Mưa rào như trút nước. Dòng thác gần nhà đục ngầu ầm ầm cuốn theo cây cối xuống vực sâu.
- Tinh hình này có lẽ không đi được - Tôi lo ngại, nói với đồng chí Định, đội trưởng cảnh vệ của chúng tôi.
- Cứ chuẩn bị đi. Bác đã quyết thì khó khăn mấy cũng không thể hoãn được - Đồng chí Định trả lời.
Đêm ấy, chúng tôi cùng nhau chuẩn bị súng đạn, quân trang và sáu ngày gạo, thực phẩm. Riêng tôi được phân công mang thêm quần áo, chăn màn của Bác. Đồng chí Tô mang thêm dụng cụ cấp dưỡng gồm có một cái nồi đủ nấu cho bảy người ăn, một cái bát và đôi đũa của Bác. Thức ăn khô chuẩn bị dọc đường có một hộp muối, một ống nứa vừng, một ống “thịt hộp Việt Minh”. Ba thứ này phân chia mỗi đồng chí mang một thứ. Ngoài ra mỗi người còn có một cuộn dây nữa. Đồng chí Nhất và đồng chí Thắng được phân công chuẩn bị ngựa, dắt đi trước cho Bác.
Khoảng tám giờ tối. Bác tới họp với chúng tôi. Tôi còn nhớ những điều Bác dạy: “Chuyến đi này rất quan trọng. Thời gian không thể định được, nhưng ước tính khoảng trên một tháng. Đường đi khá vất vả, các chú đều phải cố gắng để làm tròn nhiệm vụ. Phải tuyệt đối giữ bí mật, vì nếu lộ ra sẽ hại tới việc lớn. Muốn vậy, từ việc chọn đường đi, nơi ăn, chốn ở, giao thiệp với dân, đều phải biết cách giữ gìn.
Bác còn dặn tỉ mỉ cả chuyện lấp “ hố mèo” đến chuyện xóa dấu vết trước khi đi.
Họp xong, Bác bảo đi ngủ sớm để mai lên đường.
Sáng hôm sau, ngớt mưa nhưng trời vẫn còn đầy mây Bác cháu chúng tôi lên đường. Anh em được phân công ở lại theo tiễn, quyến luyến mãi. Bác bảo:
- Các chú về trông nhà cho tốt. Lần sau Bác sẽ cho đi.
Đây là lần đầu Bác cho chúng tôi đi theo tới sáu người, thường chỉ một, hai người.
Ra đến cửa rừng, gặp đồng chí Thắng dắt ngựa chờ sẵn. Chúng tôi mời Bác lên ngựa, Bác không ưng, Bác bảo:
- Chúng ta có bảy người, ngựa chỉ có một con, Bác cưỡi sao tiện.
Đồng chí Định cố nài:
- Thưa Bác, chúng cháu còn trẻ, Bác đã nhiều tuổi, đường lại xa, công việc nhiều, xin Bác lên ngựa cho.
Bác nói:
- Ừ, các chú đều khỏe, còn trẻ cả, để đi đường xem các chú có theo kịp Bác không.
Cuối cùng, Bác giải quyết:
- Thôi được, các chú mang theo ngựa để nó đỡ hộ ba-lô, gạo. Trên đường đi, ai mệt thì cưỡi, Bác mệt, Bác cũng sẽ cưỡi.
Chúng tôi đành vâng lời, dắt ngựa theo. Ra khỏi thành Cóc thì gặp con suối lớn chảy về chợ Chu. Dòng suối này vẫn còn đang cơn nước lũ, những gốc cây, những khúc gỗ mục đang lao băng băng tưởng chừng không có cách nào qua được. Chúng tôi men theo bờ suối tìm mảng, hoặc kiếm một cái cây cao nào để có thể ngả tạm làm cầu, nhưng quanh đấy chẳng có một thứ gì cả.
Có đồng chí đề nghị Bác tạm nghỉ lại bên bờ suối chờ nước rút hãy đi. Bác không đồng ý, Người nói:
- Trời còn có thể mưa lâu, chờ thì đến bao giờ. Phải tìm mọi cách mà qua mới được.
Nghe lời Bác, tôi đi một quãng xa nữa thấy bên kia bờ có một chiếc mảng dưới gốc cây. Tôi toan bơi sang lấy. Bác cản lại và bảo:
- Phải buộc dây vào thắt lưng để nếu nước cuốn có thể giữ lại được. Khi sang, chú sẽ buộc dây vào bè nứa rồi ở lại bên ấy giữ một đầu dây, để hai đầu cùng kéo cho bè qua lại, mới đảm bảo việc qua suối lũ.
Chúng tôi làm theo lời Bác. Việc qua suối thành công một cách dễ dàng.
Mờ tối hôm ấy Bác cùng chúng tôi tới chợ Chu, tính ra được chừng ba mươi cây số. Để bảo đảm bí mật, chúng tôi đề nghị Bác cho nghỉ lại một ngôi đình ở giữa đồng và thổi cơm ăn.
Cơm xong, Bác xem bản đồ, định lại chặng đường ngày mai rồi cho đi ngủ sớm. Chúng tôi kê cánh cửa đình cạnh đống lửa để Bác ngủ. Chúng tôi nằm quây quần xung quanh Bác.
Ba giờ sáng, chúng tôi dậy nấu cơm nước. Bốn giờ tiếp tục lên đường, Tới trước cửa nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ thì trời đã sáng, lại phải vượt qua con suối chợ Chu lần nữa. Khúc suối này còn rộng hơn khúc suối hôm qua. Đã có kinh nghiệm, chúng tôi đi mượn mảng tổ chức vượt suối như lần trước.
Qua được suối, Bác bảo:
- Nhờ có quyết tâm, chịu khó mà chúng mình đã qua được hai chặng suối lũ lớn. Nếu không, giờ chúng mình vẫn ngồi lại bờ suối hôm qua. Từ nay, trên đường đi, bất kỳ việc to hay việc nhỏ, chúng mình đều phải có quyết tâm mới được.
Nói xong, Bác thưởng cho mỗi người chúng tôi một điếu thuốc lá.
Chặng đường rừng ngày thứ hai tương đối dễ đi. Bác nhắc chúng tôi phải đi nhanh để bù vào ngày hôm qua.
Bữa trưa ấy bắt đầu dùng tới món “thịt hộp Việt Minh”. Đồng chí Định lại kiếm thêm được mấy món chuối rừng đem trộn với vừng nên ăn cũng tươi lắm! Tiếc là nước dùng hôm ấy hơi oi khói (chỉ có một cái nồi nấu cơm, còn nước uống nấu bằng ống nứa gọi là nước lam).
Các đồng chí phê bình đồng chí Tô, Bác bảo ngay:
- Việc làm phải có ưu điểm và khuyết điểm, để chiều, chú khác nấu xem sao?
