo nghĩ về những nhu cầu của bầy cừu và lừa nữa, nghĩ xem chúng phải mặc gì và đi giày gì, ăn thứ gì và uống nước gì! [4] Nhưng cũng tương tự như khi những binh sĩ báo cáo với chỉ huy rằng mình đã sẵn sàng ra trận, họ đã trang bị đầy đủ giày, áo và giáp chiến — bởi vì sẽ không đúng chút nào khi người chỉ huy phải kiểm tra mũ áo của từng binh sĩ trong hàng ngũ của mình — cho nên tự nhiên cũng đã tạo tác ra động vật theo cách tương tự, chúng sinh ra để phục vụ cho sứ mệnh nào đó, luôn sẵn sàng và trang bị kỹ lưỡng, cho nên chúng ta không cần phải coi sóc chúng. [5] Nhờ vậy mà một cậu nhóc chẳng có gì trong tay ngoài một cây gậy gỗ cũng có thể chăn dắt được cả đàn cừu.
[6] Nhưng thay vì cảm thấy biết ơn vì trật tự của vạn vật, thứ đã giải thoát chúng ta khỏi phiền toái phải chăm sóc những con vật kia như chúng ta chăm sóc bản thân, chúng ta lại cả gan phàn nàn với Thiên chủ về vận mệnh của mình. [7] Nhưng ta nhân danh Đức Zeus và những vị thần tuyên bố rằng: chỉ cần một trong số vô vàn phước lành này của tự nhiên cũng đủ cho bất kỳ ai nhận ra được hồng ân từ thiên thượng rồi, nếu người đó đủ đức tôn kính và lòng biết ơn. [8] Và đừng nói với ta về những điều to tát, chỉ những điều nhỏ nhặt như sữa được tạo ra từ cỏ, phô-mai từ sữa, và len từ lông động vật; ai đã đem những thứ này đến cho chúng ta, ai đã thai nghén ra ý tưởng về chúng? “Chẳng ai cả,” một người nói. Ồ, đúng là tận cùng của vô minh và trơ trẽn!
[9] Vậy bây giờ chúng ta hãy tạm gác những tuyệt tác vĩ đại của tự nhiên qua một bên, và chỉ suy xét những đối tượng nhỏ nhặt hơn. [10] Có thứ gì vô dụng hơn râu trên cằm người đàn ông không? Vậy mà mẹ thiên nhiên chẳng phải đã biến nó thành hữu dụng sao? Chẳng phải mẹ đã dùng cách này để giúp phân biệt rạch ròi giữa nam và nữ sao? [11] Chẳng phải bản chất trong chúng ta luôn hét lớn từ xa rằng: “Ta là một người đàn ông, hãy dựa vào điều đó mà tiếp cận và cư xử với ta — chẳng cần phải hỏi thêm nữa, các đặc điểm đã quá rõ ràng rồi.” [12] Lại nữa, về trường hợp của phụ nữ, mẹ thiên nhiên đã trộn âm vực du dương vào giọng nói của họ, bà cũng không để râu mọc trên gương mặt họ. Chẳng lẽ anh nói chủng loài như con người chẳng cần có dấu hiệu phân biệt nào, để mỗi người trong chúng ta phải tự tuyên bố rằng: “Ta là một người đàn ông!” sao? [13] Nhưng rõ ràng chúng ta đã sở hữu một đặc điểm rất tuyệt vời, thật sự phù hợp và khác biệt! Tuyệt vời hơn bộ lông của gà trống và oai phong hơn bộ bờm sư tử! [14] Cho nên chúng ta phải giữ gìn những dấu hiệu mà Thiên chủ đã ban cho ta; chúng ta không được vứt chúng đi, và cố hết sức để không được làm xáo trộn những giới tính mà Ngài dùng để phân biệt chúng ta.
[15] Chúng ta chỉ được hưởng lợi từ những tác phẩm này dưới bàn tay Thiên chủ thôi sao? Không từ ngữ nào trên thế gian xứng đáng để ca ngợi và vinh danh những kiệt tác này cho đặng! Bởi vì nếu chúng ta có chút nhận thức, chúng ta còn cần làm gì khác ngoài việc xướng lên những khúc thánh ca và vinh danh Đức Chí tôn, khi ở một mình cũng như giữa đám đông, và truyền tụng lại những ân điển mà Ngài đã ban cho! [16] Khi chúng ta cày cấy, chúng ta nên hát khúc thánh ca này để ngợi ca Ngài: [17] “Thiên chủ thật vĩ đại, vì đã ban cho chúng con những phẩm vật để tồn tại trên trái đất; Thiên chủ thật vĩ đại, vì đã cho chúng con đôi tay, khả năng ăn uống, và bao tử, cho chúng con trưởng thành mà không cần lo nghĩ về điều đó, và khả năng thở trong khi say giấc nồng.” [18] Đây là bài hát chúng ta phải xướng ca mọi lúc mọi nơi, và cũng là bài thánh ca trang trọng và thiêng liêng nhất để tạ ơn Thiên chủ vì đã ban cho chúng ta khả năng hiểu được những điều này, và vận dụng chúng một cách chuẩn xác.
[19] Ngoài ra, cũng vì đa số các anh đã sống trong mù tối, chẳng phải cần có ai đó khác đại diện cho tất cả các anh hát khúc thánh ca ngợi ca vinh quang của Thiên chủ sao? Và ta, một lão già què, còn lựa chọn nào khác ngoài việc ca hát để tôn vinh Đức ngài? Nếu ta là một chú chim họa mi, ta sẽ làm nhiệm vụ của một con chim họa mi, nếu là thiên nga, thì làm việc của thiên nga. Nhưng hiện tại ta là một chủng loài có lý trí, và ta phải hát bài ca tôn vinh Thiên chủ. Đây là công việc của ta, và ta hoàn thành nó, ta sẽ không bao giờ để công việc của mình dang dở cho đến khi không còn được giao cho công việc đó nữa, và ta xin mời tất cả các anh tham gia đồng ca cùng với ta.
1.17. Nghệ thuật suy luận là điều cần thiết
[1] Do lý trí chính là thứ suy xét và làm sáng tỏ tất cả những điều khác, và bản thân lý trí không nên bị bỏ mặc mà không được suy xét, vậy ta phải suy xét lý trí bằng phương tiện nào? [2] Rõ ràng là bằng chính bản thân lý trí hoặc bằng một thứ khác. Thứ khác đó hẳn phải là một hình thức khác của lý trí, hoặc thứ gì đó cao cấp hơn cả lý trí và điều đó thì hoàn toàn không thể. [3] Nếu nó là một dạng của lý trí, vậy ai sẽ là người suy xét nó? Bởi vì nếu nó có thể tự tầm soát thì dạng lý trí được nêu ra đầu tiên cũng có thể làm điều đó. Nếu chúng ta lại mượn một hình thức lý trí khác để lý giải thì chúng ta sẽ rơi vào một vòng lặp không hồi kết.
[4] “Được rồi, nhưng việc chăm sóc tâm hồn của chúng ta mới là điều cấp bách hơn,” ai đó nói cùng nhiều tiếng phản biện khác.
Vậy các anh muốn nghe về điều đó à? Vậy thì nghe đây. [5] Giả như các anh nói với ta: “Tôi không chắc luận điểm của ông là đúng hay sai.” Và khi ta sử dụng những thuật ngữ mơ hồ, anh lại nói: “Làm ơn nói cho rành rọt,” ta sẽ mất kiên nhẫn với anh mà đáp rằng: “Nhưng có một nhu cầu cấp bách hơn!” [6] Ta cho rằng cũng bởi vì lý do này mà các triết gia lại đặt lý luận học (logic học)* lên đầu tiên, cũng giống như khi cân ngũ cốc, người ta bắt đầu bằng việc cân nhắc về hệ thống đo lường. [7] Bởi vì trừ khi chúng ta khởi đầu bằng việc xác định đơn vị đo lường, và loại con cân, ta có thể cân hoặc đo được bất cứ thứ gì sao? [8] Cho nên trong vấn đề hiện tại, nếu chúng ta không thể nắm bắt được hoàn toàn tiêu chuẩn đánh giá mà chúng ta sử dụng để ngộ ra những tri thức khác, làm sao chúng ta có thể nắm bắt được hoàn toàn những tri thức đó? Đó là điều không thể.
[9] “Vâng, nhưng đĩa cân chỉ là một mảnh gỗ, nó khô khốc và chẳng sản sinh ra được thành quả gì cả.”
Nhưng nó phục vụ cho việc cân ngũ cốc.
[10] “Và lý luận học cũng thật khô khan.”
Chúng ta sẽ quay lại điều đó sau. Nhưng ngay cả khi người ta cho là vậy, nó cũng đủ để cho chúng ta khả năng phân biệt và suy xét tất cả những thứ khác, nói cách khác, để cân đo đong đếm chúng. [11] Và ai nói những điều này? Chỉ có Chrysippus, Zeno và Cleanthes* thôi sao? [12] Chẳng phải Antisthenes* cũng nói vậy sao? Và ai đã viết: “Khởi nguyên của giáo dục là ở việc tìm hiểu các khái niệm”? Chẳng phải Socrates đã nói điều đó hay sao? Và Xenophon đã viết về ai khi ông nói rằng ông bắt đầu bằng việc tìm tòi về các khái niệm để tìm ra ý nghĩa của từng cái một?
[13] Phải chăng điều quan trọng và đáng ngưỡng mộ là làm sao có thể hiểu được Chrysippus và diễn giải được ông ấy? Ai cho rằng như vậy? [14] Vậy điều gì là thực sự đáng ngưỡng mộ? Đó là khả năng nắm bắt được ý chí của tự nhiên. Vậy các anh đã thông tỏ được điều đó bằng chính năng lực của mình? Các anh còn cần thêm điều gì? Bởi vì sự thật là mọi lỗi lầm đều không hề cố ý*, và các anh, bởi vì các anh đã hiểu được chân lý, các anh phải hành xử một cách đúng đắn.
[15] “Không, thề với trời, trò chẳng hề hiểu được ý chí của tự nhiên.”
Vậy thì ai có thể thông hiểu được điều đó và nói cho chúng ta biết đó là gì? Người ta nói đó là Chrysippus. [16] Ta đã tìm đến ông ấy để khám phá xem vị thông ngôn của tự nhiên ấy nói những gì. Ban đầu, ta không thể hiểu được ý nghĩa những lời nói của ông, và tìm một người có thể diễn giải được ông ấy. Người đó nói: “Chúng ta hãy suy xét ý nghĩa của những lời này như thể chúng được viết bằng tiếng Latin*.” [17] Ở đây có gì để biện minh cho việc một vị thông ngôn tự hào về bản thân không? Chrysippus cũng có lý do chính đáng nào để tự hào không nếu ông ấy giới hạn bản thân trong việc diễn giải ý chí của tự nhiê mà tự thân ông chẳng tuân theo ý chí ấy? [18] Bởi vì chúng ta không cần chính bản thân Chrysippus, mà chỉ cần ông ấy giúp chúng ta thấu hiểu được tự nhiên, cũng giống như chúng ta không cần bản thân nhà tiên tri, mà vì chúng ta muốn biết được tương lai thông qua ông ta, và ý nghĩa của những mặc khải được các thần gửi xuống; [19] chúng ta cũng chẳng cần bộ lòng của những tế vật, mà vì những thiên cơ được truyền tải ở chúng, chúng ta cũng không cần coi trọng những con quạ, mà phải biết chính chư thần đã gửi những mặc khải thông qua loài chim kia.
[20] Thế nên, ta đến gặp vị thông ngôn và nhà tiên tri, ta nói: “Xin xem bộ ruột này cho tôi, và cho tôi biết chúng mang tới cho tôi những dấu hiệu gì.” [21] Người kia mở bộ ruột ra và diễn giải như sau: hỡi người kia, anh có quyền năng lựa chọn, thứ vốn tự do khỏi chướng ngại và cưỡng bách. Điều đó được viết ở đây trong bộ ruột. [22] Ta sẽ chứng minh cho anh thấy trước hết qua lĩnh vực đồng thuận. Có ai có thể ngăn anh chấp nhận sự thật không? Không ai cả. Có ai có thể ép ngặt anh chấp nhận điều sai quấy? Không ai cả. [23] Chẳng lẽ anh không thấy rằng trong phạm vi này, anh có quyền được lựa chọn mà không bị chướng ngại, ép ngặt và ngăn cản? Vậy trong lĩnh vực mưu cầu và động lực thì sao? [24] Điều gì có thể khuất phục một động lực ngoài một động lực khác? Và điều gì có thể khuất phục sự yêu ghét ngoài một sự yêu ghét khác?’
[25] “Nhưng lỡ như có người dọa giết trò thì sao,” một người nói, “vậy là hắn đang ép ngặt trò đấy thôi.”
Không, chẳng phải thứ đe dọa anh đang ép ngặt anh, mà chính tư tưởng của anh cho rằng thà làm điều này còn hơn chết. [26] Cho nên chính tư tưởng của anh đã ép ngặt anh, nói cách khác, sự lựa chọn của anh đã tự ép ngặt nó. [27] Vì nếu Thiên chủ đã tạo ra chúng ta từ một phần của Ngài, và ban cho chúng ta thứ phải bị chướng ngại, cưỡng bách, dù là do Ngài hay do người khác, thì Ngài không còn đáng là Thiên chủ của chúng ta nữa, Ngài cũng sẽ không chăm lo cho chúng ta như hiện tại. [28] “Đây là điều ta tìm thấy trong buổi hiến tế,” nhà tiên tri nói, “đây là những mặc khải được gửi đến cho ngươi. Nếu ngươi muốn, ngươi được tự do. Nếu ngươi muốn, ngươi sẽ không bắt lỗi người khác, ngươi sẽ không đổ tội cho người khác, và mọi chuyện xảy ra sẽ luôn thuận hợp với ý muốn của chính ngươi và của Thiên chủ.”
[29] Vì lời tiên tri này mà ta đến với nhà tiên tri và triết gia, ta không kính ngưỡng ông vì lời diễn dịch ông ban ra, mà vì chính sự thật được tiết lộ trong lời diễn giải.
