Vương Văn Long
(Công an Tuyên Quang)
Những ngày đầu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới thành lập, có một số người Pháp đội lốt giáo sỹ hoạt động gián điệp, tổ chức bọn phản cách mạng điên cuồng chống lại chính quyền dân chủ nhân dân. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, chúng ta phải bắt giam một số.
Cuối năm 1949, cuộc kháng chiến thu được nhiều thắng lợi lớn trên khắp các chiến trường. Cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao của ta có điều kiện phát triển tốt. Hồ Chủ tịch ra lệnh ân xá cho năm tên tội phạm người Pháp đội lốt thầy tu. Ngày 21-12-1949 một cán bộ của Nha công an mang lệnh đó về cho Tỉnh ủy và Ty công an Tuyên Quang chúng tôi thi hành.
Chỉ thị của trên dặn rõ phải thả chúng về tận bốt địch và thả đúng lúc 23 giờ đêm 24 -12, để chúng kịp dự lễ Nô- en. Đây là một yêu cầu rất quan trọng vì đúng giờ Nô-en đêm ấy, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam sẽ công bố sắc lệnh ân xá của Hổ Chủ tịch; cho nên nếu thả sớm quá thì kẻ địch có thì giờ lợi đụng tuyên truyền xuyên tạc là chúng đã cứu thoát bọn này, ngược lại nếu thả muộn quá thì sẽ ảnh hưởng đến nội dung công bố trên đài. Ty công an Tuyên Quang giao cho tôi nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh của Bác. Chỉ còn vẻn vẹn có 72 tiếng đồng hồ nữa là đã phải thả chúng tận bốt Việt Trì (Phú Thọ). Thế mà giờ này, chúng tôi vẫn còn nằm ở Tuyên Quang! Nếu tính theo đường quốc lộ, thì con đường sẽ phải đi là 80 cây số. Không thể đi theo đường quốc lộ được, vì dọc con đường ấy máy bay địch thường bắn phá, tính mạng của chúng thật khó bảo đảm. Đi tắt đường rừng ư? Càng không thể được. Bọn cố đạo phản động làm gì có đôi chân trèo đèo, lội suối như chúng ta? Khi đến cách Việt Trì khoảng tám, chín cây số, còn phải dừng lại ở một trạm để đọc thư Hồ Chủ tịch cho chúng nghe!... Nhiệm vụ thật khó khăn phức tạp, nhưng phải được thi hành thật nghiêm chỉnh và chính xác.
Tuy chưa tìm ra cách nào đi nhanh nhất, tôi vẫn tổ chức lực lượng dẫn giải. Số người đi dẫn giải gồm có: Anh Sáng (ở ủy ban hành chính Tỉnh), anh Tuất, anh Đức (ở đội công an lưu động Ty). Chúng tôi gấp rút bàn bạc kế hoạch tiến hành cụ thể. Điều băn khoăn của tôi, qua trao đổi, đã được anh em giải quyết. Anh em chọn đường Sông Lô. Đi đường ấy, vừa an toàn lại vừa bảo đảm thời gian. Kế hoạch nhất trí, tôi cử anh Sáng đi trước để bố trí địa điểm đọc thư Bác. Còn lại ba chúng tôi gấp rút chuẩn bị thuyền bè và mọi thứ cần thiết. Tôi đến nơi quản chế bọn cố đạo phản động vào bảy giờ sáng hôm ấy. Thấy chúng tôi, bọn cố đạo dương những đôi mắt xanh lét nhìn rồi lẳng lặng làm dấu. Tôi nhìn bao quát ngôi nhà một lượt: nhà cao ráo, sáng sủa, chia ra nhiều gian, gian để đọc sách, cầu kinh, gian để ngủ, gian nào cũng gọn gàng, ngăn nắp.
- Tất cả các ông, chuẩn bị gấp để lên đường !
Tôi nhìn thẳng vào chúng và nói dõng dạc một câu như vậy. Có tên tuột tay đánh rơi kinh thánh. Có tên run lên như cầy sấy, mặt cắt không còn giọt máu. Chắc chúng nó nghĩ là mấy ông này đến đem chúng đi xử tử đây. Thấy một đứa mặt đỏ như gà chọi cứ luẩn quẩn mãi, muốn bỏ lại tất cả để đi tay không cho nhẹ, tôi bảo:
- Không được để lại trong nhà này một thứ đồ dùng nào của các ông.