Buổi hành quân chiều, để cho vui đường, Bác dạy chúng tôi “ Chinh Phụ ngâm”. Những lời thơ mà ngày nào tôi được nghe mẹ ru em, bây giờ được Bác đọc lại mới thiết tha, ý nghĩa làm sao! Tôi nhớ và thích nhất những câu này:
Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt
Khỏi Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín lần gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Lời thơ cũ, tình hình mới, tự nhiên chúng tôi thầm đoán chuyến đi này của Bác - Chúng tôi cho là: có thể có chiến dịch lớn, biết đâu chẳng phải là mở đầu cuộc tấn công mà bấy lâu nay quân dân ta đang chờ đợi.
Vui chân, Bác cháu đi được nhiều đường đất. Tính ra đã đi được hơn năm mươi cây số. Tối đến, Bác cháu nghỉ lại một gian nhà bỏ trống cũ, gần chợ Mới. Bữa cơm ngoài món lương khô chỉ có thêm ít rau tàu bay luộc, Bác nói đùa:
- Rau tàu bay có khác, ăn vào nhẹ cả người, lại có mùi dầu xăng.
Chúng tôi không ai nhịn được cười.
Sang ngày thứ ba, để tranh thủ đi được nhiều, Bác bảo đừng nấu cơm, dùng bánh mỳ ăn dọc đường. Chặng đường dài, phải đi gấp, nên Bác rất chú trọng động viên chúng tôi. Người bắt đầu kể chuyện kinh nghiệm hoạt động cũ của Người cho chúng tôi nghe. Câu chuyện có sức lôi cuốn lạ thường. Gần tối, đồng chí Thắng sợ Bác mệt nên mang ngựa tới gần, rồi cố mời Bác lên, Bác kiên quyết từ chối. Người nói:
- Bác mệt thì các chú cũng mệt, ta cùng đi cho vui.
Đồng chí Thắng đành dắt ngựa đi bên Bác với hy vọng lúc nào đó Bác sẽ lên ngựa cho.
Chín giờ đêm hôm ấy chúng tôi tới phà gần thị xã Bắc Cạn. Đò không có, Bác cho ngủ lại, vì lội qua sông trong lúc mệt nhọc dễ bị cảm đột ngột.
Trên bến sông chỉ có chiếc quán bán hàng, mái lợp mấy tấm gianh thưa. Trong quán có một tấm liếp thay cho chiếc bàn bán hàng quá mỏng manh, không thể dùng vào việc gì khác được. Bác cho đốt lửa đuổi muỗi, Bác kiểm tra việc đặt gác rồi Người lấy chiếc túi dết làm gối, ngả mình trên cây gỗ vẫn dùng làm ghế ngồi bán hàng. Chúng tôi cũng nằm quanh Bác mà thiếp đi tưởng không còn biết trời đất gì nữa.
Lúc tôi thay gác là hai giờ sáng. Tôi đứng bên chiếc quán, nhìn về phía Bác, Người vẫn nằm theo tư thế lúc bắt đầu ngủ. Anh em chúng tôi vẫn mỗi người nằm một kiểu, quây quanh Bác. Tiếng thở đều đều của mọi người hoà với tiếng suối chảy, tiếng rì rầm của núi rừng.
Ba giờ sáng, con ngựa bỗng hý lên một tiếng. Đồng chí Thắng giật mình nói trong giấc mơ: "Mời Bác lên ngựa cho, mời Bác lên ngựa cho...". Đồng chí nhắc lại trong mơ câu nói ban chiều làm tôi càng xúc động. Đồng chí Thắng là người Dao, rất ít nói, nhưng tình cảm đối với Bác rất nồng hậu, chân thành.
Bốn giờ sáng, tôi vừa toan gọi người thay gác thì Bác dậy. Bác làm mấy động tác cho giãn gân cốt và nói:
- Thật là một giấc ngủ ngon ít thấy.
Sau đó, Bác gọi anh em chúng tôi dậy! Bác cháu làm một chầu tắm thoải mái trong lúc bơi qua sông. Đi khỏi thị xã chừng 3 cây số chúng tôi nghỉ lại trong một trường học. Đồng chí Chu Đốc phụ trách bảo vệ căn cứ địa đã chờ sẵn ở đó và mời Bác lên ô tô, Bác đồng ý. Chúng tôi mừng rỡ vô cùng, vội gửi ngựa lại và chuẩn bị đi ô tô. (Chiếc ô tô này đã già nua hết sức, lại chạy bằng than. Tuy vậy với tình hình lúc ấy, có được nó cũng là tuyệt lắm rồi!). Khi sắp lên xe, Bác nhắc:
- Hôm nay đi ô tô, có thuận lợi mới là máy chạy thay chân, nhưng cũng có khó khăn là máy bay giặc nó lùng. Vì vậy chú lái và các chú phải cẩn thận cần phân công nhau gác máy bay, khi có việc xảy ra, các chú phải theo sự chỉ huy của chú Định.
Từ nhỏ đến giờ tôi chưa được ngồi trên ô tô, xe hỏa bao giờ. Quê tôi ở Hưng Yên, hằng ngày cũng thấy ô tô, tàu hỏa chạy, nhưng lo làm ăn chẳng xong, làm gì có tiền mà đi. Bây giờ tôi bỗng được đi ô tô lại ngồi cạnh Bác, hỏi còn gì sung sướng cho bằng.
Trong chúng tôi có một số người quê ở Cao Bằng. Được đi chuyến này các đồng chí đó mừng lắm! Người nào cũng đặt hy vọng quê hương mình sẽ được giải phóng, sẽ được gặp người nhà, nếu không, cứ được thấy con sông Bằng cũng đủ sướng rồi.
Khi đã nghĩ tới quê hương thì quê hương bao giờ cũng đẹp! Câu chuyện quê hương trở nên rôm rả.
Đồng chí này khoe:
- Phong cảnh Quảng Yên, Trùng Khánh đẹp, gạo ngon giá rẻ...
Đồng chí khác cắt ngang:
- Cánh đồng Nước Hai rộng, lúa tốt. Sông Bằng nhiều cá, nhãn Lam Sơn rất ngon, có thứ nhãn ăn thơm như mùi cà cuống.
Chuyện chúng tôi cứ nở như ngô rang.
Bác nhiều lúc phải quay lại bật cười với bọn trẻ.
Xe tới Tà Xa thì dừng lại và nghỉ đêm ở đó. Gần sáng, Bác cháu lại đi đường tắt về Lam Sơn. Trên đoạn đường này thích nhất là lúc lên tới đỉnh đèo Khau Lêu. Mắt tôi ngợp trước lớp lớp núi đồi chen nhau. Đứng ở đây tưởng có thể nhìn thấy ngọn Các Mác gần hang Pắc Bó. Còn cánh đồng Cao Bình, thị xã Cao Bằng, thì rất rõ, Bác đứng lại ngắm cảnh vật xưa và kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện khi Người ở Pắc Bó, Lam Sơn, Bác bảo:
- Cao Bằng có rất nhiều mỏ vừa lớn vừa có giá trị. Đất ở Cao Bằng lại tốt, có nhiều bãi có thể chăn nuôi hoặc trồng các cây ăn quả xứ lạnh như đào, táo.. Sau này đuổi được giặc rồi, nếu nhân dân, cán bộ ta chịu khó, cố gắng thì Cao Bằng sẽ trở thành một tỉnh giàu có về nhiều mặt.