1.18. Chúng ta không nên nổi giận với những người lầm lỗi
[1] Nếu những gì các triết gia nói là đúng, rằng mọi hành động của con người bắt nguồn từ một thứ duy nhất, đó chính là cảm giác, họ chấp nhận hay phủ nhận một điều gì đó bởi vì họ cảm thấy việc đó là đúng, hay khi họ tạm gác lại nhận định của mình bởi vì họ cảm thấy sự việc đó chưa chắc chắn. [2] Cũng vậy, nói về động lực phía sau hành động nào đó, ta làm một việc bởi vì ta cảm thấy điều đó sẽ đem lại lợi lạc cho ta, và dĩ nhiên không ai nhận định một thứ là có lợi cho mình để rồi đi muốn một thứ khác. Nếu tất cả điều này là đúng, tại sao chúng ta lại nổi giận với nhiều người đến thế?
[3] “Chúng là phường đầu trộm đuôi cướp,” ai đó nói.
Theo anh trộm cướp có nghĩa là gì? “Chúng là những kẻ lầm lạc và chẳng phân biệt tốt xấu.” Vậy chúng ta nên hận thù họ hay xót thương cho họ? [4] Hãy chỉ ra chỗ sai trái của họ, và các anh sẽ thấy họ sẽ xa rời con đường tội lỗi; nhưng nếu họ còn không nhận ra, đó là vì họ đã đặt tư kiến của mình lên trên tất cả.
[5] “Vậy chẳng lẽ không được xử tử những tên trộm và phường gian dâm hay sao?” Không phải vậy, nhưng điều anh nên hỏi là: [6] “Người này đã phạm lỗi và nhầm lẫn về những vấn đề quan trọng nhất, và không chỉ mù mờ khi phân biệt giữa trắng và đen, mà còn trong quan điểm của mình về điều thiện và ác — người như vậy có đáng bị tử hình không?” [7] Nếu anh đặt câu hỏi theo chiều hướng đó, anh sẽ nhận ra sự vô nhân đạo trong lời lẽ của mình, giống như nói rằng: “Chẳng lẽ không được bêu đầu những kẻ mù và điếc này sao?” [8] Bởi vì điều tai hại nhất mà một người phải gánh chịu chính là việc đánh mất tài sản quan trọng nhất của mình, trong khi thứ giá trị bậc nhất mà bất cứ ai có thể sở hữu chính là khả năng đưa ra lựa chọn chính xác, vậy nếu một người bị khiếm khuyết khả năng đó thì tại sao anh lại còn nổi giận với họ? [9] Chàng trai à, nếu anh phải giữ cảm xúc nào đó trong lòng vì những nỗi bất hạnh của người khác, thứ cảm xúc đó phải là lòng thương xót chứ không phải hận thù*. Đừng chực chờ để công kích họ và mở đường cho oán thù. [10] Anh là ai, hỡi chàng trai? Sao lại đi dùng từ ngữ của những kẻ du thủ du thực — “Hãy cút đi cái bọn chết tiệt đáng nguyền rủa”. [11] Ồ, thế mà anh lật sang bộ mặt tri thức nhanh như vậy, và giờ lại ở vào cái thế khắc nghiệt với người khác như thế?
Vậy tại sao chúng ta lại giận dữ? Bởi vì chúng ta gán giá trị lên những thứ mà người khác trộm cắp của ta. Hừm, đừng gán giá trị lên quần áo của các anh, và các anh sẽ không giận dữ với người lấy cắp chúng. Đừng say mê nét yêu kiều của vợ mình và anh sẽ không giận dữ với kẻ gian phu. [12] Hãy nhận ra rằng một tên trộm và một kẻ gian phu không nằm trong tầm kiểm soát của anh, mà trong tầm kiểm soát của kẻ khác và ngoài phận sự của anh. Nếu anh chịu buông bỏ những thứ đó và coi chúng chẳng là gì, anh còn giận dữ với ai được nữa? Nhưng nếu anh còn ái mộ những thứ này, anh nên giận dữ với chính mình thay vì với những kẻ kia. [13] Bởi vì hãy suy xét về điều này, anh có quần là áo lụa mà hàng xóm anh thì không có, nhà anh có cửa sổ và anh muốn khoe mẽ chúng. Người hàng xóm của anh không biết điều tốt đẹp thực sự của kiếp người này là gì, anh ta cho rằng nó nằm ở việc có quần áo đẹp, đó cũng chính là quan điểm của anh. [14] Chẳng lẽ anh ta sẽ không lẻn vào để đánh cắp những bộ quần áo đó? Nếu anh khoe một chiếc bánh với những kẻ phàm ăn và rồi nhâm nhi nó trước mặt bọn họ, chẳng phải anh đang mời họ ăn cắp bánh của anh hay sao? Đừng khiêu khích bọn họ, đừng có cửa sổ, đừng trưng ra quần áo của mình.
[15] Điều tương tự đã xảy ra với ta ngày hôm nọ. Ta có một chiếc đèn sắt* đặt ở bệ thờ thần đất, và khi nghe tiếng động ở trước cửa sổ, ta chạy ngay ra xem, đến đó thì thấy chiếc đèn đã bị trộm mất. Ta tự nhủ có lẽ tên trộm đã bị động lực đầy sức thuyết phục của anh ta chi phối. Vậy thì sao? Ngày hôm sau, ta nói với bản thân: “Ngươi nên tìm một chiếc đèn bằng đất nung.” [16] Rốt cuộc thì người ta chỉ có thể mất thứ mà người ta có. “Tôi bị mất chiếc áo choàng.” Đúng, bởi vì anh có một chiếc áo choàng. “Tôi có một cơn đau trong đầu.” Vậy à, anh không bị thêm đau sừng nữa chứ? Tại sao anh lại phải phiền não vậy? Những mất mát và đau khổ chỉ ảnh hưởng đến những thứ mà ta sở hữu.
[17] “Nhưng kẻ bạo chúa sẽ còng...” Sao, hắn sẽ còng chân của anh à? “Nhưng hắn ta sẽ chặt...” Chặt gì? Đầu của anh. Thứ hắn ta không thể trói buộc và chặt đi là gì? Đó là ý chí, khả năng lựa chọn của anh. Cũng vì lý do này mà cổ nhân đã khuyên chúng ta “Hãy biết lấy chính mình.” [18] Bây giờ phải làm gì? Các anh phải bắt đầu với điều nhỏ bé và tiến lên những điều vĩ đại. [19] “Tôi bị đau đầu.” Đừng than vãn. “Tôi bị đau tai.” Đừng than vãn. Ta không nói rằng anh không được rên rỉ ngoài miệng, mà ý ta là anh không được rên rỉ trong nội tâm. Và nếu nô lệ của anh đem bông băng đến chậm, đừng thét lên, nhăn nhó và nói rằng: “Kẻ nào cũng đều thù ghét ta!” Bởi vì nói thẳng ra thì ai lại chẳng ghét một kẻ như vậy cơ chứ? [20] Từ bây giờ, nếu các anh đặt niềm tin vào những nguyên tắc này, các anh nên chọn con đường hướng thượng và tự do, đừng tin vào sức mạnh của cơ bắp như những vận động viên kia, bởi vì con người vốn không sinh ra để bất bại theo kiểu của một con lừa.
[21] Vậy thì ai là con người bất bại? Đó là người không bị điều gì nằm ngoài phạm vi kiểm soát của anh ta làm cho rối khổ. Ta lại tiếp tục quan sát con người này bằng lăng kính của một vận động viên: “Anh ta đã qua được vòng đầu tiên. Anh ta sẽ thể hiện như thế nào trong vòng thứ hai? [22] Anh ta sẽ làm gì nếu mặt trời đang đỏ lửa? Anh ta sẽ làm gì tại đại hội ở Olympia?” Cũng vậy, trong tình huống đang bàn tới, nếu anh ngỏ ý muốn cho anh ta một số tiền, anh ta sẽ nhìn mớ tiền đó bằng sự khinh miệt. Còn nếu đó là một thiếu nữ kiều diễm thì sao? Và mọi chuyện xảy ra trong bóng tối? Nếu đó là lời hứa hẹn về danh lợi? Hoặc một lời đe dọa hay nịnh bợ? Thậm chí là cái chết? Anh ta có thể vượt qua được tất cả điều này. [23] Vậy nếu anh ta đang phải vật lộn trong trời nắng cháy da cháy thịt, nếu anh ta đang ngà ngà say? Hay lúc đó anh ta đang cảm thấy suy sụp, hoặc là đang ngủ? Người có thể chiến thắng được tất cả những hoàn cảnh này, ta gọi người đó là một đấu sĩ bất khả chiến bại.
1.19. Chúng ta cư xử thế nào trước những kẻ bạo quyền?
[1] Nếu một người nào đó có ưu thế hơn người khác, hoặc luôn tự huyễn hoặc là như vậy, anh ta sẽ sinh ra cống cao ngã mạn nếu anh ta không được dạy dỗ. [2] Ví như có một kẻ bạo quyền thốt lên rằng: “Ta là kẻ quyền lực nhất thế gian!” Vậy thì anh cho ta được điều gì? Anh có thể đảm bảo rằng mọi ước muốn của ta sẽ không bị ngăn trở? Làm sao anh có thể thực hiện được điều đó trong khi anh còn chẳng thể làm được cho điều đó cho bản thân mình? Anh có thể đảm bảo rằng ta sẽ không bao giờ gặp phải điều ta muốn né tránh? Anh có thể làm được điều đó không?
Anh có năng lực để chạm đến một mục tiêu nào đó mà không hề phạm sai lầm không? [3] Làm sao anh có được khả năng đó? Nghe này, khi anh đi thuyền, anh tin vào bản thân mình hay tin vào người thủy thủ? Hay khi anh đang trên một cỗ xe ngựa, anh tin vào bản thân hay tin người đánh xe? [4] Tương tự với lĩnh vực khác. Năng lực của anh có thể vươn tới đâu?
Anh có thể nói: “Mọi người đều chú ý đến ta.” Đúng, và ta cũng chú ý đến chiếc đĩa của mình, ta chùi rửa và lau khô nó; ta cũng gắn một chiếc móc vào tường để treo bình dầu của ta. Vậy những thứ này có thượng đẳng hơn ta chăng? Không, chỉ là chúng hữu dụng đối với ta. Đó là lý do tại sao ta trân trọng chúng. Hơn nữa, chẳng phải ta cũng trân trọng con lừa của mình sao? [5] Ta cũng rửa chân và tắm táp cho nó. Chẳng lẽ anh không biết rằng mọi người đều chú ý đến bản thân mình, và chú ý cả đến anh, chẳng khác nào đối với con lừa của họ? Vì thật ra mà nói, có ai chú ý đến anh như là một con người thực thụ đâu? Hãy chỉ ra người đó cho ta. [6] Người muốn trở nên giống anh, người muốn noi gương anh như người ta noi gương Socrates?
“Nhưng ta có thể bêu đầu ngươi.”
Nói hay lắm! Ta xém chút nữa quên rằng người ta chú ý đến anh giống như cách họ lưu tâm đến bệnh cúm hay bệnh tả; người ta hẳn phải lập đền thờ cho anh, giống như thần Fever* có một đền thờ ơ thành La Mã.
[7] Vậy ai mới có thể làm quần chúng náo động và kinh sợ? Kẻ bạo quyền hay binh lính của hắn ta? Thứ mang bản chất tự do thì không thể nào bị náo loạn hoặc ngăn trở bởi bất kỳ thứ gì khác ngoài bản thân nó. [8] Thực vậy, chính tư tưởng của chúng ta là thứ làm náo động ta. Bởi vì khi kẻ bạo quyền nói với một ai đó rằng: “Ta sẽ cùm chân của ngươi,” kẻ đặt giá trị của mình vào đôi chân của anh ta sẽ đáp: “Không, xin ngài rủ lòng thương,” ngược lại, kẻ đặt giá trị bản thân vào ý chí của mình sẽ nói: “Nếu ông nghĩ rằng làm điều đó có lợi cho ông, cứ việc cùm chân tôi lại đi,” — “Ngươi không quan tâm sao?” — “Không chút nào.” — “Ta sẽ cho ngươi thấy ta mới là chủ nhân.” [9]— “Ông định làm thế nào? Thần Zeus đã ban cho ta tự do. Ông thực sự nghĩ rằng Ngài sẽ để cho đứa con của mình làm một đầy tớ sao? Ông chỉ có thể làm chủ nhân cho cái xác chết không hồn của ta, cứ việc nhận lấy đi.” [10] — “Ý ngươi là ngươi sẽ không để tâm dù ta đang đứng sừng sững ở đây?” — “Không, ta chỉ quan tâm đến ta mà thôi. Nhưng nếu ông muốn ta nói rằng ta sẽ để tâm đến cả ông, ta sẽ trả lời rằng ta chỉ để tâm đến ông không hơn gì cách ta để tâm đến chiếc nồi nấu ăn.”
[11] Đây không chỉ là biểu hiện của sự vị kỷ, bởi vì đây là thứ nằm trong bản tính của mọi loài sinh vật — đó là làm mọi chuyện vì bản thân nó. Ngay cả mặt trời cũng vận hành vì sự tồn tại của nó*, và cả Đức Zeus cũng thế. [12] Nhưng khi thần Zeus muốn trở thành “Thần ban mưa”, “Thần ban quả ngọt*” và “Đấng Cha lành của thần và người”, anh có thể thấy rằng ngài không thể thành tựu được những điều đó hoặc đạt được những danh hiệu đó trừ khi ngài đã xả thân vì công đạo. [13] Và dựa vào điều đó, ngài đã sáng tạo ra bản tính của giống loài có lý trí như chúng ta, rằng một người sẽ không thể đạt được bất cứ sự lợi lạc thực sự nào cho bản thân nếu anh ta không đóng góp cho lợi ích chung của toàn thể. [14] Vì vậy cho nên, không có gì là phản xã hội khi sống vì mình cả. [15] Anh còn trông chờ điều gì khác? Chẳng lẽ người ta không được quan tâm đến bản thân mình và lợi ích của họ hay sao? Nếu đúng như vậy thì tại sao mà tất cả mọi loài sinh vật đều có chung duy nhất một nguyên tắc vận hành, đó là tự lợi?