Tên đội lốt giáo sỹ mặt đỏ giật mình vội vàng vơ tất cả, bó gọn thành một bó.
Chúng tôi áp giải bọn cố đạo đi bằng thuyền, năm tên Pháp phản động cứ ngồi thu lu trong khoang thuyền. Đến bữa thì cho chúng ăn, lúc có máy bay thì đưa chúng vào bờ trú ẩn, chúng tôi làm tất cả những việc đó nhằm bảo đảm an toàn tính mạng cho chúng trở về bốt địch. Ngày thứ hai, trời bỗng đổ mưa to, gió lớn. Con thuyền gỗ nho nhỏ lúc bình thường chứa tám người đã là cố gắng lắm, bây giờ gặp mưa lại càng chật chội hơn. Chúng tôi bàn nhau định dừng lại vài giờ chờ mưa tạnh, nhưng kiểu trời này, biết bao giờ mưa mới tạnh được? Vả lại dừng một vài giờ sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch chung. Phải đi ngay. Mưa cũng đi! Chúng tôi nhường khoang thuyền cho bọn cố đạo ngồi. Ba anh em dầm mưa, thay nhau chèo thuyền và tát nước. Chúng tôi nghĩ: “Mình có ướt cũng chẳng sao, nhưng bọn cố đạo bị ướt, ta thả về bốt địch trông lếch thếch khó coi, ảnh hưởng đến ý đồ của Bác”. Đêm ấy trời mưa dầm, gió rét, nhưng con thuyền vẫn không dừng lại. Càng về gần Việt Trì, lại càng phải cảnh giác. Trong phạm vi mười cây số quanh vị trí quan trọng này, bọn giặc thường đi càn quét. Tuy thế, ngày hôm sau chúng tôi cũng không gặp khó khăn gì hơn. Khoảng bảy giờ tối ngày 24 tháng 12 thì chúng tôi đã đưa bọn phản động tới một căn nhà lá ba gian khá rộng ở thôn An Thái, huyện Việt Trì. Đây là địa điểm đã được anh Sáng đi trước bố trí. Chúng tôi ngồi chờ một chốc thì một cán bộ của Nha công an đi ngựa tới, mang theo một số du kích Hoàng Ngân, có trang bị súng ống đầy đủ đến. Chưa bao giờ tôi thấy một cán bộ cấp trên diện bảnh bao như thế. Anh mặc bộ quần áo dạ màu tím than, bên trong mặc áo sơ mi trắng, thắt ca-vát, khẩu súng pặc-hoặc trễ bên hông, trông oai lắm. Bọn cố đạo phản động đưa mắt nhìn anh rồi lại cúi gầm xuống. Anh bước vào nhà chào mọi người, rồi nói với bọn phạm tội:
- Tôi đem thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho các ông đây... - Vừa nói, anh vừa lấy ra một phong thư đánh máy bằng giấy pơ-luya. Anh đọc dõng dạc bằng tiếng Pháp.
Nghe xong thư, bọn chúng bàng hoàng, mắt thằng nào cũng sáng lên, run run cảm động.
Anh cán bộ Nha công an lại nói tiếp :
- Theo lệnh trên, tất cả những đồ lễ và đồ dùng riêng của các ông từ trước thì các ông được mang theo, còn những thứ của Chính phủ cung cấp thì phải trả lại hết cho Chính phủ...
Anh chưa nói dứt thì có thằng đã đứng dậy khóc hu hu. Một đứa nói tiếng Việt bập bẹ, giọng nghẹn lại:
- Xin đa tạ ông... ông cho chúng tôi gửi lời qua ông cảm ơn lòng nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tha tội chết cho chúng tôi... Thưa ông, mệnh lệnh thì phải thi hành, nhưng quần áo đây, chăn màn đây là của Hồ Chủ tịch. Chúng tôi xin các ông để được mang theo vì đó là của Hồ Chủ tịch... Những vật kỉ niệm sâu sắc nhất của cuộc đời chúng tôi.