Chúng tôi tuy chưa hiểu hết ý Bác, nhưng rất vui, nhất là các đồng chí ở Cao Bằng.
Ăn cơm chiều xong. Bác quyết định đi luôn đêm nay về Lam Sơn để bảo đảm bí mật.
Tới Lam Sơn, Bác dừng lại để làm việc với một số đồng chí có trách nhiệm của Mặt trận và Tỉnh ủy Cao Bằng. Đồng chí Định cùng tôi tranh thủ đi chợ Nước Hai để mua sắm những thứ cần thiết. Việc chính là mua thêm ít thịt để về bổ sung vào món “thịt hộp Việt Minh” đảm bảo sao cho có thể ăn được mười ngày.
Cánh đồng Nước Hai đẹp thật! Từ khi lên Việt Bắc tới nay tôi mới được nhìn bầu trời một cách thoải mái. Lúa tốt, tỏi đếm có bụi được tới ba mươi bông! Con sông Bằng uốn khúc giữa cánh đồng Nước Hai và Nà Lư, xa trông như chiếc thắt lưng lụa trắng của các cô thiếu nữ quê tôi trẩy hội. Các làng bản ở đây, tuy trọng kháng chiến nhưng nhà ngói cũ vẫn san sát.
Chợ Nước Hai đông vui, náo nhiệt, mặc dù ở đây giặc đã giội bom hai, ba lần, giết hại mấy chục đồng bào ta.
Người đi chợ hầu hết là phụ nữ. Nếu có đàn ông, thì chỉ có mấy đồng chí bộ đội công tác tạt qua, hoặc tới mua thức ăn, và mấy cụ già, vài em nhỏ.
Khi trở về, chúng tôi đi đường Nà Lư. Dọc đường, đồng chí Định chỉ cho chúng tôi hướng thị xã Cao Bằng, đồng chí nói:
- Cao Bằng đấy! Trong thị xã, giặc có một trung đoàn, do một tên trung tá chỉ huy, lại có nhiều pháo, nếu đánh, sẽ đánh to đấy.
Chúng tôi nhìn về phía thị xã Cao Bằng. Lòng chúng tôi tự nhiên thấy rạo rực, chúng ta đã có thể đánh vào một thị xã, có một trung đoàn bộ binh địch chiếm đóng với sự yểm hộ của phi pháo rồi ư?
Về tới nhà, chúng tôi vội chuẩn bị mọi thứ vì được tin đêm nay sẽ lên đường.
Công việc chuẩn bị vừa xong, một số chúng tôi được các đồng chí cấp trên dặn dò riêng:
- Tình hình hiện nay rất có lợi cho ta. Giặc phải rải quân ra nhiều nơi để chiếm đóng. Lực lượng cơ động có hạn. Nhìn chung các mặt trận thì có Cao Bằng, Lạng Sơn là nơi địch thọc sâu vào sau lưng ta như một mũi dùi. Mũi dùi này nhằm bao vây căn cứ địa Việt Bắc của ta, chia cắt ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Lực lượng của chúng tại đây gồm nhiều tiểu đoàn Phi, lại có công sự kiên cố. Song, chúng cũng có nhiều điểm yếu: đồn bốt của chúng đóng theo một tuyến đường dài từ Na Sầm lên đến Cao Bằng, nếu bị đánh gãy một đoạn nào thì các vị trí khác sẽ bị cô lập; vì lực lượng cơ động của chúng tuy tinh nhuệ nhưng có hạn, khó bề ứng cứu cho nhau. Sau khi đã phân tích các mặt, Đảng, Chính phủ quyết định mở chiến dịch Cao - Bắc - Lạng. Ta chuẩn bị lực lượng tương đối kỹ, có sự phối hợp trên các chiến trường để giành lấy thắng lợi. Theo sự phân công của Trung ương Đảng, Bác lần này sẽ đi sát mặt trận để giúp đỡ Ban chỉ huy chiến dịch và động viên bộ đội chiến đấu. Các chiến sĩ đi với Bác cũng như các chiến sĩ ra mặt trận, ai nấy phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
Nghe vậy, chúng tôi vô cùng phấn khởi, càng thấy rõ ý nghĩa chuyến đi này của Bác.
Trước lúc lên đường, Bác dặn thêm :
Từ đây tới ban chỉ huy mặt trận, đường tuy không dài lắm nhưng phải bảo đảm bí mật cao hơn, vì giặc tung nhiều do thám để dò tìm lực lượng ta. Nhiều chặng đường giặc thường phục kích bất ngờ để hòng bắt cán bộ, du kích của ta. Máy bay giặc lại tuần tiễu suốt ngày đêm. Các chú phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao hơn nữa.
Chúng tôi vâng lời dạy của Người, Bác cháu lên đường lúc trời đã tối sẫm. Mưa lâm thâm làm cho những con đường rừng trơn như đổ mỡ.
Đêm ấy, Bác cùng chúng tôi theo đường tắt sang Quảng Uyên. Đường tuy khó nhưng vẫn đi được nhanh.
Khi về đến Quảng Uyên thì trời đã sáng, chúng tôi liên lạc được với Ban chỉ huy chiến dịch. Bác ở lại làm việc và sau đó Bác đi thăm các đơn vị.
Ở Quảng Uyên được mấy ngày, Bác cùng chúng tôi về Nà Lan gần Đông Khê, vị trí tiền phương của Ban chỉ huy chiến dịch.
Đêm ấy, khi tới bờ sông Bằng (quãng gần Phục Hòa), chúng tôi được gặp một cảnh đẹp kì lạ. Sông Bằng dưới trăng như một tà áo dài trắng muốt. Gió nam làm cho mặt sông gợn lên những đợt sóng theo nhau tới biên giới Việt - Trung. Chúng tôi cùng Bác bước theo ven sông. Nhìn những bóng núi in dưới đáy sông, tôi có cảm giác như những đàn voi khổng lồ rùng rùng theo Bác tiến ra mặt trận. Tới bến sông, một chiếc cầu phao nổi bật lên như một tấm vải lớn ai kéo căng, thẳng tắp trên dòng nước bạc. Một đoàn lừa ngựa thồ pháo trên lưng, đang qua cầu. Bên kia cầu, một đoàn bộ binh đi hàng đôi vẫn đang dấn bước.
Nhìn những đoàn bộ binh, pháo binh qua cầu, Bác khen:
- Các chú công binh khá lắm !
Khi Bác cùng chúng tôi xuống cầu, Người thò tay xuống nước để ước lượng tốc độ nước chảy. Ra tới giữa cầu, Bác dừng lại hưởng làn gió mát, rồi quay sang nói vui với chúng tôi :
- Giá được ở giữa cầu này mà thả câu thì hay biết mấy!
Nói xong Bác cười một cách vui vẻ, Người bảo:
- Ta chỉ muốn sống một cách giản dị, thoải mái thôi, nhưng Tây nó cũng không cho, Bác cháu ta phải đuổi nó về nước đã.