[16] Vậy ta nghiệm ra được gì? Khi người ta chấp niệm vào những thứ nằm ngoài phạm vi định đoạt của họ, cho rằng chúng là tốt hoặc xấu, họ sẽ phải phục tùng những kẻ bạo quyền. [17] Và giá như chỉ có những kẻ bạo quyền thôi mà không phải thêm những kẻ tôi tớ của hắn! Làm sao mà một người có thể đột nhiên trở nên sáng dạ khi Caesar giao cho anh ta phận sự cai quản chậu xú uế của ông? Làm sao mà tất cả chúng ta đều thốt lên: “Felicio* đã nói những điều thật thông thái với ta”? [18] Ta thật muốn xem anh ta bị đẩy xuống hố phân để các anh có thể lại coi anh ta là một gã hề như trước! [19] Chuyện là, trước kia Epaphroditus sở hữu một nô lệ từng làm thợ đóng giày, nhưng sau đó ông bán anh ta đi bởi vì anh ta hoàn toàn vô dụng; anh ta may mắn được người của Caesar mua về, và trở thành thợ giày của Caesar. Các anh nên tận mắt chứng kiến Epaphroditus đã quay sang kính trọng anh ta như thế nào! [20] “Dạo này anh thế nào, Felicio yêu quý của ta, nói cho ta nghe nào.” [21] Và nếu có ai đó hỏi chúng ta rằng: “Chủ của các ngươi đang làm gì?”, ông ta sẽ nhận được hồi đáp: “Ông ấy đang thỉnh vấn ý kiến của Felicio về một số vấn đề.” [22] Nhưng suy cho cùng, chẳng phải hắn đã bị bán đi chỉ vì hắn hoàn toàn vô dụng hay sao? [23] Vậy thứ gì đã biến hắn thành một người thông thái nhanh đến như vậy? Đây chính là một ví dụ cho việc đặt giá trị của mình lên những thứ ngoài phạm vi định đoạt của bản thân.
[24] “Ông ấy được ban cho chức quan bảo dân* đấy.” Mọi người gặp hắn ta đều buông lời chúc tụng; người thì hôn lên mắt, kẻ hôn lên cổ, trong khi đầy tớ của hắn hôn lên tay. Hắn về nhà và thấy tất cả đèn đều được thắp sáng. [25] Hắn leo lên đồi Capitol và hành lễ tế thần. Ta hỏi các anh từ trước đến nay có ai từng hành lễ tạ ơn thần vì những tư tưởng được dẫn dắt đúng đắn hay những nhu cầu thuận hợp với tự nhiên hay chưa? Bởi vì chúng chỉ tạ ơn thần linh vì những thứ chúng ta cho là tốt đẹp.
[26] Một người hỏi ta về chức tư tế của Augustus*. Ta nói với anh ta rằng: “Đừng dây dưa vào đó, anh sẽ chẳng được lợi lạc gì đâu.” [27]— “Nhưng khi người ta thỏa thuận các giao kèo họ sẽ đều phải viết tên ta.” — Vậy anh cho rằng, anh sẽ có mặt ở đó khi người ta đọc những thỏa thuận ấy để được nói rằng: “Đó là tên tôi đấy” hay sao ? [28] Và kể cả nếu anh có thể hiện diện trong mọi hoàn cảnh đi nữa, anh sẽ làm gì khi anh chết đi”. “Nhưng tên tuổi của ta sẽ được lưu truyền mãi.” — Khắc tên của anh lên đá đi và nó cũng sẽ được lưu lại mãi đấy thôi. Thôi nào, ai ngoài thành Nicopolis sẽ nhớ đến anh chứ? [29] “Nhưng ta sẽ được đội một vương miện bằng vàng.” —Nếu anh muốn đội vương miện đến thế, cứ lấy một vương miện bằng hoa hồng mà đội lên đầu; anh sẽ trông quý phái hơn đấy.
1.20. Làm sao lý trí có thể tự suy xét chính mình
[1] Mọi kỹ nghệ và năng lực đều chọn những thứ nhất định làm đối tượng đặc biệt để suy xét. [2] Khi kỹ nghệ hay năng lực đó có cùng bản chất với đối tượng mà nó suy xét, nó nhất định có thể suy xét chính bản thân nó; nhưng khi hai điều trên khác bản chất với nhau thì điều đó hoàn toàn không thể. [3] Ví như nghề đóng giày làm việc với da thuộc, nhưng bản thân nghề đó hoàn toàn khác biệt so với nguyên liệu của nó, những bộ da thuộc: vì lý do đó cho nên nghề này không thể tự suy xét bản thân. [4] Nghệ thuật ngôn ngữ làm việc với văn viết, nhưng nghệ thuật ngôn ngữ có phải là văn viết hay không? Chắc chắn là không: vì lý do đó nó không thể tự suy xét được bản thân. [5] Vậy thiên nhiên ban cho ta khả năng lý trí vì mục đích gì? Để chúng ta có thể xử lý những niệm tưởng một cách đúng đắn. Và lý trí là gì mới được? Là một hệ thống của những loại niệm tưởng khác nhau. Vậy dựa vào đó, bản thân nó hoàn toàn phù hợp để nhận bản thân làm đối tượng suy xét. [6] Cũng vậy, chúng ta được ban cho trí tuệ để suy xét điều gì? Điều thiện, điều ác và điều không thiện không ác. Vậy bản thân trí tuệ là gì? Là điều tốt. Còn ngu dốt? Là cái xấu. Các anh có thể thấy rằng trí tuệ có thể nhận bản thân nó, và tương tự, cái đối nghịch với nó, làm đối tượng suy xét.
[7] Vì lý do đó, nhiệm vụ quan trọng nhất của một triết gia, và cũng là nhiệm vụ đầu tiên, chính là soi xét các loại niệm tưởng và phân định chúng thật rạch ròi, không chấp nhận bất kỳ niệm tưởng nào trừ khi nó đã được suy xét kỹ lưỡng. [8] Và bàn về vấn đề với tiền tệ, lĩnh vực mà ta nghĩ rằng có ảnh hưởng đến lợi ích của chúng ta, các anh có thể thấy được cách chúng ta đã phát minh ra những phép thử, những công đoạn mà người thợ kim hoàn phải thực hiện để kiểm tra đồng xu, qua việc nhìn, chạm, và cuối cùng và nghe; [9] khi anh ta ném một đồng denarius xuống đất và lắng nghe tiếng nó rung động, anh ta không vừa ý khi lắng nghe một lần, mà phải chú tâm vào tiếng động đó hết lần này đến lần khác, đến mức tai của anh ta nhạy cảm như tai của một nhạc sĩ. [10] Và cũng vậy, trong những vấn đề mà chúng ta nghĩ rằng việc phân định phải trái, trắng đen là quan trọng, chúng ta lao tâm khổ trí để tìm ra những điều có thể dẫn dắt chúng ta đến sai lầm; [11] nhưng khi nói đến khả năng quản trị bản thân yếu kém của chúng ta, chúng ta lại ngáp ngắn ngáp dài, và cam chịu mặc cho tất cả những niệm tưởng tác oai tác quái. Cớ sự cũng vì chúng ta không hề nghĩ rằng mình sẽ phải chịu bất cứ tổn hại nào.
[12] Cho nên nếu các anh muốn biết mình thờ ơ với việc phân định đúng sai, và chỉ chăm chăm vào những thứ ngoài lề kia (thứ mang bản chất đúng hay sai) đến nhường nào, hãy đặt căn bệnh mù lòa thể chất và sự vô minh trong tâm trí lên bàn cân, và anh sẽ nhận ra mình còn lâu mới ý thức được tầm quan trọng của việc phân định rạch ròi giữa thiện và ác.
[13] “Đúng vậy, nhưng điều đó đòi hỏi chúng ta phải chuẩn bị lâu dài và nỗ lực cũng như học hỏi không ngừng nghỉ.”
Vậy thì sao? Anh thực sự muốn thuần thục món nghệ thuật quan trọng nhất trong mọi nghệ thuật chỉ với một chút cố gắng hay sao? [14] Nói thì nói như vậy, nhưng tinh hoa trong lời dạy của những triết gia có thể được nêu lại một cách rất khúc chiết. Nếu các anh muốn biết thì hãy đọc tác phẩm của Zeno, các anh sẽ thấy. [15] Bởi vì cần bao nhiêu dòng để nói lên ý “mục đích cứu cánh của chúng ta là nối gót các đấng thần linh, và bản chất của điều thiện nằm ở việc vận dụng đúng những niệm tưởng,” cơ chứ? [16] “Xin nói cho chúng tôi biết Thiên chủ là gì và niệm tưởng là gì? Bản thể trong mỗi cá nhân và bản thể trong vũ trụ là gì?” Cuộc bàn luận đã bắt đầu kéo dài hơn. [17] Nếu Epicurus đến và nói rằng điều tốt đẹp nằm trong xác thịt của chúng ta, cuộc đàm luận này sẽ còn dài nữa, và các anh cần biết được phần chủ nhân ông trong mỗi chúng ta là gì, cũng như bản thể chân thực thường hằng của chúng ta là gì. Thứ tốt đẹp của một con ốc sên chẳng thể nào nằm ở cái vỏ của nó, vậy điều tốt đẹp của con người có nằm ở khối hình hài này không? [18] Anh có sở hữu điều gì cao quý hơn thể xác này không, Epicurus? Thứ gì trong anh có thể chiêm nghiệm, suy xét mọi thứ, và giúp cho anh quyết định rằng thân thể này là phần chủ quản? [19] Và tại sao anh lại thắp đèn và bỏ công cực khổ viết ra nhiều cuốn sách như vậy vì chúng tôi? Có phải để chúng tôi không mù mờ về sự thật? Chúng tôi là ai? Và chúng tôi có can hệ gì tới anh? Vì thế cho nên cuộc tranh luận sẽ kéo rất dài.
1.21. Dành cho những ai muốn được trọng vọng
[1] Khi ai đó đã đạt được vị trí xứng đáng mà anh ta đáng có trong cuộc sống, anh ta sẽ không chạy theo những thứ phù phiếm bên ngoài nữa. [2] Chàng trai, anh muốn có điều gì? Về phần tôi, tôi sẽ hài lòng nếu tôi bộc lộ sự yêu ghét của mình thuận theo tự nhiên, và vận dụng động lực của mình để hành động hoặc không hành động đúng theo bản chất của tôi; đồng thời điều chỉnh chủ ý, dự định và tâm tùy thuận của mình theo đúng như vậy. Vậy tại sao anh lại lượn lờ trước mặt chúng ta như gà mắc tóc vậy? [3] “Điều tôi luôn hướng tới là được tất cả những người mà tôi gặp ngưỡng mộ, họ sẽ noi gương tôi và thốt lên rằng: ‘Thật là một triết gia vĩ đại!’” [4] Họ là ai, những con người mà anh muốn chiếm được sự ngưỡng vọng? Chẳng phải họ là những người mà anh thường mô tả là những kẻ điên* hay sao? Tại sao anh lại muốn được những kẻ điên ngưỡng mộ?
1.22. Về quan niệm riêng
[1] Mọi người đều có những quan niệm riêng (định kiến), và các quan niệm riêng thì không mâu thuẫn với nhau. Ai trong chúng ta cũng cho rằng điều thiện mang lại lợi ích và chúng ta phải tìm tòi, theo đuổi nó trong mọi tình huống. Và ai trong chúng ta cũng công nhận rằng lẽ công bằng là thích hợp và đáng được tán thán. Vậy mâu thuẫn sẽ xảy ra lúc nào? [2] Nó nảy sinh khi chúng ta áp định kiến của mình vào những trường hợp cụ thể, [3] như khi một người nói: “Anh ta đã hành xử đúng đắn, anh ta là một người dũng cảm” trong khi người khác nói: “Không, anh ta mất trí rồi.” Đó là lúc con người ta rơi vào bất đồng. [4] Do vậy, giữa người Do Thái, người Ai Cập và người La Mã tồn tại những quan điểm mâu thuẫn, không phải về việc liệu có nên tôn sùng các đấng thiêng liêng trên tất cả và noi gương các ngài trong mọi trường hợp hay không, mà liệu việc ăn thịt lợn là phải đạo hay trái đạo. [5] Các anh sẽ thấy rằng tranh cãi giữa vua Agamemnon và Achilles cũng phát sinh* theo cách này. Giả như họ được triệu thỉnh đến trước mặt chúng ta:
“Ông nghĩ sao, Aganemnon, người ta có nên làm điều đúng đắn và chính đáng hay không? ”
“Dĩ nhiên là có.”
[6] “Anh nghĩ sao Achilles, anh có nghĩ rằng người ta nên làm điều đúng đắn và chính đáng hay không?”
“Có, tôi hoàn toàn đồng ý.”
Bây giờ hãy áp dụng những quan niệm riêng này vào trường hợp cụ thể. [7] Chính lúc này mâu thuẫn sẽ phát sinh. Một trong hai người bọn họ nói: “Ta không nên trả Chryseis lại cho cha nàng ấy.” Trong khi người kia lại nói: “Không, chúng ta nên làm thế.” Một trong hai người họ chắc chắn đã đi ngược lại với định kiến về cách con người nên hành xử. [8] Một người lại nói: “Được thôi, nếu ta phải trao trả Chryseis, vậy ta phải có được chiến lợi phẩm của kẻ khác”, người kia đáp: “Vậy ông muốn cướp đi người phụ nữ ta yêu à”? “Đúng người phụ nữ của ngươi đấy. Chẳng lẽ ta phải là kẻ không được gì sao”? “Nếu theo như ông thì một mình ta là kẻ trắng tay hay sao”? Và từ đó mâu thuẫn nảy sinh.
[9] Vậy giáo dục chân chính nghĩa là thế nào? Đó chính là phải học cách để áp dụng quan niệm riêng của chúng ta trong từng trường hợp sao cho thuận với tự nhiên; và hơn nữa, phải biết phân biệt đâu là thứ nằm trong quyền định đoạt của chúng ta và đâu là thứ bên ngoài; [10] quyền định đoạt của ta bao gồm lựa chọn đạo đức và tất cả những hành động dựa trên lựa chọn đó, còn cơ thể và tất cả bộ phận trên cơ thể không nằm trong quyền định đoạt của ta, tương tự như với tài sản, cha mẹ, anh chị em, con cái, quốc gia, và nói tóm lại là tất cả những người có liên quan đến ta. [11] Vậy chúng ta đặt “điều tốt đẹp” của mình ở đâu? Chúng ta phải áp dụng danh hiệu đó cho kiểu thực tại nào? Chính là cho những thứ nằm trong quyền định đoạt của ta.
