Hoàng Hữu Kháng
(Cục Cảnh vệ - Bộ Nội vụ)
Cách mạng tháng Tám thành công, tôi được cơ quan giao nhiệm vụ ở lại tiếp tục làm một số công tác tại căn cứ địa. Cho đến tháng mười năm 1945 thì được Đảng gọi về Hà Nội.
Hồi này quân của Tưởng Giới Thạch đã tràn sang ta. Bọn Quốc dân đảng theo gót chủ cũng về phá rối.
Ngồi trên ô-tô từ Thái Nguyên về Hà Nội, tôi nghe hành khách kháo nhau đủ chuyện. Nào là chuyện quân Tàu trắng lợi dụng danh nghĩa Đồng minh, sang Việt Nam tước vũ khí Nhật, giở trò cướp bóc, hãm hiếp dân ta; chuyện bọn Việt cách, Việt quốc theo đóm ăn tàn.
Nghe những chuyện đó tôi nghĩ phải đề nghị với Đảng diệt phăng ngay bọn Tưởng, để nhân dân hết tai họa.
Về tới Hà Nội, tôi được các đồng chí ở cơ quan cho biết: “Tình hình bây giờ, ngoài bọn Tàu Tưởng ở ngoài Bắc, bọn Anh - Ấn trong Nam, trên đất nước ta còn có hàng chục vạn quân Nhật và hàng vạn quân Pháp. Bọn quân Pháp này, theo chỉ thị của bọn tư bản phản động chính quốc, đang lăm le khôi phục lại địa vị của chúng đã mất từ ngày bị bọn Nhật hất cẳng. Chúng đã nấp sau lưng quân Anh - Ấn gây hấn ở Sài Gòn. Ngoài khơi Ấn Độ Dương, binh đoàn Lơ-cơ-léc đang trên đường trở lại cướp nước ta. Tại nhiều địa phương, bọn phản cách mạng rắp tâm làm chó săn, chim mồi. Ngay ở Hà Nội, bọn đại diện của Tưởng Giới Thạch cũng đang âm mưu làm đảo chính, hòng đem bọn tay sai của chúng thay thế Chính phủ cách mạng của ta. Bọn côn đồ này đang không từ một hành động độc ác nào để phá hoại ta.
Nghe các đồng chí phổ biến tình hình, tôi thầm nghĩ: cách mạng của ta đang buổi trứng nước, sao phải đương đầu với lắm phong ba, bão táp đến như vậy? Lại còn giặc đói, giặc lụt nữa...
Tiếp đó, tôi được tổ chức phân công cùng với một số đồng chí tới bảo vệ và phục vụ Bác.
Hồi này Bác thật là vất vả. Việc nước thì nhiều lại toàn là những việc rất trọng đại: nào chỉ đạo Nam Bộ kháng chiến, lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nhân dân ta, xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ Tổ Quốc, chăm lo đời sống đồng bào; nào đối phó với bọn Tàu Tưởng, chống giặc đói, giặc dốt... Trăm công nghìn việc đều qua Bác. Trong lúc đó các cơ quan lại vừa mới thành lập, cán bộ đã thiếu lại chưa có kinh nghiệm công tác.
Công việc nhiều như vậy, nhưng Bác làm việc rất có kế hoạch. Hàng tuần, hàng ngày, có khi cả hàng giờ nữa đều có chương trình rõ ràng, đâu vào đấy. Chương trình đó Bác cho tôi biết trước để tiện phục vụ, kể cả chương trình tiếp khách.
