Vương Văn Long
(Công an Tuyên Quang)
Hôm ấy đồng chí Nguyễn Văn Luân, Trưởng ty công an Tuyên Quang, gọi tôi lên trao nhiệm vụ chuẩn bị đi bảo vệ một lãnh tụ của Đảng đến thăm mấy nơi trong tỉnh.
Ngay hôm ấy, tôi đi tắt con đường rừng ba mươi cây số đến Đoan Hùng (Phú Thọ) là địa điểm mà Ty Tuyên Quang bắt đầu chịu trách nhiệm về công tác bảo vệ. Đồng chí cán bộ Nha công an Trung ương phổ biến với tôi về chuyến đi thăm phái đoàn bạn của lãnh tụ. Tính toán qua, tôi biết thế nào cũng sẽ phải ngủ lại dọc đường, do đó cần có một nơi ăn, nghỉ cho thật chu đáo. Một đồng chí công an tin cậy được phái đi trước để chuẩn bị cơ sở.
Chúng tôi đi qua những cánh rừng lim Cát Lem bát ngát. Những âm thanh ào ào như thác đổ vọng lại. Đi được một quãng nữa, chúng tôi nghe rõ có những tiếng hô vang:
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
Chúng tôi bị cuốn hút bởi một cảnh tượng đột ngột hùng vĩ. Cả một sườn đồi trùng trùng điệp điệp những đoàn quân. Giữa rừng người đó, một cụ già tóc bạc đang giơ cao hai tay hỏi:
- Các chú bộ đội có giữ bí mật không?
- Có ạ!
Cả đoàn quân cùng đáp lại.
- Chúc các chú lên Tây Bắc đánh giặc giỏi. Đã giữ bí mật thì đừng chạy theo Bác nữa!
Tôi muốn reo lên thật to. Tôi mê mải ngắm nhìn Bác. Một niềm vui khôn tả râm ran chạy khắp người. Rõ ràng tôi đang đứng gần Bác mà cứ ngỡ mình đang mơ. Hình như đồng chí nào đã giới thiệu tôi với Bác nên vừa thấy tôi đến, Bác đã hỏi ngay:
- Thế nào, chú Long công an Tuyên Quang chờ Bác đã lâu chưa?
- Dạ!...
Tôi run run bàng hoàng cảm động chỉ nói được thế.
Trời ngả bóng, Bác cùng chúng tôi gấp rút lên đường. Để giữ bí mật người nọ phải đi cách người kia hàng chục mét, không ai được nói chuyện. Chúng tôi lần lượt vượt qua những ngọn núi. Tôi đã quen leo núi, nhưng theo kịp Bác quả là vất vả. Tôi vẫn luôn luôn nhìn về phía trước. Bác đội mũ cát sáu múi, mặc áo bờ-lu-dông chiến lợi phẩm, quần gụ xắn cao đến gối, đôi dép cao su, tay chống gậy, bước đi thoăn thoắt. Thỉnh thoảng Bác phải đi chậm lại chờ chúng tôi.
Đến bến Hiên thì trời vừa tối. Từ đây vào đến chỗ phái đoàn bạn phải một chặng đường gần chục cây số nữa. Đường rừng chỉ vừa một người đi lọt, lại phải qua bốn, năm con suối; nếu đi cả đêm, sáng cũng chưa chắc đã đến nơi. Chúng tôi xin phép Bác nghỉ lại. Địa điểm Bác cùng chúng tôi dừng chân ở gần một trạm công an công khai, nên cũng có thuận lợi. Song để giữ bí mật, Bác bảo chúng tôi không ai được nói là Bác đến. Bác dặn như vậy nên tôi đã bảo đồng chí trưởng đồn công an là một đồng chí chuyên gia nước ngoài đi công tác qua, nhỡ đường, xin ngủ lại. Do cách hoá trang tốt nên không ai nhận ra Bác. Chúng tôi bố trí để Bác nghỉ tại một quán hàng bỏ lại của một người đi tản cư. Quán này có hai gian lợp lá, tuy vắng chủ nhưng vẫn còn lại một cái phản gỗ ọp ẹp. Bác vào xem qua, rồi đồng ý ngay. Chúng tôi vội vàng thu xếp, căng màn mời Bác nghỉ.