[12] “Nhưng chẳng phải sức khỏe là thứ tốt đẹp sao, và còn một thân thể không bệnh hoạn, đầy sức sống nữa? Không, ngay cả đến con cái, cha mẹ, và tổ quốc cũng không ư? Ai có thể chấp nhận điều ông nói chứ?”
[13] Được rồi, vậy ta hãy chuyển cái mác “tốt đẹp” đó cho những thứ mà anh nói nhé. Vậy trong trường hợp đó, một người có thể sống hạnh phúc nếu họ gặp phải tai ương và không thể đạt được những điều tốt đẹp kia không?
“Không, không thể.”
Và chúng ta có thể sống đúng nghĩa vụ với những người có can hệ với mình không? Không thể nào. Do thiên tính của ta là chăm lo cho lợi ích của bản thân. [14] Nếu ta cho rằng việc sở hữu đất đai đem cho ta lợi ích, vậy thì lợi ích của ta cũng nằm ở việc chiếm đất của hàng xóm. Nếu lợi ích của ta là ở việc sở hữu một chiếc áo choàng, vậy thì lợi ích của ta là phải trộm nó từ các nhà tắm. Đây chính là nguồn gốc của chiến tranh, bạo động, bá quyền và mưu đồ bất chính. [15] Và như thế, làm sao ta có thể hoàn thành những sứ mệnh của mình với thần Zeus? Bởi vì nếu ta phải chịu tai nạn và bất hạnh, Ngài sẽ chẳng đoái hoài đến ta. Và người ta sẽ nói: “Ta cần gì qua lại với ông thần đó nếu hắn chẳng còn giúp gì được cho ta?”, hay: “Cần gì phải dây dưa với hắn nếu hắn chẳng thể giúp ta vượt qua những khó khăn hiện tại?” Dần dà, ta bắt đầu cảm thấy ghét Ngài. [16] Vậy tại sao chúng ta lập đền thờ, dựng tượng, như thể để tôn vinh quỷ dữ, hay thờ Zeus như là một vị thần ôn dịch? Làm sao mà ngài còn có thể là Đấng cứu thế, Thần ban mưa, và Thần ban quả ngọt được? Thật vậy, nếu chúng ta đặt phần cốt tủy của điều tốt đẹp đâu đó giữa những điều này, tất cả những kết luận này cũng từ đó mà sinh ra.
[17] Vậy chúng ta cần làm gì? Đây chính là đề tài suy ngẫm của một bậc triết gia chân chính, người đang hoài thai những tư tưởng. Ông nói: “Hiện tại, ta không thể thấy được điều gì là tốt đẹp và điều gì xấu xa, vậy chắc ta bị điên chăng?” [18] Đúng, nhưng nếu ta đặt “điều tốt đẹp” ở một nơi khác, giữa những điều thuộc phạm vi định đoạt của ta thì sao? Mọi người sẽ cười nhạo ta. Những lão già tóc bạc với những chiếc nhẫn sáng loáng trên ngón tay mình, sẽ đến lắc đầu và nói với ta: “Nghe này, con trai, đành rằng người ta nên thực hành theo triết học, họ cũng phải dùng não của mình nữa. Đây hoàn toàn là điều lố bịch. [19] Anh học được những câu tam đoạn luận từ những triết gia thì tốt, nhưng khi nói về cách đối nhân xử thế, anh phải biết rõ hơn những triết gia kia rằng mình phải làm gì.” [20] Nếu tôi biết rồi thì tại sao ông còn ông bắt lỗi tôi? Ta phải trả lời kẻ nô lệ này như thế nào đây? Nếu ta giữ im lặng, ông ta sẽ nổi giận. [21] Cho nên ta chỉ có thể trả lời: “Hãy bỏ quá cho tôi như người ta bỏ quá cho người thân yêu của họ; tôi đã mất kiểm soát bản thân, tôi mất trí mất rồi!”
1.23. Phản bác Epicurus
[1] Ngay cả Epicurus cũng ý thức được rằng chúng ta về bản chất là những động vật xã hội, nhưng cũng vì anh ta đã đặt lẽ phải của mình lên lớp vỏ bọc thân xác này, anh ta không còn có thể nói gì khác hơn. [2] Bởi vì bên cạnh đó, anh ta còn kiên quyết cho rằng chúng ta không được chấp nhận hay ngưỡng mộ bất cứ thứ gì xa rời khỏi bản chất của lẽ phải, quả đúng như vậy.
[3] Nhưng làm sao chúng ta có thể là những sinh vật xã hội nếu chúng ta không có tình yêu thương tự nhiên đối với con cái chúng ta? Và tại sao Epicurus lại cố để thuyết phục những người đi tìm chân lý đừng nuôi nấng con cái của họ? Tại sao anh lại sợ rằng người đó sẽ phải chịu đựng áp lực từ việc này? [4] Liệu một con chuột được anh ta nuôi trong nhà có làm cho anh ta áp lực không? Nếu con chuột đó kêu la thì anh ta có quan tâm không? [5] Không, Epicurus biết rằng một khi một đứa con ra đời thì anh ta không có lựa chọn để từ chối yêu thương và chăm sóc nó. [6] Epicurus còn cho rằng người trí tuệ là người không dấn thân vào chính trường, bởi vì anh ta biết những điều chính trị gia phải làm. Dĩ nhiên, nếu anh muốn sống giữa xã hội loài người như sống giữa đám ruồi thì cũng chẳng ai cấm cản anh cả. [7] Nhưng Epicurus biết rõ những điều này vậy mà anh ta lại cả gan nói rằng: “Chúng ta không nên nuôi dưỡng con cái”. Nhưng ngay cả một con cừu cũng không bỏ rơi con nó, và giống sói lang cũng vậy, liệu con người có nên bỏ mặc con cái của họ không?
Điều anh muốn là gì? Rằng chúng ta đều phải ngu ngơ như những con cừu, [8] hoang dại như những con sói? Vậy mà ngay cả chúng cũng chẳng hề vứt bỏ con non của mình. [9] Hừm, ai sẽ làm theo lời anh nói khi anh ta thấy đứa con của mình khóc lóc khi vừa bị ngã? [10] Về phần ta, ta nghĩ rằng ngay cả khi cha mẹ anh từng được một nhà tiên tri báo cho biết rằng đứa con của họ lớn lên sẽ phát ngôn những lời lẽ như thế này, họ cũng sẽ chẳng vứt* anh đi đâu!
1.24. Chúng ta nên đối đầu thế nào với khó khăn?
[1] Chướng ngại làm hiển lộ nhân cách của con người; và do đó, mỗi khi các anh gặp phải gian truân, hãy nhớ rằng Thiên chủ, giống như một huấn luyện viên tại thao trường, đã ghép anh với một đối thủ trẻ khỏe, đáng gờm.
[2] “Vì mục đích gì, thưa thầy?”, ai đó hỏi.
Để anh có thể trở thành nhà vô địch Olympic; và đó chẳng phải là điều có thể đạt được mà không cần đổ mồ hôi. Theo suy nghĩ của ta, không người nào có diễm phúc được trải qua thứ nghịch cảnh đem lại cơ hội tốt hơn các anh đang có, nhưng chỉ khi anh sẵn sàng để đối đầu với nó như một vận động viên đối đầu với địch thủ trẻ, sung sức của anh. [3] Chúng ta sẽ gửi anh đến thành La Mã để làm người thám thính1, và không ai cử một kẻ nhát gan đi làm nhiệm vụ như vậy cả, kẻ mà vừa nghe một tiếng động nhỏ nhất và thấy bóng đen thấp thoáng ở phía xa đã cong đuôi lên mà chạy về báo rằng quân địch đang ở gần. [4] Cũng vậy trong trường hợp hiện tại, nếu anh quay về và nói với chúng ta rằng: “Tình hình ở La Mã đang khẩn cấp lắm rồi, cái chết thật là kinh khủng, tù đày thật là kinh khủng, nhục hình thật là kinh khủng, nghèo đói thật là kinh khủng — mọi người mau thu dọn đi, nước đã tới chân rồi!”, [5] chúng ta sẽ đáp: “Anh nên biến đi, và nói những lời tiên tri đó cho chính mình nghe thôi. Sai lầm của chúng tôi là cử một người như anh đến đó để do thám tình hình.”
1 Epictetus giảng tại Nicopolis, nói về việc cử học trò của ông đến La Mã để do thám tình hình, nơi đây đang được cai trị bởi vua Domitian, người đã ra lệnh trục xuất tất cả các triết gia.
[6] Diogenes, người đã từng được cử đi trước anh để do thám, đã đem về những tin hoàn toàn khác. Ông nói rằng: “Cái chết chẳng phải điều sai, bởi vì chẳng có gì làm ta mất phẩm giá trong cái chết.” Ông còn nói: “Tai tiếng chỉ là âm thanh mục rỗng của những kẻ điên.” [7] Và người do thám đó đã báo cáo cho chúng ta những điều về nỗi khổ, niềm vui và sự nghèo khó thật tuyệt làm sao! Ông nói: “Thà không có mảnh vải che thân còn tốt hơn khoác lên bộ áo choàng tía, và ngủ dưới đất thô còn tốt hơn ngủ trên chăn ấm nệm êm.” [8] Và để chứng minh những nhận định đó, ông ấy đã thể hiện ra sự tự tin, tâm hồn an lạc, tự do tự tại, và hơn nữa là thân thể tráng kiện, dường như luôn phát tỏa hào quang. [9] “Không có kẻ thù nào xung quanh đây cả,” ông nói, “thái bình thịnh trị khắp muôn nơi.” Ý ông là sao, Diogenes? “Nhìn ta này,” ông đáp: “Ta có bị trúng tên hay bị thương không? Ta có đang trốn chạy kẻ nào không?” [10] Đó mới chính xác là do thám thực thụ, nhưng với anh, anh lại quay trở về và nói với ta toàn những điều vô nghĩa. Hãy bỏ sự hèn nhát của mình xuống và quay trở lại để quan sát một cách chính xác hơn đi.
[11] “Con nên làm gì thưa thầy?” Anh làm gì khi thuyền cập bến? Anh có cầm theo bánh lái và mái chèo không? Vậy anh mang theo thứ gì? Thứ thuộc về anh: bình dầu và tay nải* của anh. Cho nên trong trường hợp này, nếu anh ý thức được thứ gì thuộc sở hữu của mình, anh sẽ không nhận vơ tài sản thuộc về kẻ khác. [12] Hoàng đế có thể nói với anh rằng: “Cởi bộ áo toga* đó ra.” Xem kìa, một bộ đồ trung lưu. “Cởi ra luôn cho ta.” Nhìn xem, một bộ đồ thường dân. “Cởi ra luôn.” Xem này, thần không còn mặc gì cả. [13] “Nhưng ngươi vẫn khơi dậy lòng ganh tỵ trong ta.” Vậy xin ngài hãy lấy luôn xác thịt thấp hèn này. Nếu ta có thể vứt bỏ thân xác này, ta còn phải sợ gì ông vua đó nữa.
[14] “Nhưng nói như vậy ông ấy sẽ không cho con làm người kế thừa.”
Vậy thì sao? Chẳng lẽ ta đã quên rằng không có thứ nào trong số đó là của ta? Dựa vào cái gì mà ta gọi chúng là “của ta”? Giống như ta gọi những chiếc giường ở quán trọ là của ta. Nếu người chủ quán trọ để lại cho ta những chiếc giường khi ông ta mất, thật tốt! Nhưng nếu ông ta để lại những chiếc giường đó cho người khác, chúng sẽ thuộc về người đó, và ta phải đi tìm một cái khác. [15] Và nếu anh không thể tìm được một chiếc giường khác, anh sẽ phải ngủ trên nền đất; vậy chi bằng hãy ngủ với một cái tâm thuần hậu và ngáy thật sảng khoái, hãy nhớ rằng bi kịch thường lẩn khuất giữa những hạng vương giả, người phú quý và kẻ bạo quyền, có người nghèo nào sắm vai trong những vở bi kịch đâu, trừ thành viên dàn đồng ca. [16] Những vị vua luôn bắt đầu với sự giàu sang, phồn thịnh — “Hãy trang hoàng cung điện với những vòng hoa” — nhưng đến hồi ba hoặc bốn: “Hỡi rặng Cithaeron, tại sao người lại đón nhận ta*?” [17] Này kẻ nô lệ, vương miện của anh đâu, vòng nguyệt quế của anh đâu? Cận vệ của anh có làm gì được cho anh? [18] Vậy từ đây, khi anh gặp những người quyền thế như vậy, hãy luôn nhớ rằng, anh đang đối mặt với một nhân vật của một vở bi kịch, và đó chẳng phải là một diễn viên, mà chính là Oedipus bằng xương bằng thịt.
[19] “Nhưng ông ấy thật có diễm phúc, đi đâu cũng có đoàn tùy tùng đi theo.”
Đúng, còn ta chỉ cần đi lẫn vào đám đông để thấy mình đi giữa một đoàn tùy tùng hoành tráng.
[20] Tóm lại hãy ghi nhớ điều quan trọng này: Cánh cửa luôn để ngỏ*. Đừng nhút nhát hơn một đứa trẻ con, mà hãy hành xử giống như chúng, chúng nói: “Tớ không muốn chơi nữa” khi trò chơi không còn làm chúng vui, cũng vậy, nếu anh cảm thấy mọi chuyện đang đi theo chiều hướng tương tự, hãy nói rằng: “Tôi không muốn chơi nữa” và rời đi, nhưng nếu anh chọn ở lại thì hãy ngừng than vãn.
1.25. Bàn về cùng chủ đề
[1] Nếu tất cả những điều này là đúng, và chúng ta không đơn thuần là u mê hay hành xử theo lối đạo đức giả khi nói rằng điều thiện cũng như điều ác của con người nằm ở cách họ đưa ra quyết định của mình và mọi thứ khác chẳng có nghĩa lý gì với chúng ta thì tại sao chúng ta vẫn còn để mình bị não loạn và kinh động? [2] Không ai khác có năng lực chi phối những thứ thực sự quan trọng với ta; vậy ta còn điều gì phải lo lắng nữa?
[3] “Xin thầy cho con những chỉ dẫn cụ thể.”