Qua cầu, Bác và chúng tôi theo đường tắt về Nà Lan. Về tới địa điểm đã định thì vừa mờ sáng. Vùng núi này Bác rất thông thuộc. Theo ý Bác, đồng chí Định hướng dẫn chúng tôi tới một hang đá gần phố Nà Lan. Trước cửa hang có một cái lán đã được làm sẵn.
Chiếc hang này tuy không lớn, nhưng cũng đủ cho Bác làm việc và nghỉ ngơi. Bác bảo:
- Chúng mình sẽ ở đây một thời gian, nên công tác giữ bí mật, giúp dân là rất cần.
Bác dặn chúng tôi rất tỉ mỉ về cách dùng bí danh của đoàn công tác đặc biệt, cách tránh lửa khói ban ngày để đề phòng máy bay giặc, nhất là tránh làm chết cỏ, làm mất dấu trên lối đi vào hang.
Đến đâu, làm việc gì Bác cũng đem kinh nghiệm của Người ra chỉ bảo cho chúng tôi. Tôi nhớ lại trong nhiệm vụ bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng, công việc ngụy trang cho hàng chục mái nhà (cứ ba ngày lại thay lá một lần) làm cho chúng tôi tốn phí rất nhiều công sức. Một hôm, Bác kiểm tra việc phòng không, thấy khó khăn của chúng tôi, Người bảo :
- Sao các chú không ngụy trang bằng cây tổ quạ?
Chỉ có vậy mà chúng tôi không nghĩ ra! Cây tổ quạ sống bám trên các cây rừng, đưa về đặt lên các mái nhà, chúng vẫn sống và phát triển như thường. Nhờ cách ngụy trang này, chúng tôi đã làm được nhà ở cho cơ quan ở những nơi thoáng ráo hơn .
Chiều hôm sau, công việc đã bớt, Bác bảo tôi theo Người. Bác đi trước, tôi theo sau. Người trở lại thăm những núi non xưa. Có những ngọn núi tôi trèo cũng đã vất vả vì đá sắc, rêu trơn, phải tay bám dây leo, chân bám vào từng hòn đá một, thế mà Bác vẫn trèo lên trước. Khi lên đỉnh một ngọn núi, Người chỉ cho tôi biết những ngọn núi nào thuộc về Trung Quốc, những ngọn núi nào thuộc về bên ta.
Chúng tôi đang mải nhìn sang thì Bác gọi, bảo:
- Chú xem dân mình đi phục vụ tiền tuyến kìa!
Theo tay Bác chỉ, chúng tôi thấy đoàn dân công như con rồng lượn quanh. Từ sườn núi bên kia, đi sang phía núi Bác đang đứng. Bác đang chăm chú nhìn như theo dõi từng người.
Đoàn dân công phần lớn là nam nữ thanh niên miền núi, mặc áo dài, ngắn màu chàm, đầu đội nón tre đan. Trên vai người nào cũng khênh đạn nặng trĩu, ngang lưng còn đeo một ruột tượng gạo to. Người nào cũng ngụy trang kín cả lưng lẫn hòm đạn.
Hết đoàn dân công là một đơn vị pháo binh. Trên vai họ cũng vác nặng những bộ phận pháo tháo rời hoặc hòm đạn. Thấy các cán bộ cũng mang vác nặng như chiến sĩ, lại chạy lên chạy xuống đôn đốc anh em, Bác gật đầu tỏ ý bằng lòng.
Bỗng Bác chỉ một người, hỏi tôi:
- Các chú xem đồng chí kia có phải là cán bộ không?
Chúng tôi trông thấy một đồng chí ngang sườn đeo súng và chiếc xà cột, còn sau lưng cũng có chiếc ba-lô, nhưng nhỏ xíu, mũ và người chỉ có mảnh vải dù vắt làm phép, không mang bao gạo, bước đi nhẹ tênh, tay vung vẩy chiếc gậy.
Bác lặng lẽ nhìn theo đồng chí đó, vẻ mặt không vui.
Chợt một hồi còi báo động có máy bay địch nổi lên lanh lảnh. Cả đoàn dân công, bộ đội đều nằm xuống, lá ngụy trang che kín người.
Bốn chiếc máy bay vụt qua. Đoàn dân công và bộ đội ta lại tiếp tục hành quân như không có chuyện gì xảy ra. Bác khen:
- Nhân dân ta, bộ đội ta dũng cảm lắm!
Chờ cho đoàn dân công, bộ đội đi xa, Bác xuống núi. Xuống tới đường, tôi để ý thấy có nhiều củi khô, lại sẵn dây rừng, tôi liền bó một vác để mang về đun nấu và sưởi đêm.
Thấy tôi vác củi, Bác bảo :
- Chú đưa khẩu tiểu liên cho mình .
Tôi còn dùng dằng thì Người đã cầm lấy súng, thế là Bác vác tiểu liên đi trước, tôi vác củi theo sau.
Bóng hai Bác cháu theo nhau buông dài trên sườn núi, trên đồng lúa. Nhìn khẩu tiểu liên trên vai Bác, tôi bỗng nhớ tới một chuyện về Người. Lúc còn ở nhà, chúng tôi thường làm những công sự khá kiên cố. Mỗi khi làm như vậy Người thường tới giúp chúng tôi cách làm, như hướng dẫn việc tìm địa điểm, vẽ mẫu công sự, dạy cách cầm xẻng, cuốc, cách phá đá, nhất là những khi phải dùng tới mìn. Có lần, thấy chúng tôi vì muốn tiết kiệm mà cắt dây cháy chậm hơi ngắn, Bác cắt lại và nhắc:
- Tiết kiệm máu là điều cần thiết trước nhất.
Lại có lần thấy chúng tôi lấy gỗ tốt để lát nóc hầm, Người bảo:
- Gỗ này, kháng chiến thành công rồi, sẽ dùng vào rất nhiều việc. Cây rừng là của ta, ta phải biết giữ gìn.
Ngoài những công sự lớn ra, ngay trong mỗi nhà cũng có đào công sự cá nhân, đề phòng máy bay địch tập kích bất ngờ, hoặc mưa gió cây rừng đổ xuống. Công sự này mỗi khi làm lại nhà, Bác đều tự đào lấy. Mỗi ngày sau giờ làm việc chiều, Người lại đào một ít, ba ngày là xong. Ai muốn đào giúp, Bác bảo:
- Đây là quyền lao động của Bác.
Tối hôm đó Bác đi họp vắng. Chúng tôi sinh hoạt đọc báo. Báo mặt trận hôm ấy có đăng huấn thị của Bác về chiến dịch Cao - Bắc - Lạng.
Huấn thị của Bác càng làm cho chúng tôi thấm nhuần thêm những lời dạy của Người từ lúc ra đi, và càng nhận thức rõ hơn quyết tâm của Đảng trong chiến dịch Cao - Bắc - Lạng.