Đêm đông. Trời tối như bưng, rừng cây mịt mù, gió nổi từng chặp, từng chặp lạnh buốt. Tôi đứng cạnh giường canh giấc Bác ngủ. Mỗi lần Bác trở mình thúng thắng ho là một lần lòng tôi như thắt lại. Tôi cứ đứng như thế bên Bác cho đến sáng. Tôi sung sướng thấy Bác đã ngủ được chút ít, nhưng rồi nỗi lo lại ập đến. “Chặng đường ngày mai chúng tôi đi qua, máy bay địch thường xuyên bắn phá, mình giữ trách nhiệm bảo vệ thì phải làm thế nào đây?”.
Mặt trời còn ngủ, nhưng Bác đã lay hai đồng chí cảnh vệ và đồng chí nhiếp ảnh dậy:
- Các chú ơi, ta dậy đi cho sớm để tránh máy bay địch.
Chúng tôi xuống suối lấy một bình tông nước để Bác rửa mặt. Thu dọn chăn màn cho vào ba lô, chúng tôi theo Bác lên đường ngay.
Rừng rậm, sương phủ mù mịt. Người nọ đi cách người kia khoảng bốn, năm mét mà chỉ nhìn thấy bóng nhau lờ mờ, lúc ẩn lúc hiện. Chúng tôi đến một bến đò thì trời vừa tang tảng sáng. Bác lấy khăn bịt râu và không hút thuốc lá nữa. Người lái đò vẫn điềm nhiên chở khách sang sông. Chúng tôi bước lên bờ. Đây là con đường mười ba mà chúng tôi sẽ phải đi dọc theo gần hai cây số. Trên đường từng đoàn dân công đang tải đạn, tải gạo lên chiến trường Tây Bắc. Giọng một cô gái miền xuôi từ đầu dốc cất vút lên một câu hò quen thuộc. Tiếng hò lan toả ra cả đoàn người đang mải mê tiến về phía trước.
Chúng tôi vẫn đi cách xa nhau để giữ bí mật cho Bác. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đến đoạn rẽ vào rừng. Đoạn đường này đi nhàn hơn đoạn đường vừa đi buổi sáng, nhưng vẫn phải lội qua năm con suối. Trời lạnh quá! Chúng tôi định tìm đường khác để Bác không phải lội suối; nhưng đến con suối nào Bác cũng đều xắn quần lội qua trước. Chúng tôi chỉ còn biết lội theo Bác. Đến Đát Bàn, chúng tôi gặp một cọn suối khá đẹp, Bác dừng lại cùng chúng tôi chụp ảnh. Vừa chụp ảnh xong, chúng tôi bèn đề nghị với Bác nghỉ một lúc. Bác xắn quần lội nước phăng phăng:
- Bác cháu mình đứng lại chụp ảnh là đã nghỉ rồi. Các chú phải khắc phục khó khăn. Còn năm năm nữa Bác cháu mình sẽ được đi trên con đường cái lớn.
Thế là trên đoạn đường dài ba cây số đến chỗ phái đoàn bạn đang làm việc, tôi cứ suy nghĩ đến câu nói của Bác. Còn năm năm nữa, cuộc kháng chiến chống Pháp sẽ hoàn toàn thắng lợi. Rồi tôi cứ mường tượng đến ngày vui lớn ấy. Sau ngày giải phóng Thủ Đô, ngồi trên lễ đài dự lễ kỷ niệm, chúng tôi sực nhớ lại lời Bác nói cách đây năm năm, hôm nay đã thành sự thật. Chúng tôi đều kinh ngạc bởi lời tiên đoán ấy.