Ta nên cho các anh những chỉ dẫn gì? Chẳng lẽ Thiên chủ đã không ban cho các anh những điều đó sao? Chẳng phải Ngài đã dạy anh rằng điều gì của anh sẽ hoàn toàn không bị chướng ngại và giới hạn, trong khi những thứ bên ngoài anh sẽ chịu sự tác động của chướng ngại và giới hạn sao? [4] Và với chỉ thị nào mà các anh đã xuống thế giới này từ một thế giới khác, dựa vào sắc lệnh nào? Anh nên bảo vệ những thứ của mình bằng mọi giá, và đừng tham luyến những thứ của kẻ khác. Đức tin thánh thiện là của anh, lòng tự trọng là của anh, bởi vì nào có ai có quyền tước đi những điều đó từ anh? Ai ngoài bản thân anh có thể ngăn cản anh vận dụng những đức tính đó? Nhưng về phần mình, các anh nên hành xử ra sao? Khi các anh dành tâm huyết vào những thứ không phải của các anh, các anh sẽ đánh mất điều chân thật của mình. [5] Bởi vì anh đã nhận được những chỉ thị và giáo huấn từ Zeus, các anh còn muốn gì ở ta nữa? Liệu ta có tốt đẹp hơn Ngài, đáng phó thác hơn Ngài chăng? [6] Và nếu các anh làm theo những chỉ thị này của Ngài, các anh còn cần bất cứ điều gì nữa? Hãy thể nghiệm những quan niệm riêng của bản thân. Nhìn vào cách sống của những triết gia. Chiêm nghiệm những bài học anh thường được nghe, và những lời anh thường nói với bản thân mình — tất cả những gì đã đọc và học hỏi.
[7] Vậy chúng ta phải tuân theo luật lệ và không làm hỏng trò chơi cho đến khi nào? [8] Đến khi nào trò chơi vẫn đang diễn ra tốt đẹp. Tại lễ hội Saturnalia*, một vị vua được đám đông chọn ra (bởi vì họ đã quyết định chơi trò chơi đó). Ông ta ra lệnh: “Anh kia, uống đi, pha rượu đi, hát đi, đi đi, đến đây.” Ta làm theo để không trở thành kẻ phá hoại trò chơi. [9] Nhưng nếu anh ta nói: “Này tên kia, hãy làm như ngươi đang quằn quại vì bất hạnh đi.” Ta sẽ không chấp nhận điều đó; bởi vì ai có quyền bắt ta làm điều đó?
[10] Hay khi chúng ta chấp nhận nhập vai vào câu chuyện của Agamemnon và Achilles. Người được chọn vào vai Aganemnon nói với ta: “Đến chỗ Achilles và kéo Briseis* khỏi hắn ta.” [11] Ta đi. Anh ta nói: “Đến đây,” thì ta đến. Sự thật là chúng ta hành xử trong cuộc nói chuyện giả tưởng như thế nào, chúng ta cũng sẽ hành xử trong cuộc sống thực như thế đó. [12] “Hãy giả sử đang là ban đêm.” Được thôi. “Tốt, vậy đang là ban ngày sao?” Không phải, bởi vì ta đã chấp nhận rằng đang là ban đêm. “Vậy hãy thỏa thuận rằng ông đang nghĩ rằng đang là ban đêm.” Được thôi. “Giờ hãy tin rằng bây giờ thực sự là ban đêm.” [13] Điều này không phù hợp với giả định. Trong cuộc sống cũng vậy. “Chúng ta hãy giả sử rằng anh đang gặp bất hạnh.” Được thôi. “Anh đang đau khổ đúng không?” Đúng “Vậy anh đang rối khổ vì vận rủi đó?” Đúng vậy. “Nhưng bây giờ hãy giả sử rằng anh đang thực sự đau khổ.” Điều này mâu thuẫn với giả định ban đầu; và hơn nữa có một người khác* ngăn không cho ta suy nghĩ như vậy.
[14] Vậy chúng ta phải tuân theo những mệnh lệnh như vậy
cho đến khi nào? Cho đến khi chúng còn có lợi ích, miễn là ta còn giữ được quan niệm thường tình và tư tưởng của mình. [15] Nhiều người thích gây gổ và nhạy cảm quá mức, họ nói: “Đối với ta, ta không thể chịu được việc phải ngồi ăn với một gã như vậy, và phải chịu đựng hắn ta luyên thuyên về những kỳ công trên chiến trận của hắn tại Mysia hết ngày này qua ngày khác — “Bạn thân mến, ta đã kể cho anh nghe làm thế nào mà ta leo được lên đỉnh ngọn đồi rồi sau đó trở lại cuộc vây thành…” [16] Nhưng người khác nói: “Còn tôi thì sẽ dùng bữa và ngồi nghe bất cứ điều gì anh ta muốn nói.” [17] Việc của các anh là so sánh giữa hai quan điểm này. Chỉ là đừng làm bất cứ điều gì với một trái tim nặng nề hay phiền não, đừng nghĩ rằng ta là kẻ bất hạnh; bởi vì không ai ép anh phải làm điều đó. [18] Có người hút thuốc trong nhà sao? Nếu không đến mức thái quá, ta vẫn sẽ ở trong nhà; nếu thái quá, ta sẽ rời khỏi nhà. Bởi vì một người nên khắc cốt ghi tâm rằng cánh cửa luôn rộng mở.
[19] Nhưng có người nói: “Ông không được sống ở Nicopolis.” Ta sẽ không sống ở đó. “Athens cũng vậy.” Ta sẽ tránh nơi đó ra. “Cả La Mã nữa.” Ta sẽ không ở La Mã. [20] “Ông phải sống ở Gyara*.” Ta sẽ đến đó và sống. Nhưng sống ở Gyara cảm giác như sống trong một căn nhà đầy khói. Thế thì ta sẽ ra đi đến một nơi không ai ngăn cản ta dựng nhà của mình, nơi dành cho tất cả mọi người. [21] Và sau lớp áo cuối cùng này chính là xác thân của ta, chẳng còn ai có quyền năng gì để chi phối được ta. [22] Đó là lý do tại sao Demetrius đã nói với Hoàng đế Nero rằng: “Ngài có thể đe dọa thần bằng cái chết, nhưng tự nhiên cũng đang đe dọa Ngài với bản án đó.” [23] Nếu ta đặt giá trị của mình vào xác thịt đọa đày này, ta đã buông tay chấp nhận một kiếp sống nô lệ; nếu ta đặt giá trị của mình vào những thứ sở hữu đáng thương, ta cũng sẽ làm một kẻ nô lệ, [24] bởi vì như vậy là ta đã để lộ ra điểm yếu của mình để thế lực khác nắm thóp. Cũng như con rắn khi rụt đầu, ta nói: “Hãy đánh vào phần nó đang cố bảo vệ!”, các anh nên nhận ra rằng chính chỗ mà anh muốn bảo vệ nhất cũng là nơi mà kẻ chủ nhân sẽ tấn công anh. [25] Nếu anh luôn ghi nhớ điều này, anh còn xu nịnh ai, anh còn sợ sệt ai nữa?
[26] “Nhưng con muốn ngồi ngang hàng với những vị nguyên lão.”
Chẳng lẽ anh không nhận ra rằng anh chỉ đang gò bó mình vào một nơi chật hẹp và tự chèn ép chính mình sao?
[27] “Nhưng làm gì có cách nào khác để con có được chỗ ngồi tốt* ở nhà hát vòng tròn?”
Chàng trai, đừng đến đó xem và anh sẽ không bị chèn ép. Tại sao lại tạo ra vấn đề cho chính mình? Hoặc chờ cho đến khi buổi diễn kết thúc và đến ngồi vào chỗ của những nguyên lão để tắm nắng. [28] Hãy nhớ quy luật chung này: chính chúng ta là kẻ tự chèn ép bản thân mình; có nghĩa là chính tư tưởng là thứ chèn ép và gò bó chúng ta. Ví dụ, bị xúc phạm là như thế nào? [29] Thử đến bên một hòn đá và xúc phạm nó, kết quả anh nhận được là gì? Vậy nếu anh nghe như một hòn đá, kẻ xúc phạm anh thu được lợi lạc gì? Nhưng nếu hắn ta có thể nắm được điểm yếu của người hắn đang xúc phạm thì hắn ta có thể đạt được mục đích của mình. [30] “Lột đồ hắn ta.” Anh nói “hắn ta” là nghĩa làm sao? Cứ lấy bộ áo này. Xé nó đi. “Ta đã làm cho ngươi nhục nhã.” Mong sao điều đó làm lợi lạc cho ông!
[31] Đây chính là những nguyên tắc mà Socrates luôn thực hành, và đó là lý do tại sao ông luôn giữ một nét tĩnh tại trên khuôn mặt. Trong khi những người như chúng ta lại muốn học và thực hành đủ mọi thứ trừ nghệ thuật sống tự do và không khuất phục. [32] “Các triết gia luôn nói những điều nghịch lý.” Nghệ thuật nào mà chẳng hàm chứa những nghịch lý? Điều gì nghịch lý hơn việc đâm một cây kim vào mắt để hồi phục thị lực một người? Nếu nói điều đó với một người không có kiến thức về y học, chẳng phải anh ta sẽ cười vào mặt người nói sao?
[33] Vậy có gì ngạc nhiên khi triết học cũng hàm chứa nhiều sự thật có vẻ như nghịch lý đối với những kẻ vô minh?
1.26. Quy luật cuộc sống là gì?
[1] Khi một người đang đọc thành tiếng những câu tam đoạn luận, Epictetus nói: Quy luật của những câu tam đoạn luận là người đọc phải chấp nhận những điều theo sau giả thuyết. Nhưng điều quan trọng hơn chính là quy luật của cuộc sống, quy luật này nói rằng chúng ta phải hành xử theo những điều phát khởi từ tự nhiên. [2] Bởi vì trong mọi vấn đề và tình huống, nếu chúng ta muốn kiên định giữ những điều thuận theo tự nhiên, trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt ra mục tiêu không được để vụt mất những thứ xuất phát từ tự nhiên, cũng như chấp nhận những điều trái với tự nhiên. [3] Cho nên các triết gia trước tiên phải dạy dỗ lý thuyết cho chúng ta, đó là công việc dễ dàng hơn, và sau đó dẫn dắt chúng ta đến những vấn đề nan giải hơn; bởi vì về lý thuyết, không có thứ gì ngăn cản chúng ta làm theo những gì đã học, nhưng trong cuộc sống thực có rất nhiều thứ làm cho ta chệch hướng. [4] Sẽ là vô lý nếu một người nói rằng anh ta muốn bắt đầu với thực tế cuộc sống trước, bởi vì không dễ dàng gì khi xuất phát ở điểm khó khăn hơn.
[5] Và chúng ta nên vận dụng điều này để phản bác lại những bậc cha mẹ* bất mãn khi con mình dấn thân vào triết học: “Cứ cho là con đã đi sai đường và mù mờ về những bổn phận của bản thân và điều gì là phù hợp với con, thưa cha. Nhưng nếu điều này là không thể dạy được hoặc lĩnh ngộ được, lý do gì mà cha còn trách con? Hoặc nếu điều này có thể dạy được, xin hãy dạy cho con. Nhưng nếu cha không thể làm được việc đó, hãy cho phép con cầu đạo từ những người khẳng định mình đã biết tường tận. [6] Cha đang nghĩ điều gì? Rằng con cố ý chọn con đường sai trái và tránh né điều đúng đắn sao? Không đời nào!
Điều gì đã làm cho con lầm lạc như vậy chứ? Vô minh. [7] Chẳng lẽ cha không muốn con thoát khỏi màn đêm của sự vô minh đó sao? Sự giận dữ đã từng dạy cho ai nghệ thuật hoa tiêu hay âm nhạc chưa? Lại nói về nghệ thuật sống, cha có cho rằng cơn tam bành của cha sẽ dạy cho con những thứ mà con cần phải biết không?”
[8] Song, tất cả lời lẽ này chỉ có thể được thốt ra bởi một người có nỗ lực nghiêm túc để bước đi trên đạo lộ này. [9] Nhưng nếu ai đó cố tình đọc to những lời này và hay qua lại với các triết gia chỉ vì anh ta muốn khoe khoang kiến thức về tam đoạn luận của mình tại bàn ăn, anh ta còn làm gì khác ngoài việc cố gắng làm cho những nguyên lão đang ngồi gần đó phải thán phục? [10] Bởi vì những thế lực giàu có bậc nhất thế giới đang ngự trị tại kinh thành La Mã, và sự giàu sang ở đây chỉ là trò trẻ con trong mắt bọn họ mà thôi. Cho nên việc có thể làm chủ được niệm tưởng đối với một người là điều không hề dễ dàng, bởi vì những tác nhân gây phiền não luôn đầy rẫy ở đó. [11] Ta biết một người từng ôm chân Epaphroditus, nước mắt dàn dụa, nói với ông rằng anh ta đang trong tình trạng ngàn cân treo sợi tóc bởi vì anh ta chỉ còn một triệu và một nửa đồng sesterce! [12] Và các anh nghĩ Epaphroditus đã làm gì? Phá lên cười như mọi người ngồi đây sao? Không, ông đã thốt lên với vẻ ngạc nhiên: “Ồ, con người tội nghiệp, làm sao mà anh có thể giữ im lặng mãi thế, làm sao mà anh có thể chịu đựng điều đó?”
[13] Người học trò* đọc lớn những câu tam đoạn luận ban nãy lâm vào cảnh bối rối, và khi người giáo viên đã giao việc đọc cho người học trò đó cười phá lên, Epictetus liền nói: Anh đang cười chính mình đấy; bởi vì anh đã không cho người trẻ tuổi này bất kỳ chỉ dẫn nào, cũng như không xem xét xem anh ta có thể nắm bắt được những đoạn luận này không mà chỉ bắt anh ta đọc và đọc. [14] Ông nói tiếp: Vậy nếu một người không thể nắm bắt được một tam đoạn luận, chúng ta có đặt niềm tin vào anh ta khi anh ta tán dương hay bắt lỗi người khác không? Chúng ta có thể tin tưởng nhận định của anh ta về thiện và ác không? Nếu một người như vậy nói những điều không hay về người khác, liệu người kia có cần quan tâm không? Hay khi anh ta tán dương họ, họ có cảm thấy chút tự hào nào không khi những lời lẽ ấy xuất phát từ một người không thể hiểu ra mối liên hệ nhân quả trong ngay cả một vấn đề nhỏ nhặt? [15] Đây chính là viên gạch đầu tiên trong lâu đài triết học của mỗi người, ta phải nhận thức được tình trạng của ngôi vị chủ quản của chính mình. Khi một người biết được ngôi vị chủ quản của mình đang bị lung lay, anh ta sẽ không muốn ngồi trên đó để định đoạt những vấn đề quan trọng. [16] Cũng vậy, những người không thể nuốt được một đoạn văn ngắn lại đi mua nguyên một quyển luận thuyết và cố gắng để tiêu hóa nó. Kết quả là họ nôn thốc nôn tháo hoặc mắc chứng khó tiêu; rồi rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy và lên cơn sốt. [17] Đáng lẽ họ nên biết được khả năng mình tới đâu. Đúng, về mặt lý thuyết thì việc phản bác lại những kẻ ngu dốt không hề khó, nhưng trong đời sống thực có mấy ai sẵn sàng phản bác chính mình, và lại còn căm ghét những người phản bác mình. [18] Nhưng như Socrates từng nói: Cuộc đời không được suy xét* là cuộc đời không đáng sống.