Anh cán bộ nhìn chúng. Thật là khó xử! Không ngờ lại xảy ra chuyện này. Anh hỏi thêm ý kiến tôi và cuối cùng chúng tôi đều nhất trí cứ cho chúng mang theo.
Được chúng tôi đồng ý, tên khóc nước mắt ròng ròng bê một cái chăn đến trước mặt tôi:
- Thưa ông, đây là một trong năm cái chăn Cụ Hồ đã cho chúng tôi đắp mấy năm trời. Chúng tôi xin các ông để nhớ mãi ngày hôm nay, ngày mà Cụ Hồ tha tội chết cho những kẻ Giu-đa.
Một thằng khác tay ôm chặt cái áo trấn thủ vào ngực nói một thôi:
- Thưa ông... khi được hồi hương chúng tôi sẽ đem áo này để nói rõ cho nhân dân nước chúng tôi được biết lòng nhân đạo, lòng bác ái của Cụ Hồ. Chúng tôi sẽ nói hết sự thật cuộc chiến tranh phi nghĩa của quân đội Pháp đang tiến hành ở Việt Nam mà các ông đang là người chiến thắng ...
Tên này nói chưa hết, tên khác đã xen vào. Vui mừng, ân hận, hứa hẹn, cảm ơn: thật là lần đầu tiên trong đời, tôi tin là người Pháp nói thật.
Bây giờ, tôi mới thấy hết ý nghĩa to lớn trong việc làm của Bác. Bác Hồ! Bác Hồ! Một cảm giác khó tả tự nhiên dào dạt trong lòng. Tôi sung sướng vì mình đang được chiến đấu và công tác dưới lá cờ của Bác, hơn thế, đang thi hành một chỉ thị trực tiếp của Bác.
Anh cán bộ của Nha ra về, tôi quay lại bảo bọn cố đạo:
- Ba giờ nữa là đến giờ Nô-en, mà từ đây về đến Việt Trì còn gần mười cây số nữa, các ông phải nhanh chóng thay quần áo, mang theo tất cả đồ dùng cùng chúng tôi lên đường ngay.
Đêm. Căn cứ Việt Trì chìm lặng như một nấm mồ u uất. Chốc chốc, những ánh đèn pha loé lên và tiếng súng nổ hốt hoảng. Tổ chức Nô-en gì mà thầm lặng thế? Nhìn đồng hồ, thấy đã mười một giờ đêm. Khi chỉ còn cách bốt giặc có vài trăm mét, chúng tôi quyết định thả bọn cố đạo Pháp. Bỗng dưng chúng run lên cầm cập:
- Dạ thưa ông! Bây giờ phải đi thế nào mà vào được bốt, không thì chúng nó bắn chết hết.
Thật là một chuyện nực cười.
- Các ông cứ đi thẳng vào cổng bốt, người nọ đi cách người kia, đừng đi tụm nhau, đừng làm động thì chúng nó không bắn đâu... Chúc các ông lên đường may mắn.
Bọn cô đạo Pháp cảm ơn rối rít. Đi được một đoạn một tên còn quay lại nói trong tiếng thở hổn hển:
- Chúng tôi gửi lời các ông về cảm ơn lòng bác ái của Hồ Chủ tịch, cảm ơn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà... Chúng tôi sẽ nói rõ sự thật này cho nhân dân nước chúng tôi...
Mười phút, rồi mười lăm phút trôi qua. Chúng tôi chuyển đến một địa điểm khác và đưa ống nhòm lên coi. Năm cái bóng đen vừa đi vừa vẫy khăn tay trắng tiến vào cổng bốt. Lính trong đồn kéo ra lố nhố vây chặt lấy mấy thằng vừa trở về.
Bọn tội phạm đã được phóng thích an toàn. Tự nhiên hình ảnh của Bác Hồ lại hiện lên rõ nét trước mặt tôi. Lòng tôi dạt dào niềm sung sướng vì tôi vừa hoàn thành một công việc mà Bác đã tin cậy giao cho một cách khẩn trương và chính xác.
TRƯỜNG THI ghi