Sau khi đọc huấn thị, đồng chí Định nói cho chúng tôi biết thêm về tình hình:
- Địch vừa tăng cường từ Nam Bộ ra cho chiến trường Bắc Bộ một số lực lượng. Song, chúng vẫn chưa nắm được ý định của ta. Vừa qua chúng có tấn công ra Phú Thọ, nhưng chính vẫn là để thăm dò chủ lực của ta và có thể chúng nghi ta tấn công về phía Lào Cai, Hoàng Su Phì. Mấy ngày qua, chúng lại tăng cường cho Lạng Sơn thêm một tiểu đoàn nữa, tuy vậy vẫn chưa có gì thay đổi lớn. Ở Đông Khê hiện nay, tin chính thức cho biết: địch có trên dưới ba trăm tên, do một tên đại úy chỉ huy. Ngoài đồn chính, chúng có nhiều vị trí ngoại vi để yểm hộ lẫn nhau. Bộ đội ta đã tới vị trí tập kết và chờ lệnh. Mấy hôm sau nhân dân Cao Bằng, Lạng Sơn cùng bộ đội địa phương đã phá sập bốn cầu lớn và nhiều quãng đường trên chặng đường từ Thất Khê tới Đồng Đăng.
Buổi sinh hoạt kết thúc thì Bác về. Người cho biết:
- Ngày mai có nhiều việc, các chú cần đi ngủ sớm.
Chúng tôi thầm đoán có lẽ ngày mai sẽ đánh trận đầu. Trong giấc ngủ đêm ấy, tôi cứ luôn thức giấc tưởng quân ta đã bắt đầu nổ súng tấn công.
Đúng 6 giờ ngày 16 tháng 9 năm 1950, tiếng súng mở đầu chiến dịch đã nổ, tôi và đồng chí Định được theo Bác đi lên quan sát trận đánh.
Đứng trên ngọn núi đặt vị trí quan sát có thể thấy rõ toàn bộ các cứ điểm của địch, giống như ta đứng trước một cái sa bàn lớn.
Trong lúc bộ binh của ta đánh các đồn Phía Khóa, Yên Ngựa, Cam Phầy, thì pháo binh của ta bắn vào đồn chính để phá pháo binh, công sự của địch. Địch chống cự lại rất ác liệt. Đồn chính mờ mịt lửa khói. Máy bay giặc lồng lộn trút từng đợt bom xuống những nơi nghi có quân ta. Trọng liên của ta đan những luồng lửa như lưới quây lấy máy bay địch.
Đây là lần đầu tiên tôi được dự một trận đánh lớn mà địch phải huy động nhiều máy bay tham chiến như vậy. Những máy bay địch từ trên cao cứ như nhằm thẳng đầu mình lao xuống, những quả bom đen trùi trũi, trước chỉ nhỏ như cái bắp chuối, sau lớn như cái chum, rít trong không khí. Có những quả chúng ném vào một khu rừng bên cạnh hoặc ở những đồi núi khác cách xa hẳn trận địa. Chúng tôi lo ngại cho Bác quá. Tôi hỏi đồng chí Định mới biết là địch ném bom vào trận địa giả của ta.
Bác như không để ý đến máy bay địch. Người vẫn chăm chú theo dõi tình hình chiến đấu và đối chiếu với bản đồ, do một đồng chí cán bộ của Ban chỉ huy chiến dịch trình bày cho Bác xem. Mười giờ sáng thì quân ta lấy được ba đồn Phía Khoá, Yên Ngựa, Cam Phầy, mở đường phía Đông - Nam để tấn công vào đồn chính Đông Khê.
Xế chiều, chúng tôi theo Bác ra về.
Tới nhà, trời vừa tối, nghe pháo ta bắn vào Đông Khê dồn dập, tôi nghĩ bụng: đêm nay chắc ta tiêu diệt xong Đông Khê. Một đồng chí đã hỏi Bác một câu tương tự như ý nghĩ của tôi, Bác cười bảo:
- Để chờ xem...
Và liền đó, Bác nói thêm:
- Chú đánh giá địch hơi thấp.
Đêm hôm ấy quân ta chưa tiêu diệt được địch thật.
Qua một đêm nữa, quân ta căn bản chiếm được đồn chính nhưng địch vẫn còn ngoan cố chống lại trong những vị trí cố thủ. Khoảng gần bảy giờ sáng, Bác nhận được báo cáo: đã bắt được tên đại úy A-li-úc, chỉ huy trưởng Đông Khê, cùng một số sĩ quan tham mưu của hắn cách Đông Khê hai cây số. Bọn lính của chúng vẫn không rõ tình hình, tiếp tục chống cự đến quá chín giờ thì chúng đầu hàng.
Sau hai đêm và một ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt toàn bộ vị trí Đông Khê gồm trên dưới một ngàn quân địch. Trận đầu tiên của chiến dịch đã kết thúc thắng lợi. Quân ta chuẩn bị chống quân nhảy dù và đánh viện.
Trong khi đó, tiểu đoàn địch Ta-bo thứ ba, ngày 16 tháng 9 năm 1950 lật đật từ Lạng Sơn lên tiếp viện cho Đông Khê. Tới Pắc Luông, chúng bị ta diệt 4 xe và giết chết 60 tên, buộc phải dừng lại đó, chờ trung đoàn của Lơ-pa-giơ. Ngày 17 tháng 9 năm 1950 tiểu đoàn Ta-bo của trung đoàn Lơ-pa-giơ đánh vào một bộ phận của ta chốt ở Tà Lài, Pắc Luông suốt một ngày. Kết quả, chúng lại bị ta diệt thêm 2 xe và 120 tên nữa.
Nghe những tin trên, tôi hỏi nhỏ đồng chí Định có biết những đơn vị nào đánh các trận đó không?
Đồng chí Định cho biết:
Đánh Đông Khê là trung đoàn Bông Lau và trung đoàn Sông Lô cùng với tiểu đoàn dự bị ở đơn vị khác phối thuộc. Đánh ở Tà Lài, Pắc Luông là tiểu đoàn 428 chủ lực của Liên khu Việt Bắc.
Nghe đồng chí Định trả lời, tôi mới biết là sư đoàn Quân Tiên Phong, vẫn là bộ đội dự bị của Ban chỉ huy chiến dịch. Như vậy lực lượng chờ địch còn khá dồi dào và binh đoàn Lơ-pa-giơ sẽ được nếm những đòn đích đáng.
Một buổi tối, cơm nước xong, Bác bảo chúng tôi ngồi quanh bếp lửa. Người nói cho chúng tôi rõ về tình hình địch, và triển vọng của ta trong chiến dịch.
Nghe xong, có đồng chí trong chúng tôi thắc mắc:
- Thưa Bác, tại sao chúng ta không đánh Cao Bằng mà lại đánh Đông Khê trước? Theo cháu nghĩ: trận Đông Khê hồi tháng năm ta vừa đánh xong, nay chúng tăng cường thêm quân, thêm pháo binh, củng cố lại công sự, nên vừa qua, tuy ta đánh được nhưng sức ta cũng yếu đi một phần, rồi đây đánh Cao Bằng sợ không nổi!