1.27. Niệm tưởng sinh khởi như thế nào và chúng ta nên chuẩn bị những gì để xử lý chúng?
[1] Niệm tưởng đến với chúng ta theo bốn cách. Hoặc đúng theo bản chất của chúng và biểu hiện đúng như vậy; hoặc sai với bản chất và biểu hiện sai khác; hoặc đúng bản chất và biểu hiện sai khác; hoặc sai với bản chất nhưng biển hiện lại đúng. [2] Cho nên việc đưa ra phán quyết chính xác trong mọi trường hợp là nhiệm vụ của một tâm hồn có tu dưỡng.
Cho dù gian khó nào cản bước chúng ta, chúng ta cũng phải có giải pháp thích đáng để vượt qua nó. Nếu đó là những lời ngụy biện của phái hoài nghi và đám học giả làm não loạn chúng ta, hãy có cho riêng mình những giải pháp để giải quyết điều đó; [3] nếu có những thứ mang lớp vỏ bọc giả dối làm cho chúng mang vẻ tốt đẹp, hào nhoáng trong khi sự thực không phải như vậy, chúng ta phải tìm ra giải pháp phù hợp trong trường hợp đó. Nếu một thói quen làm cản trở chúng ta, chúng ta phải cố gắng để tìm ra giải pháp giải quyết nó. [4] Vậy giải pháp nào giúp ta trừ bỏ một thói quen? Chính là thói quen đối nghịch. [5] Các anh thường nghe những người không có tu dưỡng nói: “Ôi trời, kẻ tội nghiệp kia đã chết, cha mẹ anh ta hoàn toàn suy sụp, anh ta bị giết khi còn quá trẻ và nằm xuống nơi đất khách quê người.” [6] Hãy lắng nghe những lập luận lật ngược vấn đề, kéo bản thân mình ra khỏi những lối biểu đạt đó, đối trị một thói quen bằng một thói quen đối nghịch. Để chống lại những lời ngụy biện, ta vận dụng lý lẽ hợp lý và rèn luyện bản thân bằng lối suy luận hợp lẽ để tập quen dần với điều đó. Để đối trị lại những điều giả tạo, ta nên áp dụng những quan niệm riêng sáng rõ, mài giũa chúng cho thật sáng phòng khi cần đến.
[7] Khi trong tâm tưởng của ta, cái chết là một điều xấu ác, ta nên tâm niệm điều này, rằng nhiệm vụ của ta là tránh xa những điều xấu ác nhưng cái chết là thứ không thể tránh khỏi. [8] Vậy ta phải làm gì? Ta có thể chạy đi đâu để trốn thoát cái chết? Hãy giả sử như ta là Sarpedon*, đứa con của thần Zeus, ta có thể khảng khái nói ra những lời cao quý: “Ta sẽ ra trận với quyết tâm khẳng định mình trong cuộc chiến hoặc nhường cho người khác cơ hội đó; bởi vì nếu ta không thể thành tựu cơ đồ cho mình, ta cũng sẽ không ganh ghét khi người khác đạt được vinh quang cho chính họ.” Cứ cho rằng sự cao quý đó vượt ngoài chúng ta, chẳng lẽ việc tư duy như vậy cũng nằm ngoài khả năng của chúng ta sao? [9] Và ta có thể trốn đi đâu để thoát khỏi cái chết? Hãy chỉ cho ta một chỗ, cho ta biết ta phải cầu cạnh ai, cho ta một phép mầu để bảo vệ mình khỏi tử thần. Nếu chẳng có cách nào, anh còn bắt ta phải làm gì nữa? Ta không thể trốn chạy cái chết; [10] nhưng liệu ta có trốn được nỗi sợ hãi cái chết không? Và ta có phải chết trong đau khổ và quằn quại hay chăng? Bởi vì căn nguyên của mọi đắm luyến chính là tham cầu những điều không thể xảy ra. [11] Cho nên nếu ta có thể thay đổi ngoại cảnh theo ý muốn, ta sẽ làm điều đó; nếu không thể, ta sẽ muốn móc mắt những kẻ đứng cản đường ta. [12] Bởi vì đó là bản chất của con người, chúng ta không thể bị tước đoạt điều tốt đẹp, và rơi vào điều xấu xa. [13] Và rồi cuối cùng, khi ta không thể chi phối mọi thứ hay moi mắt kẻ ngáng đường ta, ta sẽ quỵ xuống than khóc, ném những lời nói và cử chỉ cay độc khắp muôn nơi, ném vào cả thần Zeus và những vị thần khác. Bởi vì nếu họ không thể chăm lo cho ta, thì họ còn có nghĩa lý gì với ta nữa? [14] “Như vậy thì thầy sẽ phạm tội bất kính với thần linh.”
Mọi chuyện còn trở nên tệ hơn với ta được nữa sao? Nói tóm lại, ai cũng cần phải ghi nhớ điều này: trừ khi lòng mộ đạo song hành với lợi ích cá nhân, chẳng ai có thể giữ được lòng mộ đạo cả. Nhận định này có thuyết phục được các anh không? [15] Ước chi một tín đồ của Pyrrho hoặc một hội viên Viện hàn lâm1 bước lên và phản bác. Về phần ta, ta không có hứng thú với những tranh luận như vậy, ta cũng không thể đứng ra bênh vực cho những lý lẽ thường tình. [16] Ngay cả khi phải theo đuổi một vụ tranh chấp đất đai, ta sẽ nhờ ai đó thay mặt ta làm điều đó. Vậy ta sẽ hài lòng với kiểu tranh luận nào? Chính là những tranh luận về vấn đề trong tầm tay của ta. [17] Ta không thể biết rõ cách mà cảm giác sinh khởi, liệu nó dấy động toàn bộ cơ thể hay chỉ một phần. Nhưng ta biết một điều chắc chắn rằng ta và các anh không phải cùng một người. [18] Và tại sao lại như vậy?
1 Vấn đề tranh luận chính giữa phe tín đồ Pyrrho cùng với Viện hàn lâm và phe triết gia khắc kỷ đó là: “Liệu có một tiêu chuẩn nào cho sự thật hay không; và liệu các giác quan có đáng tin cậy, hay sự thật về những sự vật, sự việc được tiếp nhận qua các giác quan”.
Bởi vì khi ta muốn ăn một miếng thức ăn, ta không bao giờ đem đến miệng của anh, mà đưa lên miệng của ta. Khi muốn lấy một ổ bánh mì, ta không đến cầm cây chổi mà đến thẳng ổ bánh mì như là đến mục tiêu của ta. [19] Và các anh (những người theo tư tưởng Pyrrho) có làm khác như vậy chăng? Ai trong số các anh khi muốn đến nhà tắm lại đi đến nhà máy xay?
[20] “Vậy thì chúng ta phải dành tâm huyết để gìn giữ lý lẽ thường tình và không để cho mình lung lay trước những ý kiến đối nghịch đúng không thưa thầy?”
[21] Quả là vậy. Nhưng chỉ những người có khả năng và nhàn rỗi mới nên dành tâm trí cho điều này; còn với những người vẫn bị lung lay bởi nỗi sợ, những người còn phiền não, những người ôm trái tim tan nát trong mình thì anh ta tốt hơn nên dành thời gian cho những điều khác.
1.28. Chúng ta không nên nổi nóng với nhau; và điều gì là nhỏ nhặt, điều gì là lớn lao trong nhân loại?
[1] Chúng ta chấp thuận một điều gì đó vì lý do gì? Bởi vì ta cho rằng điều đó đúng. [2] Nếu một điều khác không đúng theo ý ta, ta không thể chấp nhận điều đó. Và tại sao như vậy? Vì đó là bản chất của tâm trí, nó đồng ý với những điều đúng, không chấp thuận những điều sai, và tạm gác lại sự phát xét với những điều chưa chắc chắn. [3] Bằng chứng nào chứng minh điều đó? Hãy thuyết phục bản thân rằng bây giờ là ban đêm. Điều đó là không thể. Hãy thuyết phục mình bây giờ không phải ban ngày. Điều đó cũng không thể. [4] Cho nên mỗi khi ai đó chấp thuận một điều sai trái, ta phải biết rằng anh ta không hề cố ý chấp nhận điều sai trái đó (“bởi vì mọi tâm hồn đều bị trộm mất chân lý mà không hề hay biết”, như Plato đã quán xét), [5] mà điều sai đó là đúng trong mắt anh ta. Vậy trong hành động, có điều gì tương tự như khái niệm đúng sai trong nhận thức hay không?
Chính là hành động phải lẽ và trái lẽ, lợi lạc và không lợi lạc, phù hợp với ta và không phù hợp với ta, v.v..
[6] “Thưa thầy, chẳng lẽ không có ai nghĩ về một điều có lợi cho anh ta rồi lại quyết định không làm điều đó sao?”
Không có.
[7] “Vậy tại sao Medea lại nói:
Ta biết điều ta định làm là lầm lỗi,
Nhưng cơn thịnh nộ lại là chủ nhân của những kế hoạch của ta?*
Bởi vì nàng ta chỉ chăm chăm vào một thứ duy nhất, làm sao để thỏa mãn cơn tam bành của mình và trả thù người chồng, và cho việc đó là lợi lạc hơn việc bảo toàn tính mạng cho những đứa con nàng.
[8] “Vâng, nhưng nàng ta đã lầm lạc.”
Hãy chỉ cho nàng ta thấy rằng nàng ta đã sai rành rành và nàng ta sẽ không đi theo con đường đó nữa; nhưng nếu không có ai bảo ban, nàng ta có thể làm gì khác ngoài việc làm theo những gì nàng ta cho là đúng nhất? Chẳng làm được gì khác cả. [9] Tại sao các anh tại căm phẫn nàng, một người phụ nữ bất hạnh, bởi vì nàng đã lầm lạc trong những lựa chọn quan trọng nhất, và đã đánh đổi nhân tính để trở thành loài rắn độc? Chẳng phải đáng lẽ các anh ít nhiều gì cũng nên thương xót cho nàng sao? Và cũng như ta thương xót kẻ mù lòa và người què quặt, chẳng phải chúng ta cũng nên thương xót những người bị mù quáng và khuyết tật trong năng lực tự chủ của họ sao?
[10] Bất cứ kẻ nào ghi nhớ kỹ điều này: con người suy xét hành động của mình bằng những niệm tưởng. Dĩ nhiên chúng có thể tốt hoặc xấu; nếu tốt, anh ta sẽ không phải hổ thẹn; nếu xấu, anh ta sẽ phải gánh hậu quả, bởi vì không đời nào một người sống lầm lạc mà người khác phải chịu phạt cả — kẻ nào ghi nhớ điều này sẽ không bao giờ căm giận bất cứ ai và không bao giờ chèn ép, phê phán, thù hận và xúc phạm bất cứ ai.
[11] “Những nghĩa cử vĩ đại và những hành vi đồi bại cũng xuất phát từ đó sao, thưa thầy?”
[12] Đúng vậy, từ căn nguyên đó chứ không ở đâu khác cả. Sử thi Iliad suy cho cùng cũng chỉ nói về những niệm tưởng và việc vận dụng chúng chứ không có gì khác cả. Một niệm tưởng đã thôi thúc hoàng tử Paris đưa người vợ của vua Menelaus đi, và một niệm tưởng đã thôi thúc hoàng hậu Helen đi cùng chàng ta. [13] Vậy giả như lúc đó, một niệm tưởng đã làm cho Menelaus cảm thấy rằng việc mất đi một người vợ như vậy là chuyện tốt đẹp thì điều gì sẽ xảy ra? Không chỉ sử thi Iliad sẽ biến mất mà sử thi Odyssey cũng vậy*.
[14] “Sao cơ? Những sự kiện vĩ đại đó chỉ bắt nguồn từ những điều nhỏ bé như vậy thôi sao?”
Anh có ý gì khi nói sự kiện vĩ đại? Là chiến tranh và xung đột, là thiệt hại nhân mạng, là thành trì điêu tàn? Có điều gì vĩ đại trong những thứ đó?
“Thầy cho đó là phù phiếm sao?”
[15] Có gì vĩ đại trong việc thảm sát hàng vạn con cừu và bò, trong việc đốt phá vô số tổ chim én và cò?
[16] “Nhưng hai việc đó giống nhau sao?”
Hoàn toàn giống nhau. Một bên là thân thể con người bị hủy hoại, một bên là cơ thể của cừu và bò. Một bên nơi ở của con người bị hủy hoại, một bên là tổ của những chú chim. [17] Có điều gì vĩ đại hay tồi tệ ở đây? Chỉ cho ta thấy nhà cửa của con người khác gì một cái tổ cò. Trừ việc chúng ta xây nhà từ gỗ, gạch và ngói, trong khi loài cò xây tổ của chúng bằng cành cây và đất sét?
[18] “Vậy một con cò và một con người xếp ngang hàng hay sao thưa thầy?”
Anh muốn nói gì vậy? Về xác thịt này, cả hai hoàn toàn tương đồng.
[19] “Vậy con người chẳng khác gì hơn con cò sao?”
Không phải như vậy, nhưng về mặt xác thịt thì cả hai đều giống nhau.
“Vậy hai loài khác nhau ở mặt nào thưa thầy?”