Một giờ sau, chúng tôi đặt chân đến khu rừng thưa có nhiều dãy nhà lá. Tuy là nhà lá nhưng trông nhà nào cũng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng. Đây là khu nhà của hai phái đoàn bạn đang ở. Anh em cán bộ bạn vừa thoáng trông thấy Bác chống gậy đi vào sân, đã chạy ra vây chặt lấy Bác, nói cười vui vẻ. Vị đứng đầu phái đoàn bạn dắt tay Bác vào trong nhà rồi tự mình pha sữa mời Bác. Bác ngồi xuống ghế và giơ tay làm hiệu từ chối. Bác nói Bác đã ăn sáng rồi. Chắc là không muốn phiền bạn nên Bác nói vậy, chứ thực ra từ sáng đến giờ Bác chưa ăn uống gì. Bác nói chuyện với bạn bằng tiếng Pháp. Chúng tôi nghe không hiểu hết được nội dung câu chuyện. Khoảng một giờ sau, Bác bắt tay tạm biệt bạn, rồi cùng chúng tôi ra về. Vị đứng đầu phái đoàn bạn lưu luyến tiễn chân chúng tôi một quãng đường.
Bác cùng chúng tôi về đến Mỹ Lâm thì trưa. Chúng tôi định vào cơ sở ăn cơm, nhưng vì có tiếng máy bay nên Bác bảo chúng tôi mang cơm ra bãi cỏ trong rừng ngồi ăn. Tôi cùng đồng chí nhiếp ảnh vào bưng cơm, lại mượn thêm chiếc chiếu của gia đình ra ngồi. Thấy chúng tôi mang chiếu ra, Bác bảo: “Các chú không được làm phiền đến nhân dân”. Tôi mang cái chiếu trả lại đồng bào. Lúc tôi đi ra thì Bác cùng mấy đồng chí bảo vệ đã bẻ lá rừng lót trải thay chiếu rồi. Đến khi đặt mâm cơm xuống, Bác nhìn thấy con gà luộc, đĩa cá và hai bát canh măng, Người không vui lòng.
- Trong khi nhân dân đang thắt lưng buộc bụng kháng chiến, mình ăn cơm thế này là ăn cơm quan đây!
Bác chia đôi tất cả các món ăn. Bác bảo chúng tôi chốc nữa mang vào cho những gia đình nghèo trong xóm. Đang ăn cơm thì máy bay địch ập đến. Mọi người đều bỏ đũa. Mấy anh em bảo vệ chúng tôi cứ lo cuống lên. Chúng tôi còn đang nhốn nháo thì Bác đã giơ tay làm hiệu cho mọi người ngồi cả xuống.
- Các chú ngồi cả xuống. Không được nhốn nháo. Nhốn nháo là nó phát hiện thấy mình.
Máy bay địch ào qua một ngọn núi rồi nhằm phía suối nước nóng bắn xuống. Những tiếng nổ rất đanh đập mạnh vào vách đá. Máy bay vừa cút, bữa ăn của chúng tôi lại tiếp tục. Vừa ăn cơm, Bác vừa vui vẻ hỏi tôi:
- Chú Long là công an, vậy ở Tuyên Quang ai là người mua nhiều “công trái quốc gia” nhất?
- Dạ, thưa Bác ở tỉnh cháu có bà Hồ Xuân Viện mua nhiều nhất ạ.
- Vậy ai là người nghèo nhất, mà lại mua cố gắng nhất?
Bác hỏi vậy, tôi đành chịu. Thật là một thiếu sót lớn. Thực ra tôi chỉ nắm được những người giàu nhất chứ tôi không nắm được người nào nghèo nhất mà cố gắng nhất. Tôi đành thưa với Bác:
- Thưa Bác, cháu không nắm được ạ!
Bác hỏi:
- Thế công an của ta là bạn dân hay bạn quan?
- Dạ, công an ta là bạn dân ạ.
- Đã là bạn dân thì các chú phải nắm được ai là người nghèo nhất chứ? Người giàu mua nhiều là chuyện tất nhiên, còn người nghèo mà mua cố gắng nhất, đó là tấm lòng nhiệt thành ủng hộ kháng chiến của họ!