Bác hỏi:
- Các chú xem tình hình địch, chúng đóng từ Thất Khê tới Cao Bằng, thì nơi nào mạnh nơi nào yếu?
Trong chúng tôi cũng có đồng chí có trình độ quân sự ít nhiều (vì có đồng chí có nhiều kinh nghiệm chiến đấu rồi mới về làm công tác cảnh vệ), một đồng chí trình bày :
- Thưa Bác, theo ý cháu thì mạnh nhất là Cao Bằng, còn so sánh giữa Đông Khê và Thất Khê thì Thất Khê quân số đông hơn, tiếp tế thuận lợi hơn, tuy đồn chính ở thấp nhưng có nhiều vị trí ngoại vi kiên cố hơn, Đông Khê tuy cũng có những mặt mạnh thật, nhưng đem so sánh thì nó là vị trí tương đối yếu hơn so với Thất Khê.
Bác hỏi thêm :
- Nay Đông Khê bị diệt rồi thì Cao Bằng và Thất Khê sẽ ra sao?
Mấy đồng chí quê ở Cao Bằng lúc này mới phát biểu:
- Đông Khê ta thắng rồi, nay giặc ở Cao Bằng như con hổ nằm trong cũi, mà Thất Khê, giặc như con rắn ta chẹn mất cửa hang rồi.
- Mất Đông Khê chắc là giặc phải giành lại, hồi tháng năm vừa qua ta đánh xong nó nhảy dù ngay xuống đồn đấy!
Lúc ấy Bác mới trả lời câu thắc mắc ban đầu:
- Ta đánh vào Đông Khê, là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Đánh thắng được Đông Khê, có kinh nghiệm hơn, nên ta mạnh lên như vậy địch có khác gì như thú dữ bị thương; ta như thợ săn chăng lưới thép. Nay có thể địch sẽ giành lại Đông Khê để giữ vững Cao Bằng, hoặc là phải đánh lên để dồn quân Cao Bằng rút lui. Ta nhân lúc “thú dữ vào tròng” mà khép vòng lưới thép. Quân viện của địch đã tan, thì ta đánh Cao Bằng không phải là việc khó nữa. Nếu chúng rút khỏi Cao Bằng thì đánh càng thuận lợi hơn.
Nghe lời Bác, chúng tôi càng thông suốt về chủ trương tác chiến của Ban chỉ huy chiến dịch, và lòng đầy tin tưởng vào thắng lợi của chiến dịch.
Trong những ngày chuẩn bị đánh viện binh của địch. Ban chỉ huy chiến dịch phân phối những chiến lợi phẩm thu được cho các đơn vị. Bác được tặng nhiều thứ nhưng Bác chỉ để lại một ít, còn phần lớn Bác bảo mang cho anh em thương binh ở bệnh viện. Số còn lại, Bác để một phần đem biếu nhân dân địa phương gần nơi Bác ở, một phần Bác cho chúng tôi.
Được rượu chúng tôi uống xong toan bỏ vỏ chai vào một xó, Bác bảo thu lại để mang cho dân đựng hạt giống.
Bác còn dặn chúng tôi:
- Khi gặp các bạn quen cũ, các chú không nên hỏi xin chiến lợi phẩm, hoặc nhận quà của bạn cho. Chiến lợi phẩm là của nhân dân. Các chiến sĩ ta phải mất xương máu mới giành được, ta chỉ có quyền hưởng khi được phần chia thôi. Nếu các chú hỏi xin anh em, hoặc nhận của anh em tặng, tức là mình đã khuyến khích anh em vi phạm kỷ luật chiến trường.
Hàng ngày, Ban chỉ huy chiến dịch vẫn báo cáo đều đặn tin với Bác: địch đã tăng viện cho Cao Bằng thêm tiểu đoàn Ma-rốc thứ ba và bắt dân Lạng Sơn lên máy bay chở về Hà Nội.
Trung đoàn Bay-ăng lên tới Thất Khê cộng thêm tiểu đoàn dù 2 BPC, tiểu đoàn Ta-bo thứ ba thành binh đoàn Lơ-pa-giơ đang từ Thất Khê lò dò lên Đông Khê.
Tối mồng 2 tháng 10 năm 1951, tin báo cáo về với Bác: tên Công-tăng, tư lệnh biên giới của Pháp đã ra lệnh cho Lơ-pa-giơ đưa đại bộ phận lực lượng lên Quảng Liệt, Nậm Nàng đón binh đoàn Sắc-tông sẽ rút khỏi Cao Bằng, sang mồng 3 tháng 10 khi gặp nhau chúng sẽ rút chạy về Thất Khê.
Được tin này, chúng tôi mừng lắm! Mọi diễn biến của địch đều đúng như dự đoán của ta và có đồng chí trong chúng tôi, lại bộc lộ chủ quan lần nữa.
Bác giải thích:
- Thấy thuận lợi lớn, ta cũng phải thấy khó khăn lớn. Lực lượng của địch khá mạnh, có tới trên dưới bảy nghìn lại là những đội quân ứng chiến tinh nhuệ về đánh rừng. Muốn diệt được chúng, quân ta phải có quyết tâm cao, phải khắc phục cái đói, cái mệt mới giành thắng lợi lớn.
Từ hôm đó, các tin tức, báo cáo liên tiếp gửi về:
Đêm mồng 3 tháng 10, quân ta tấn công các cao điểm của binh đoàn Lơ-pa-giơ chiếm đóng tại dãy Khâu Luông. Mồng 4 tháng 10 ta đánh chúng trên các điểm cao 760, 765. Cùng đêm ấy, quân ta đã tiêu diệt đồn Nà Ban ở ngoại vi Thất Khê. Phía Đồng Đăng, quân ta đánh sâu vào sát thị trấn, tiêu diệt một đại đội địch.
Trưa ngày mồng 4 tháng 10 binh đoàn Sắc-tông về tới Nậm Nàng đã bị quân ta chặn lại.
Các tin đưa về thật là phấn khởi. Tuy nhiên, trên tấm bản đồ của Bác, hai binh đoàn địch vẫn cố nhích lại gần nhau. Nếu chúng thực hiện được âm mưu này, cùng với sự yểm hộ của không quân thì việc ta tiêu diệt chúng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Mấy hôm nay không quân của giặc hình như có được bao nhiêu, đều tập trung cả về đây. Tính ra mỗi ngày có đến năm sáu mươi đợt máy bay giặc tới ném bom, bắn phá yểm hộ hoặc thả dù tiếp tế cho quân chúng.
Chiều ngày 5 tháng 10, tin báo cáo về với Bác: binh đoàn Lơ-pa-giơ bị ta chặn đánh không thể tới được vị trí đã định. Chúng phải tập trung cả xung quanh khu vực Cốc Xá. Nghe tin, Bác liền viết thư bảo đồng chí Định mang đi cho Ban chỉ huy chiến dịch. Nhìn theo đồng chí Định, tôi thầm nghĩ : "Có phải đêm nay ta sẽ quyết định số phận, của Lơ-pa-giơ không? Liệu hắn sẽ được đưa về trại tù binh như tên A-li-uc đại úy chỉ huy Đông Khê, hay vợ hắn sẽ tới xin xác chồng như vợ tướng không quân Hát-tơ-nam năm xưa?”.