Thấy anh em cảnh vệ chúng tôi văn hoá còn thấp, hàng ngày, khi công việc tạm ngưng, Bác lại còn đặt chương trình cho chúng tôi học tập. Giáo viên thì phân công người khá dạy người kém. Bác dạy cả cách đọc báo, nghiên cứu tài liệu. Những ngày cuối năm 1945, Người bắt đầu dạy chúng tôi học triết học. Qua học tập, cái ý nghĩ muốn diệt ngay quân Tưởng Giới Thạch, tôi đã thấy là nôn nóng, không đúng. Nhưng với bọn Quốc dân đảng trong nước thì tôi căm ghét lắm, chỉ muốn diệt chúng ngay mới hả giận nhất là sau khi chúng ám hại anh Trần Đình Long, một đảng viên xuất sắc của Đảng ta. Một hôm, trong buổi học thời sự, tôi hỏi Bác :
- Thưa Bác, tại sao chúng ta cứ để mãi cái bọn giết người độc ác ấy? Cháu tưởng lũ rác ấy, Bác cứ lệnh xuống là chỉ một đêm chúng cháu quét sạch bọn nó xuống cống hết!
Bác cười. Người chỉ gian phòng làm việc rồi hỏi tôi:
- Bây giờ có con chuột vào phòng gặm nhấm đồ đạc, các chú lấy gạch đá ném, hay khéo tìm cách bắt nó, hoặc đuổi nó đi?
- Dạ, lấy gạch đá ném sẽ vỡ mất đồ quý trong phòng ạ.
Bác kết luận:
- Đối với bọn phản cách mạng hiện nay cũng thế. “Nó lú nhưng chú nó khôn”. Muốn làm được việc lớn phải biết nhìn xa trông rộng.
Hiểu được rõ vấn đề, từ đấy chúng tôi không thắc mắc nữa .
Ngoài giờ làm việc, Bác thường đọc báo, đọc sách vào những giờ trưa, giờ tối. Người đọc báo vừa để nắm tình hình, vừa để kiểm tra, góp ý với các báo về việc phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và đấu tranh chống luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của bọn phản cách mạng. Nhưng nhiều báo quá, hàng mấy chục tờ báo, tôi không rõ Người đọc ra sao? Những bài quan trọng đăng trên báo nước ngoài, Bác thường đánh dấu cho chúng tôi cắt dán vào một quyển riêng để theo dõi.
Hàng tuần, Bác còn dành thì giờ tới các trường học, cơ quan, xí nghiệp, doanh trại của Giải phóng quân để tìm hiểu tình hình, chỉ bảo công việc.
Làm việc nhiều như vậy, nhưng Bác ăn uống rất đơn sơ. Những ngày đầu vẫn cơm gạo đỏ, rau muống. Bác ăn cơm chung với anh em cảnh vệ và cơ quan. Sau chúng tôi đề nghị nấu riêng cho Bác. Hồi ấy, lúa mùa bị lụt, mất nhiều, lại phải cung cấp gạo cho quân Tưởng Giới Thạch, nên đầu năm 1946 nạn đói lại đe dọa. Để giải quyết tình hình, một mặt, Bác kêu gọi tăng gia sản xuất, tiết kiệm, một mặt Bác đề ra phong trào “bớt bữa cứu đói”. Bác tự bớt bữa vào chiều thứ bảy. Cả tuần làm việc không ngơi, mà ngày hôm ấy, lại chỉ có một bữa! Nhiều lúc nhìn Bác làm việc tôi cứ ứa nước mắt. Tôi ước giá mình có tài gì mà giúp Bác giải quyết được công việc một chút thôi, thì cũng thỏa lòng.
Bác làm việc rất cương quyết, điềm đạm nhưng Người rất vui, rất giàu tình cảm. Những buổi Bác hướng dẫn về thời sự, ngoài việc giảng giải cho chúng tôi biết tình hình, Bác lại còn kể những mẩu chuyện vui làm cho chúng tôi nhớ mãi.
Tính Bác rất dễ xúc động. Có một đêm, Bác ngủ trên gác một căn nhà, tới bốn giờ sáng Người thức giấc. Ngoài trời gió vun vút đập vào cửa kính, ngồi trong nhà còn thấy lạnh, thế mà đã có tiếng trẻ em rao hàng dưới đường phố vọng lên. Bác mở cửa ngó nhìn cho tới khi em bé đi khuất, mới từ từ khép cửa lại.