Nghe Bác nói, tôi tự điểm lại công việc của mình. Đúng, chúng tôi chỉ vận động toàn dân mua thật nhiều công trái quốc gia chứ không chú ý đến hoàn cảnh của mọi người, nhất là những người nghèo.
Bác lại hỏi tôi:
- Vậy chú Long thường đi công tác qua vùng thị xã, chú có nghe thấy nhân dân kêu ca gì không?
- Thưa Bác, phong trào nói chung đều tốt ạ nhân dân thị xã Tuyên Quang tuyệt đối tin tưởng vào Đảng ạ.
- Các chú làm như vậy là tốt, nhưng Bác muốn biết về việc các chú xây đài thi đua ái quốc kia?
Hiểu ý Bác, tôi báo cáo lại rất cụ thể:
- Thưa Bác, máy bay Pháp phải tốn rất nhiều bom đạn mới phá được đài. Rất may, nhân dân thị xã đi tản cư cả nên không một ai bị thương vong. Cái cầu ở ngay bên cạnh đài cũng không việc gì cả!
- Các chú Tuyên Quang tếu lắm. Đang lúc kháng chiến lại bày ra trò thi đua ái quốc, vừa tốn kém, vừa làm mục tiêu cho máy bay địch đánh phá.
Bác ăn xong trước nhưng Người vẫn ngồi lại động viên anh em chúng tôi cố gắng ăn lấy sức, không nên để phí thức ăn. Bác bê bát canh chan đều cho anh em chúng tôi:
- Ăn hết đi các chú, ăn no mà đi đường cho khoẻ. Đừng bắt chước Bác, bụng Bác chỉ chứa được vậy thôi.
Bác nhìn tôi thân mật:
- Chú Long này, Bác mới đi qua vùng dân tộc, thấy họ kêu ca về cách xây dựng làng kiểu mẫu của các chú nhiều lắm. Kiểu mẫu về nội dung chứ không phải kiểu mẫu về hình thức bề ngoài.
Họ là người dân tộc, mà các chú bắt người ta mở đường to, xoay hướng nhà, thì ai người ta nghe? Làm như thế là đảo lộn phong tục tập quán của người ta đấy. Bác nghe dư luận như thế không biết có đúng không?
- Dạ thưa Bác...
Bác bảo: “Ở một vài nơi, khi nhân dân nộp thuế nông nghiệp xong xuôi, thóc còn thừa họ đem ra chợ bán, các chú lại cho dân quân, công an ra cản họ lại, bắt họ phải bán cho Nhà nước theo giá quy định. Làm thế là không được. Chính sách của mình không phải là "cưỡng bức, nạt nộ”. Bác dừng lại giây lát rồi nói:
- Tất cả những vấn đề Bác nói, chú Long phải về báo cáo lại với Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Tuyên Quang tếu lắm! Các chú công an là bạn dân thì phải đi sát dân. Dân có gì bằng lòng với Chính phủ và còn điều gì thắc mắc, các chú phải báo cho Tỉnh uỷ biết để Tỉnh uỷ có biện pháp khắc phục, sửa chữa.
Bác bảo chúng tôi thu dọn sạch sẽ chỗ ngồi để giữ bí mật, bát đũa phải mang trả lại đầy đủ cho nhân dân rồi mới tiếp tục lên đường...
Hàng chục năm đã qua.
Con đường cách mạng và kháng chiến mà bản thân người cán bộ công an của tôi phải vượt qua kể cũng đã dài hàng vạn cây số. Nhưng chặng đường rừng ngắn ngủi được đi bên cạnh Bác, cho đến bây giờ và chắc chắn là cho đến hết đời tôi, vẫn là chặng đường kỳ diệu nhất, vì chính trên chặng đường đó, tôi được hiểu thế nào là một người công an cận vệ của Đảng và người đầy tớ của dân.
TRƯỜNG THI ghi