Suốt đêm hôm ấy cho đến sáng hôm sau tin quân ta tấn công thắng lợi trên khu vực Cốc Xá liên tiếp báo cáo về. Tới 6 giờ sáng ngày 7 tháng 10 thì Bác nhận được báo cáo: quân ta đã căn bản tiêu diệt được binh đoàn Lơ-pa-giơ nhưng Lơ-pa-giơ cùng với bộ tham mưu của hắn đã rút chạy mất.
Bên những tin tức phấn khởi đó lại có một số cán bộ ta thấy thắng lợi lớn, bộ đội bị mệt mỏi, nên khi được lệnh “tiêu diệt binh đoàn Sắc-tông” đã đề nghị xin nghỉ một ngày để lấy lại sức rồi sẽ đánh sau!
Thấy vậy, Bác nói:
- Ta mệt một, địch mệt gấp năm gấp bảy lần. Lúc này là thời cơ tốt nhất để diệt địch. Sao các chú ấy lại nghĩ thế?
Bác liền viết thư cho cán bộ và chiến sĩ trong chiến dịch.
Nhận được thư Bác, quân ta phấn khởi, nô nức tiến công địch.
Sáng mùng 6 tháng 10 Bác nhận được tin binh đoàn Sắc-tông đã bị tấn công. Ngày mùng 7 tháng 10 có tin tên Công-tăng cố vét được 500 quân Âu Phi còn lại giao cho Đờ-la-bôm chỉ huy tiến lên tiếp viện cho Lơ-pa-giơ, nhưng đến điểm cao 608 và 703 thì biết tin Lơ-pa-giơ bị tiêu diệt. Đờ-la-bôm phải đóng lại đây và dựa vào pháo binh ở Bông Lau yểm hộ chờ vét tàn quân của Lơ-pa-giơ và Sắc-tông.
Sáng mồng 7 tháng 10, binh đoàn Sắc-tông bị tấn công liên tiếp và tới 5 giờ chiều hôm ấy thì toàn bộ bị tiêu diệt tai khu vực đồi 477 và Bản Cả.
Chiều mồng 8 tháng 10, lực lượng của Đờ-la-bôm bị ta công kích. Thấy một số lớn bị chết, hắn vội vã cho bọn sống sót rút chạy. Quân ta truy kích bọn này về đến tận Thất Khê.
Lơ-pa-giơ đã trốn thoát, nhưng tới chiều ngày 8-10-1950 có tin báo về với Bác: ta đã bắt được hắn cùng toàn bộ sĩ quan tham mưu của binh đoàn tại Nà Keo.
Kể ra, Lơ-pa-giơ cũng khéo giữ thể diện! Khi cùng đường, hắn cho một tên đại úy mang cờ trắng ra đề nghị với đồng chí đại đội trưởng của ta:
- Chúng tôi xin hàng không điều kiện, nhưng xin ngài đừng đưa lính tới bắt mà cho một vị sĩ quan tới nhận vũ khí của chúng tôi, như vậy, đại tá của chúng tôi dù sao cũng còn chút danh dự nhà binh.
Đồng chí đại đội trưởng của ta nhận lời, một mình lên thẳng ngọn đồi bọn Lơ-pa-giơ đang ẩn. Khi Lơ-pa-giơ thấy đồng chí đại đội trưởng của ta tới, hắn vội hô các sĩ quan đứng nghiêm chào, tự cởi súng đặt vào tay đồng chí đại đội trưởng của ta, rồi ứa nước mắt mà nói:
- Từ giờ phút này, tính mệnh của chúng tôi đặt cả vào trong tay ông!
Nghe tin đó, tôi nghĩ bụng: trường đại học quân sự của đế quốc Pháp có một chương trình dạy quả là tỉ mỉ và tinh vi. Dạy cả lễ tiết nộp súng đầu hàng!
Những ngày sau tin thắng lợi càng dồn dập báo về với Bác: tàn quân Đờ-la-bôm rút chạy như một cơn lốc. Tất cả các đồn từ Thất Khê đến Na Sầm đều cuốn gói phóng theo. Ta chỉ chặn kịp ở Đèo Khánh, tiêu diệt được hai đại đội của tiểu đoàn 2 BPC trong đó có tên đại úy Mô-ro phụ trách tình báo biên giới, tên chỉ huy tiểu đoàn dù, tên Bế Văn Nạng, tiểu đoàn trưởng ngụy binh Nùng. Còn nhiều nơi chúng hốt hoảng đến nỗi quân ta còn cách xa hàng ngày đường chúng đã bỏ chạy.
Trước tình hình địch tan rã như vậy, sau khi đã bàn kỹ với Ban chỉ huy chiến dịch về chủ trương phát triển chiến thắng Bác đi thăm thương binh.
Tôi được theo Bác đến bệnh viện dã chiến. Bác vốn dễ xúc động nên trước anh chị em thương binh, Người phải cố nén để thăm hỏi, nhưng có nhiều lúc Người không sao cầm được nước mắt.
Trong lúc đồng chí bác sĩ Thành đưa Bác đi thăm thương binh, tôi dừng lại đi sau để giảm bớt số người cùng đi với Bác, bảo đảm sự yên tĩnh cần thiết cho thương binh. Giữa lúc tôi đứng lại nhìn theo Bác chợt có tiếng gọi. Tôi đi nhanh tới. Thì ra một đồng chí ở đơn vị cũ vừa gặp tôi hôm trước khi đánh Đông Khê. Hôm ấy, đồng chí ấy hỏi tôi: “Cậu ở đâu?". Để giữ bí mật, tôi nói dối là tôi ở một đơn vị pháo binh. Đồng chí mừng lắm, bảo: "Nhà mình ở ngay Đông Khê này, giải phóng rồi mời cậu lại chơi. Vườn nhà mình nhiều lê lắm. Hồi này giữa mùa lê chín đấy, tới gốc rung vài cái là tha hồ ăn”. Bây giờ anh đã nằm đây, hai chân bó bột trắng xóa. Thấy tôi chăm chú nhìn vào đôi chân bó bột của anh, anh nói:
- Không sao cậu ạ! Nó chưa nỡ xa mình, vài tháng nữa mình chỉ cần thêm đôi nạng là đời mình tươi chán.
Nói xong, anh hỏi tôi :
- Cậu được đi với Bác đấy ư?
Không thể giấu và cũng không nỡ giấu anh tôi khẽ gật đầu. Anh nhìn tôi, đôi mắt sáng lên :
- Mừng cho cậu nhé! Mình cũng được thơm lây vì đã có bạn là cận vệ của Bác - Anh hạ giọng nói tiếp - Đánh trận này thật là sướng! Bác khen chúng mình lắm phải không cậu?