[20] Cứ thắc mắc đi và anh sẽ thấy sự khác biệt nằm ở nơi khác. Xem xem có phải nó không nằm ở thực tế rằng con người hiểu được điều anh ta đang làm; xem có phải nó không nằm ở tính đoàn kết, lòng trung thành, biết hổ thẹn, lòng kiên định, trí tuệ của anh ta hay không. [21] Vậy điều đại thiện và điều đại ác nằm ở đâu trong con người? Trong chính điều làm cho con người khác biệt so với những chủng loài khác; và nếu sự khác biệt đó được giữ gìn và hộ trì chắc chắn, nếu lòng tự trọng, lòng trung thành và trí tuệ của con người không bị trở ngại, vậy thì con người đó sẽ được toàn vẹn; nhưng nếu bất cứ đức tính nào kể trên bị hủy hoại hoặc cuốn đi theo giông bão thì bản thân con người đó cũng bị tàn hoại theo. [22] Điều này cũng đặt nền móng cho những sự kiện vĩ đại trong nhân loại. Có phải hoàng tử Paris đã thất bại khi quân Hy Lạp tới và thiêu rụi thành Troy, và khi anh trai của chàng ta thất trận? [23] Không đúng, bởi vì không có ai thất bại vì hành động của kẻ khác cả, không, sự kiện đó chỉ như những cái tổ cò bị hủy hoại thôi. Thất bại của chàng ta là khi chàng đánh mất cảm giác hổ thẹn, lòng trung thành, sự tôn trọng dành cho hòa ước, và sự đứng đắn của một con người. [24] Và khi nào thì Achilles thất bại? Khi Patroclus1 chết sao? Không đúng. Mà là khi chàng ta nổi trận lôi đình*, khi chàng khóc than vì một thiếu nữ, và khi chàng quên rằng mình ở đó để chỉ huy cuộc chiến chứ không phải vì tình yêu hèn mọn.
1 Patroclus: Chiến hữu thân cận của Achilles, bị Hector giết chết khi giả dạng Achilles tấn công thành Troy.
[25] Đây mới chính là cuộc đại suy vong của con người, là thành trì bị vây hãm, là sự sụp đổ của vương triều, khi mà quyết định sáng suốt bị lật đổ và mọi thứ khác bị tàn hoại.
[26] “Nhưng khi những người phụ nữ bị bắt đi và những đứa trẻ bị bắt làm nô lệ, khi những người đàn ông bị tàn sát không thương tiếc thì đó có phải là những việc ác hay không?”
[27] Anh đã học được điều này từ đâu? Nếu điều đó đúng thì hãy dạy cho ta.
“Không, con không dám, nhưng làm sao thầy có thể nói đó không phải là điều ác được?”
[28] Chúng ta hãy quay lại với những chuẩn mực của mình, hãy xét về những quan niệm riêng. Bởi vì chúng ta không đời nào có thể hết bàng hoàng trước những điều con người có thể làm. Khi chúng ta đo cân nặng, chúng ta không đo một cách ngẫu nhiên; khi chúng ta muốn suy xét sự vật có hình dạng thẳng hay cong, ta cũng không ngẫu nhiên mà đoán ước. [29] Nói tóm lại, khi cần biết một sự thật quan trọng, không ai trong chúng ta chọn cách ngẫu nhiên cả. [30] Nhưng khi cần biết về căn nguyên ban đầu và duy nhất của hành động đúng đắn hay sai lầm, của thành công hay thất bại, của may mắn hay bất hạnh, chúng ta lại hành xử theo lối ngẫu nhiên và nóng nảy. Không có một thang đo, không có chuẩn tắc nào cả, theo kiểu: một niệm tưởng dấy khởi và ta phải ngay lập tức xử lý nó. [31] Ta có gì hơn Agamemnon và Achilles, trong khi họ đều bị niệm tưởng của mình dắt mũi đi làm những chuyện lầm lạc, ta có thể yên tâm về những niệm tưởng của bản thân chăng? [32] Thảm kịch còn có căn nguyên nào ngoài điều này nữa. Vở kịch Atreus của Euripides nói về chuyện gì? Tất cả đều quy về vấn đề của niệm tưởng. Vở Oedipus của Sophocles? Những niệm tưởng. Vở Phoenix (Phụng hoàng)? Những niệm tưởng. Và vở Hippolytus (Chàng Hippolytus)*? Những niệm tưởng. [33] Các anh gọi những kẻ luôn chạy theo tất cả những dòng tâm thức sinh diệt liên tục trong đầu mình là gì? “Là những kẻ điên.” Hừm, đó chẳng phải là điều tất cả chúng ta thường làm hay sao?
1.29. Bàn về tính kiên định
[1] Bản chất của thiện và ác nằm chính trong ý định của mỗi người. [2] Vậy ngoại cảnh là những thứ gì? Chính là những nguyên liệu cho ý định của chúng ta, khi tương tế với những thứ này, ý định sẽ mang màu sắc tốt hoặc xấu. [3] Vậy làm sao để ý định được thuần lương? Bằng cách không xem trọng vật chất quá mức. Bởi vì nhận thức đúng đắn về vật chất sẽ làm cho ý định được thuần lương, còn nếu nhận thức bị sai lệch và lầm lạc, ý định cũng sẽ tha hóa theo. [4] Đó cũng chính là quy luật mà Đấng sáng tạo đã đặt ra, Ngài nói rằng: “Nếu con muốn điều gì tốt đẹp, hãy thủ đắc điều đó từ bản thân mình,” trong khi các anh lại nói: “Không, hãy lấy nó từ nơi khác.” [5] Cho nên khi một kẻ bạo quyền đe dọa và cho vời ta đến, ta liền hỏi: “Ông đe dọa ta điều gì?” Nếu hắn ta nói: “Ta sẽ cùm ngươi lại,” ta đáp: “Vậy ông chỉ đang đe dọa chân và tay của ta thôi.” [6] Nếu hắn nói: “Ta sẽ bêu đầu nhà ngươi,” ta đáp: “Ông chỉ dọa dẫm cái đầu của ta thôi.” Nếu hắn nói: “Ta sẽ ném ngươi vào ngục tối,” ta đáp: “Vậy chỉ dọa được xác thịt đáng thương này của ta thôi,” và nếu hắn dọa cho ta đi đày, ta cũng sẽ nói điều tương tự.
[7] “Vậy hắn ta chẳng đe dọa được thầy sao?”
Những lời đe dọa kia đều là công cốc nếu trong mắt ta, tất cả những thứ trên chẳng có nghĩa lý gì. [8] Nhưng nếu ta lo nghĩ về bất cứ thứ gì kể trên, tức là ta đã mắc vào lời đe dọa kia rồi. Ta còn sợ hãi kẻ nào nữa, và hắn chi phối được gì ở ta? Hắn có quyền uy đối với những thứ trong phạm vi định đoạt của ta sao? Nhưng kẻ như vậy không có trên đời. Hắn chi phối được những thứ ngoài phạm vi định đoạt của ta? Tại sao ta phải bận tâm về những thứ như vậy?
[9] “Các triết gia như thầy dạy mọi người phải khinh rẻ các bậc quân vương có đúng chăng?”
Không đời nào! Ai trong chúng ta lại dạy các anh phải phản kháng lại họ trong phạm vi mà họ có toàn quyền quyết định? Hãy lấy thân xác của ta, lấy tài sản của ta, lấy danh dự và những họ hàng thân hữu. Nếu ta có thúc giục bất cứ ai phản kháng theo lối đó, thì làm ơn ai đó hãy lên án ta!
[11] “Đúng, nhưng con còn muốn chi phối những tư tưởng của thầy.”
Và ai ban cho anh quyền lực đó? Làm sao anh có thể kiểm soát được tư tưởng của người khác?
[12] “Bằng cách nắm thóp nỗi sợ của một người, con có thể nắm toàn quyền định đoạt đối với anh ta.”
Anh không hiểu một điều rằng chỉ có tư tưởng mới có toàn quyền định đoạt chính nó, và không thể bị chi phối bởi một người khác. Và không điều gì có thể định đoạt lựa chọn của chúng ta, trừ bản thân lựa chọn đó. [13] Đó là lý do tại sao quy luật của Thiên chủ là hoàn mỹ và công bình nhất: “Hãy để cái mạnh mẽ chiến thắng cái yếu hèn.”
[14] “Mười người thì mạnh hơn một người,” ai đó thốt lên. Về mặt nào? Về mặt gông cùm người khác, tước đoạt mạng sống của họ, kéo họ đi bất kỳ đâu chúng muốn, trấn lột tài sản của họ. Đúng, mười người chắc chắn có ưu thế hơn một người vì họ mạnh hơn về mặt đó.
[15] “Vậy họ thua kém ở mặt nào?”
Nếu một người có tư tưởng đúng đắn và những kẻ khác không có. Vậy thì làm sao bọn họ có thể khuất phục người kia về mặt đó? Làm sao điều đó có thể xảy ra? Nếu chúng ta cùng bước lên cân thì có phải người nặng hơn sẽ luôn làm cán cân nghiêng về họ không?
[16] “Giữ tư tưởng như Socrates đã làm để rồi chịu kết cục bi thảm dưới bàn tay của người Athens như vậy sao, thưa thầy?”
Tại sao anh lại nói đến “Socrates” ở đây, hỡi chàng nô lệ? Hãy nêu lên vấn đề đúng với bản chất của nó, phải nói rằng: “Để cho xác thân đáng thương bị bắt bớ và tống vào trong ngục bởi bàn tay của những kẻ vai u thịt bắp, để cho kẻ khác có thể ép thân xác của Socrates uống nước cây độc cần, và để cho thể xác của ông nguội lạnh và chết đi.” [17] Anh có cho việc này là lạ thường không? Có bất công không? Có phải vì chuyện đó là anh phê phán Thiên chủ? Socrates chẳng được lợi ích gì sao? [18] Đối với Socrate thì bản chất của điều thiện nằm ở đâu? Người ta nên lắng nghe ai trong lĩnh vực này, nghe anh hay nghe ông ấy? Vậy ông ấy sẽ nói gì? Ông nói: “Anytus và Meletus1 có thể giết ta, nhưng họ không thể tổn hại ta,” và: “Nếu là ý trời thì hãy cứ làm theo như vậy đi.”* [19] Nhưng hãy chứng minh cho ta thấy kẻ có tư tưởng lung lay có thể thắng được người có tư tưởng kiên định. Anh sẽ không thể chứng minh được điều đó, thậm chí chẳng thể tìm ra được một bằng chứng nào. Bởi vì quy luật của thiên nhiên và Thiên chủ là “Cái mạnh sẽ luôn thắng cái yếu.” Về mặt nào? Về mặt nào cái mạnh cũng chiếm ưu thế hơn. [20] Có cơ thể khỏe mạnh hơn cơ thể khác, nhiều người mạnh hơn một người, tên trộm mạnh hơn người thường. [21] Đó là lý do ta mất chiếc đèn của ta*, bởi vì tên trộm kia đã giỏi hơn ta ở khoản thức đêm. Nhưng anh ta đã phải trả một cái giá quá đắt cho chiếc đèn đó, bởi vì để đổi lấy một chiếc đèn mà hắn phải trở thành một tên trộm, đặng một chiếc đèn để nhận lại tà kiến, đặng một chiếc đèn để làm giống thú cầm hoang dại. Thế mà hắn ta lại nghĩ đó là một cuộc đổi chác có lời cơ đấy!
1 Anytus và Meletus là hai người phán xử trong phiên tòa buộc tội Socrates.
[22] Vậy đấy. Rồi lại có kẻ tóm lấy áo choàng của ta và kéo xềnh xệch ta vào chợ, trong khi những người xung quanh nói vọng theo: “Nói cho ta nghe, cái ông triết gia gì đó ơi, tư tưởng của ông giúp gì được cho ông? Bởi vì nhìn xem, ông đang bị kéo lê đến nhà lao; nhìn xem, ông chuẩn bị mất đầu đấy!”
[23] Và nói ta nghe bộ môn triết học nào có thể cứu ta khỏi bị lôi đi như vậy nếu một gã đô con đến túm lấy áo choàng của ta, hay cứu ta khỏi bị ném vào tù nếu có mười gã đến bắt bớ và ném ta vào tù? [24] Nhưng chẳng lẽ ta không học được điều gì khác sao? Ta đã học để thấy rằng mọi việc xảy ra chẳng hề làm phiền đến ta nếu chúng nằm ngoài phạm vi định đoạt của ta. [25] Anh có nhận ra điều này mang lại lợi ích cho anh không? Nếu có thì tại sao anh còn truy tầm lợi ích ở nơi khác ngoài những điều anh đã học? [26] Khi ta ngồi trong tù, ta cũng sẽ nói: “Kẻ la hét với ta không hiểu chút gì về những điều mình được răn dạy, cũng không thực hành những gì được chỉ bảo, nói tóm lại, anh ta chẳng bỏ chút tâm lực nào ra để hiểu được lời nói hay việc làm của những triết gia. Đuổi anh ta ra đi.”
[27] Có kẻ nói: “Người có thể ra khỏi tù bây giờ.”
Nếu anh không cần nhốt ta trong tù nữa, ta sẽ đi; nếu anh cần, ta sẽ quay lại.
[28] “Đến chừng nào?”
Chừng nào lý trí ta còn lựa chọn ở lại với xác thịt đáng thương này; nhưng khi lý trí không cần cơ thể này nữa, hãy đem nó đi giúp ta, và xin gửi lời chào tốt đẹp đến anh! [29] Chỉ là đừng bắt ta phải buông bỏ xác thân này một cách thiếu suy xét, hay vì hèn nhát, hay vì cái cớ tùy tiện nào đó. Bởi vì như vậy sẽ đi ngược lại với ý chí của Thiên chủ: Ngài cần thế giới này và các sinh vật sống trên đại địa này. Nhưng nếu Ngài ra hiệu cho ta rút lui, như đã ra hiệu cho Socrates, thì ta phải tuân phục người ra hiệu lệnh như tuân lệnh một tướng quân.
[30] “Thưa thầy, chúng ta có nên rao giảng điều này với quần chúng không?”
[31] Để làm gì? Chẳng phải tự mình thuyết phục mình là đã đủ rồi sao? Khi lũ trẻ chạy đến chỗ chúng ta, vỗ tay và nói: “Hôm nay là một ngày lễ Saturnalia* tốt đẹp, hãy chung vui với chúng con!”, chúng ta có trả lời chúng: “Chẳng có gì để ăn mừng cả” không? Dĩ nhiên là không, chúng ta vỗ tay lại với chúng. [32] Cũng vậy, anh phải làm điều tương tự — khi anh không thể làm người khác thay đổi quan điểm của mình, hãy xem như người đó là một đứa trẻ và vỗ tay theo anh ta. Hoặc nếu anh không muốn hưởng ứng theo, anh chỉ cần giữ im lặng.