Tôi lại gật đầu. Anh suy nghĩ rồi nói thêm:
- Bác già rồi mà còn ra tận mặt trận lãnh đạo chúng mình chiến đấu. Bác lại tới tận đây thăm chúng mình. Mình nghĩ: giá có chết trận này cũng thỏa. Giờ chỉ tiếc là không về được nhà đem lê tới biếu Bác. Mình đã nghĩ như vậy từ khi nghe tin Bác trực tiếp ra mặt trận. Và nếu được mang lê đến mình sẽ nói: "Thưa Bác, đây là thứ lê Đông Khê ngon có tiếng, nay Đông Khê đã thoát khỏi tay giặc, cháu xin mang biếu Bác”.
Sợ tụt lại quá xa, tôi đành từ biệt anh bạn thân mến đầy nhiệt tình ấy để theo Bác. Khi gặp Bác, Người chỉ còn phong phanh một chiếc sơ mi. Tôi hỏi đồng chí Định mới rõ: Người đã, tặng cho một đồng chí bị thương nặng chiếc áo ngoài của Người rồi.
Trên đường về, Người bảo chúng tôi:
- Mai các chú để lại một người làm việc với Bác, còn tất cả ra bệnh viện cùng các cô, chú hộ lý, dân công cắt gianh làm đệm cho các cô, các chú thương binh nằm. Trời lạnh lắm.
Ngày hôm sau, Bác đi thăm thị trấn Thất Khê để tìm hiểu tình hình nhân dân mới được giải phóng. Sau đó, Người đi thăm trại tù binh.
Những ngày này các lán cũ của quân ta được dùng làm trại tù binh. Trong trại, lính da trắng, da đen lính ngụy đầy ứ cả. Trông những bộ quần áo dù của chúng với những túi “bắt gà” kiểu Mỹ đến là ngứa mắt!
Tôi cùng đồng chí Định được theo Bác tới thăm một trại tù binh. Nhưng khi cán bộ của trại hướng dẫn Người đi các lán, tôi dừng lại ở ngoài. Chờ tới hơn hai tiếng đồng hồ mới thấy Bác về. Khi Người về lại thấy không có áo ngoài, tôi hỏi đồng chí Định. Đồng chí cho biết:
- Bác đã nói chuyện với nhiều tên sĩ quan và binh lính của địch, da trắng cũng có, da đen cũng có. Sau Bác nói chuyện với một tên đại úy thầy thuốc, lâu đến ngót một giờ, thấy nó bị lạnh, Bác cởi áo cho hắn.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sao Bác lại cho nó?
- Đó là một tù binh nhưng là một bác sĩ, nó biết lẽ phải, lại đang bị thương.
- Sao đồng chí biết?
- Đồng chí phụ trách trại giới thiệu Bác là một ông già Việt Nam tới thăm tù binh. Khi Người hỏi chuyện, tôi thấy lúc đầu nó cũng bình thường, sau tỏ vẻ phục và hiểu, cuối cùng hắn khóc và khi nhận áo Bác cho hắn lại càng khóc to hơn.
Mấy ngày sau, trên đường về Cao Bằng, tin tức càng làm cho chúng tôi thêm phấn khởi: địch đã rút chạy khỏi Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu và Thái Nguyên (vì khi Lơ-pa-giơ tiến lên Thất Khê, Bộ chỉ huy Đông Dương của địch đã cho binh đoàn CMA thọc lên Thái Nguyên để đỡ đòn, nhưng bọn này cũng bị ta diệt vài trăm tên, nên chúng cũng phải rút về Hà Nội).
Trên đường số 4, Bác hóa trang như một đồng chí bộ đội già, cùng chúng tôi vui vẻ đi cạnh nhiều toán bộ đội, dân công.
Trời hanh dịu. Lúa bên đường nhiều thửa đã chín vàng. Nhiều đoàn dân công cũng đang trở về gặt lúa. Đúng như dự kiến của Bác, chuyến đi đã hơn một tháng.
Câu chuyện dọc đường thật là vui vẻ, hào hứng, hết chuyện chiến đấu sang chuyện tù binh. Một đồng chí hỏi tôi:
- Cậu có biết vừa qua ta dùng cách gì gọi lính địch ra hàng nhạy nhất không?
- Dùng sĩ quan địch đi gọi, hoặc dùng loa chứ gì?
- Đều có dùng cả, nhưng không phải nhạy nhất đâu! Cứ để đồng chí anh nuôi quảy gánh cơm đi sau, chúng mình lấy từng nắm xâu vào đầu một cây nứa, rồi đi đến các vách núi, ven suối mà gọi “Ven-xi, măng-giê” là các chú lính địch đói khát, mò ra cứ như ếch thấy hoa mướp ấy.
Còn rất nhiều chuyện vui, chuyện lạ nữa khiến chúng tôi phải cười đến đau cả bụng.
Nhưng chuyện say sưa rôm rả nhất, vẫn là chuyện Bác đi chiến dịch. Có nhiều anh em kể nghe tưởng như một đoạn thần thoại nào đó.
Những câu chuyện ấy, đôi lúc khiến Bác cũng phải bật cười.
Đường từ Cao Bằng về Bắc Cạn đã thưa người, lại vắng cả tiếng máy bay. Một không khí bình yên lạ thường. Bữa cơm lại trở về với những món ăn cổ truyền: “Thịt hộp Việt Minh”.
Về khỏi Bắc Cạn có một chuyện vui. Đêm ấy, Bác và chúng tôi vào nghỉ trong một nhà ở đầu bản nọ. Đồng bào hay tin có bộ đội đi chiến dịch về, nên kéo nhau đến hỏi chuyện rất đông. Sợ lộ, chúng tôi phải nói là có đồng chí bộ đội bị mệt, nên mời đồng bào về nhà to ở giữa bản, chúng tôi sẽ tới nói chuyện.
Đồng bào nghe lời. Chúng tôi cử một tổ tới nói chuyện, đồng bào nghe mãi quá nửa đêm mới chịu về ngủ.
Thấy nói có bộ đội mệt, đồng bào thương lắm, đem cho cá và măng chua để nấu canh ăn cho khỏi sốt rét. Chúng tôi đem muối trả lại. Sớm hôm sau nấu canh cá với măng chua, ăn ngon tuyệt.
Lúc đi đường, Bác nói đùa:
- Canh cá nấu với măng chua chữa sốt rét tài thật! Đồng chí bộ đội già hôm qua mệt, thế mà hôm nay đi bộ đến sức trai cũng không theo kịp.
Bác, cháu cười vang cả núi rừng.
Về tới nhà, Bác nhận ngay được báo cáo: Địch đã bị ta đánh bật khỏi Lào Cai. Trên đường chúng rút lui, ta tiêu diệt một số lớn tại giữa khoảng Sa Pa. Ta bắn rơi cả máy bay khu trục, thu được cả đại bác 105 ly. Mặt Hòa Bình ta cũng đánh bật địch ra khỏi thị xã và truy kích về tới Xuân Mai, gần Hà Đông.
Thế là ta thắng địch ở Đông Bắc mà Trung du, Tây Bắc, Tây Nam, chúng đều phải cút chạy.
Trích “Theo Bác đi chiến dịch" - An Quân - Nhà xuất bản
Văn học giải phóng - 1976.