[33] Một người luôn phải khắc ghi điều này, và khi chúng ta được xướng tên để đối mặt với bất kỳ thử thách nào như vậy, chúng ta nên biết rằng đã đến lúc để chúng ta thể hiện xem mình đã thể nhập được triết học chân chính hay chưa. [34] Bởi vì một người trẻ tuổi tạm gác lại sự học của mình để đương đầu với một thử thách như vậy cũng giống như một người học cách để giải các câu tam đoạn luận, và khi ai đó đưa ra một câu dễ dàng, anh ta nói: “Không, hãy cho ta một câu khó hơn, để ta có thể được rèn giũa thêm.” Cũng vậy, những lực sĩ không thích đấu với những thanh niên trẻ thấp bé nhẹ cân. [35] “Chàng trai trẻ đó còn không thể nhấc ta khỏi mặt đất,” họ nói. Đây cũng là thái độ của một người tuổi trẻ tài cao. Nhưng các anh thì không, khi thời vận đến, các anh lại ngồi đó than khóc ỉ ôi và thốt lên: “Ta muốn được học thêm.” Học gì cơ? Nếu anh không học để áp dụng những điều này vào thực tế thì từ đầu anh học để làm gì? [36] Ta nghĩ rằng sẽ có những người trong số chúng ta đang ngồi đây cảm thấy đau đớn quằn quại trong tâm trí như phụ nữ khi lâm bồn và thốt lên: “Tại sao gian khổ kia không giáng lên đầu ta như người kia đang đối mặt? Chẳng lẽ ta phải phí thời gian chôn chân mình trong một xó xỉnh trong khi ta có thể được trao vòng nguyệt quế tại Olympia? Chừng nào mới có người đem đến cho ta tin tức về một cuộc thi như vậy?” Đây mới chính là tinh thần mà tất cả các anh phải thể hiện. [37] Ngay cả trong hàng ngũ các đấu sĩ giác đấu của Caesar Đại đế, có những người cảm thấy chộn rộn vì không có ai đưa họ ra đấu trường hoặc ghép cho họ một đối thủ, họ cầu nguyện Thiên chủ và đến gặp người quản giáo để xin được thượng đài. Vậy chẳng ai ngồi đây thể hiện được khí chất như những người đó sao? [38] Đây là lý do tại sao ta muốn giong buồm tới đấu trường thành La Mã để xem người học trò lực sĩ của ta thực hiện nhiệm vụ dành cho anh ấy như thế nào. [39] “Con không muốn một nhiệm vụ như thế này.” Anh ấy nói. Vậy anh có quyền để chọn bất kỳ nhiệm vụ nào mà anh muốn không? Anh đã được ban cho cơ thể như vậy, cha mẹ như vậy, anh em như vậy, tổ quốc như vậy, và một vị trí ở trong đó, vậy mà anh lại đến và nói với ta: “Hãy đổi nhiệm vụ của con.” Chẳng lẽ anh không có đủ tiềm lực để có thể xử lý những điều được giao phó? [40] Điều anh nên nói là: “Việc của người là giao nhiệm vụ, việc của con là hoàn thành tốt nhiệm vụ.” Nhưng không, anh lại nói: “Đừng đưa ra giả thiết đó cho con mà hãy đưa ra giả thiết này.” [41] Rồi sẽ có ngày, người kịch sĩ nghĩ rằng mặt nạ, đôi ủng, và áo choàng* chính là bản ngã thật của họ. Chàng trai à, tất cả những thứ anh được giao phó cho chỉ là bài học và nhiệm vụ của anh thôi. [42] Hãy cất lời để chúng ta còn biết anh là một diễn viên bi kịch hay là một anh hề: bởi vì trừ lời nói ra, mọi thứ của cả hai vai trò đều giống nhau. [43] Người diễn viên bi kịch có biến mất hay vẫn còn ở đó nếu ta lấy đi đôi giày và mặt nạ rồi đưa anh ta lên sân khấu với vẻ ngoài như một hồn ma? Nếu anh ta còn tiếng nói thì anh ta vẫn còn ở đó.
[44] Một ví dụ khác trong cuộc sống. Số phận nói: “Hãy vào vai thống đốc.” Ta sẽ đảm nhận nó, và khi ở trên cương vị ấy, ta sẽ thể hiện là một người có tu dưỡng hành xử như thế nào. [45] “Bỏ bộ áo nguyên lão kia ra và mặc tấm áo rách rưới này vào, và vào vai của ngươi đi.” Nhưng ta vẫn giữ chất giọng truyền cảm của mình (nghĩa là làm điều ta nên làm). [46] “Vậy bây giờ ông sẽ vào vai nào trên sân khấu đây?” Trong vai trò là một chứng nhân của Thiên chủ: [47] “Con người kia, hãy bước lên và làm chứng cho ta; vì con xứng đáng được ta tạo tác. Có thứ gì nằm ngoài phạm vi định đoạt lại là tốt hoặc xấu không? Ta có làm tổn hại cho ai không? Ta có đặt lợi ích của một người vào bàn tay của kẻ nào khác ngoài bản thân họ hay không?” Anh sẽ dâng lên Đức Thiên chủ sự chứng kiến nào? [48] “Con thực sự rất khổ đau, thưa Đấng chí tôn, và con phải chịu mọi điều bất hạnh; chẳng ai quan tâm đến con, không đời nào có người cho con bất cứ thứ gì, mọi người đều soi mói lỗi lầm của con, mọi người đều nói lời ác về con.” [49] Đó có phải là bằng chứng mà anh muốn dâng lên và làm ô uế lời kêu gọi thiêng liêng của Ngài, người đã ban cho anh ân điển lớn lao đó và đã phán quyết rằng anh xứng đáng để làm một chứng nhân?
[50] Nhưng một người có quyền lực đã tuyên bố rằng: “Ta tuyên án ngươi là kẻ bất kính và phản thần.” Điều gì xảy ra với anh? “Tôi bị tuyên án là kẻ bất kính và phản thần.”[51] Không còn gì nữa à? “Chỉ vậy thôi.”
Ví như người đó đưa ra nhận xét về một mệnh đề điều kiện, “Ta nhận định rằng mệnh đề ‘nếu ban ngày thì trời phải sáng’ là sai”; điều đó ảnh hưởng gì đến mệnh đề điều kiện kia? Ai là người bị phán xét trong trường hợp này? Ai là người bị lên án? Mệnh đề điều kiện hay chính kẻ ngu ngơ kia? [52] Trở lại vấn đề hiện tại, người kia là ai mà có quyền phán xét anh? Anh ta có hiểu lòng mộ đạo và vô đạo là gì không? Anh ta đã được dạy bài học này chưa? Anh ta đã nắm bắt được chưa? Học ở đâu và từ thầy nào? [53] Một nhạc sĩ chắc chắn sẽ chẳng thèm để tâm nếu anh ta đến và tuyên bố rằng dây đàn có nốt thấp nhất là dây cao nhất, hoặc giả một nhà hình học cũng sẽ ngoảnh mặt đi nếu người kia nói rằng những đoạn thẳng vẽ từ tâm đường tròn đến các điểm trên đường tròn có độ dài không bằng nhau. [54] Cho nên một người có giáo dục có nên để ý đến một kẻ vô giáo dục khi anh ta đưa ra phán xét về lòng mộ đạo và sự vô đạo, điều phải và điều quấy không?
Những tín đồ của triết học thật sai lầm khi tự chuốc lấy phiền não vì những lời kia! Các người đến trường để học hỏi những điều như vậy sao? [55] Hãy nhường những tranh cãi nhỏ nhặt này cho kẻ khác, những kẻ lười biếng, vô công rồi nghề, để bọn họ có thể ngồi trong xó xỉnh và nhặt nhạnh từng đồng tiền mọn, hoặc than trách rằng chẳng ai bố thí cho chúng thứ gì. Về phần các anh, hãy bước ra ngoài kia và thực hành những điều mình đã học. [56] Bởi vì thời nay không thiếu gì những cuộc tranh luận nhỏ nhặt, những sách vở của những nhà khắc kỷ tràn ngập những thứ đó. Vậy điều gì đang còn thiếu? Đó là một người đưa bài học vào thực tế cuộc sống, người minh chứng cho những miên trường văn tự bằng hành động của mình. [57] Hãy vì ta mà đảm đương nhiệm vụ này, để những bài giảng không nhất thiết phải lấy tấm gương của những cổ nhân thời xa xưa nữa, mà có thể lấy ví dụ ngay trong thời đương đại.
[58] Vậy thì việc suy nghiệm những câu hỏi triết học là dành cho ai? Dành cho những người có thời giờ rảnh rỗi. Bởi vì con người là giống loài thích suy tư; [59] nhưng thật mất mặt khi ta suy nghiệm những điều này trong tâm thái não loạn như một gã nô lệ đang trốn chạy. Không, chúng ta nên an vị như ngồi trong nhà hát và tự tại trước mọi điều sao nhãng, hãy chú tâm nghe lời thoại của diễn viên, rồi lại lắng nghe nhạc công chơi đàn lia, thay vì cư xử như những tên nô lệ. Ngay khi kẻ nô lệ chiếm được một chỗ trên khán đài, hắn ta sẽ không ngừng liếc ngang liếc dọc trong lo sợ, và khi ai đó nhắc tới từ “chủ nhân”, hắn ngay lập tức giật bắn cả mình và không ngừng cảnh giác. [60] Cũng vậy, thật đáng hổ thẹn khi những triết gia chiêm nghiệm về quy luật vận hành của tự nhiên trong tâm thái tương tự. Bởi vì chủ nhân là gì cơ chứ? Một người không thể là chủ nhân của một người khác, mà thay vào đó, sinh và tử, sướng và khổ chính là những vị chủ nhân của anh ta. Hãy đưa Caesar đến đây mà không có những thứ vừa nói, các anh sẽ thấy ta tự tại biết bao nhiêu;
[61] nhưng khi ông ấy đến cùng với những thứ nói trên, trong sấm nổ và điện chớp, và khi ta để cho bản thân mình hoảng sợ, ta còn làm được gì khác hơn ngoài việc thừa nhận chủ nhân của mình, như một tên nô lệ chạy trốn? [62] Miễn là ta còn một chỗ dung thân để trốn khỏi những điều đáng sợ kia, giống như tên nô lệ chạy trốn tìm được một góc trong nhà hát, ta vẫn sẽ tắm gội, ăn uống, ca hát, nhưng làm tất cả những điều trên trong sợ hãi và đau khổ. [63] Còn nếu ta giải thoát mình khỏi những chủ nhân của ta, tức là khỏi tất cả những thứ cảm giác vẽ ra hình ảnh đáng sợ của những vị chủ nhân kia, ta còn phải âu lo gì nữa, ta chẳng còn chủ nhân nào cả.
[64] Vậy thì chúng ta có nên rao giảng điều này để cho ai cũng phải biết không? Không, chúng ta nên tập quen với những khiếm khuyết của người đời và tự nhủ: “Người này chỉ khuyên ta làm những việc anh ta nghĩ là tốt đối với anh ta, ta nên bỏ quá cho y vậy.” [65] Socrates đã bỏ quá cho một người cai tù khóc lóc khi ông sắp phải uống thuốc độc, và nói: “Người này thật nhân từ khi đổ những giọt lệ kia vì ta.” Ông có nói với người cai tù kia rằng: “Đây là lý do tại sao chúng ta bảo những người phụ nữ tránh đi” hay không? Không, ông chỉ nói điều đó với những bằng hữu của mình, những người có đủ tâm lượng để hiểu. Với người cai tù kia, ông chỉ xem anh ta như một đứa trẻ* không hơn kém.
1.30. Chúng ta cần thủ sẵn điều gì phòng những trường hợp bất trắc?
[1] Khi các anh sắp phải yết kiến một con người với đầy quyền lực, hãy nhớ rằng có một vị khác đang chứng kiến mọi thứ diễn ra ở dưới này từ trên cao, và chính nhân vật đó mới là người mà anh cần làm hài lòng thay vì con người kia. [2] Vị này trên thiên thượng hỏi vọng xuống: “Ở trường các ngươi gọi án lưu đày, ngục tù, xiềng xích, cái chết và sự ô danh là gì?” “Những thứ đó con gọi là vấn đề trung lập (không tốt, không xấu).” [3] — “Vậy trong tình cảnh hiện tại ngươi gọi chúng là gì? Chúng đã biến chất hay chăng?” — “Không, chúng vẫn như vậy, thưa ngài” — “Vậy bản thân ngươi đã biến chất?” — “Thưa không” — “Vậy nói cho ta biết những vấn đề trung lập là gì?” — “Thưa, là những thứ ngoài phạm vi định đoạt, chúng chẳng là gì với con cả” [4]— “Hãy nói thêm cho ta biết những gì ngươi cho là điều thiện?” — “Chính là quyết định đúng đắn và vận dụng đúng những niệm tưởng” — “Và mục tiêu cứu cánh là gì?” — Là theo gót Thiên chủ. [5] — “Và ngươi vẫn giữ nguyên ý kiến trong hoàn cảnh hiện tại chứ?” — “Có, ngay cả lúc này, con vẫn sẽ nói điều tương tự.”
Sau đó hãy hiên ngang bước vào yết kiến con người quyền lực kia, hãy ghi nhớ tất cả những điều này, và các anh sẽ thấy một người trẻ tuổi thuần nhuần triết lý khác biệt như thế nào so với những hạng người không được giáo dục. [6] Ta có thể tưởng tượng ra các anh sẽ có những suy nghĩ sau: Tại sao chúng ta lại phải chuẩn bị quá kỹ lưỡng cho một điều vô nghĩa như thế này? [7] Quyền lực hóa ra chỉ có thế thôi sao? Tất cả những sảnh đường, những viên thị thần, những lính gác chỉ là như vậy thôi sao? Chẳng lẽ vì những điều phù phiếm này mà ta đã phải lắng nghe nhiều cuộc diễn giảng đến vậy? Những điều này thật chẳng có nghĩa lý gì, vậy mà ta phải chuẩn bị như thể đây là một dịp trọng đại lắm vậy.”