Làm việc, ăn uống như vậy, giấc ngủ của Bác lại chả mấy khi yên, phải dời chỗ luôn, để đối phó với bọn phản cách mạng. May mà sức khoẻ của Bác hồi này lại tăng. Đó là vì Bác tập luyện rất kiên trì. Sáng dậy và buổi tối trước khi đi ngủ, bao giờ Bác cũng tập luyện. Lúc đầu tập theo phương pháp thông thường, sau đó chuyển sang tập quyền. Bài quyền Bác thường tập là bài “Bát lộ Liên hoa quyền”. Ai đã tập qua bài này, mới thấy cái khó nhọc của việc đi hết được các thế võ. Bề ngoài trông rất mềm dẻo, nhưng thật ra gân cốt phải vận động rất nhiều, nhất là đòi hỏi phải tập trung tư tưởng cao.
Đầu năm 1947, trước thế giặc hung hãn, để tiện cho việc lãnh đạo kháng chiến, các cơ quan lãnh đạo của ta lại trở về vùng Tuyên - Thái, vùng căn cứ trước Cách mạng tháng Tám. Sinh hoạt ở đây càng gian khổ hơn so với hồi còn ở Hà Đông và Sơn Tây. Mà công việc đến với Bác cứ như các lớp sóng biển dồn tới.
Bác vẫn làm việc thứ tự, ngăn nắp như thường lệ.
Nhớ những ngày đầu tới châu Tự Do, bộ phận đi với Bác rất gọn nhẹ, tất cả chỉ có tám người vừa làm cảnh vệ, vừa liên lạc, cấp dưỡng. Chúng tôi làm một chiếc lán dài, ngăn đôi. Một nửa để Bác ở và làm việc, một nửa chúng tôi ở, đồng thời dùng làm luôn cả phòng ăn, phòng họp.
Công tác bảo mật lúc này được đề ra rất cao. Nhân dân rất tốt, được giáo dục về giữ bí mật kĩ càng, nhưng vì lòng kính yêu đối với Bác nên vẫn rất khó giữ được bí mật. Do đó, cứ nửa tháng, mươi ngày lại phải chuyển chỗ ở.
Công tác cảnh vệ lúc này có nhiều mặt: phòng giặc, phòng gian, phòng cả thú rừng nữa. Anh Hoàng Hữu Nam (Thứ trưởng Bộ Nội Vụ lúc bấy giờ) gửi tới biếu Bác hai mẹ con con chó béc-giê, chỉ được thời gian ngắn, hổ đã đến vồ mất.
Về đời sống của Bác, vì di chuyển luôn, không tăng gia được, nên cũng gặp nhiều khó khăn. Hàng ngày, ăn toàn cơm gạo đỏ với rau tàu bay luộc, hoặc xào, còn thịt thì băm nhỏ, kho hai phần thịt, một phần muối ớt rồi cất đi, ăn dần.
Tuy thế đến đâu cũng vậy, hễ thu xếp xong chỗ ăn ở, Bác lại đưa chúng tôi vào chương trình học chính trị, văn hoá. Bác rất coi trọng việc phổ biến cho chúng tôi hiểu biết tình hình thời sự.
Nhớ một đêm, chúng tôi ngồi quanh bếp lửa, sinh hoạt tổ như thường lệ. Sau khi nghe phổ biến tin chiến sự và chủ trương trường kì kháng chiến của Đảng, chúng tôi đang trao đổi ý kiến với nhau thì Bác tới. Người ngồi lên một gốc củi rồi hỏi chúng tôi có thắc mắc gì không?
Một đồng chí trong chúng tôi hỏi Bác:
- Thưa Bác, chúng cháu nghĩ mãi vẫn chưa rõ tại sao phải đánh trường kỳ, vì đánh trường kỳ, thì hại người, hại của lắm!
Bác phân tích cho chúng tôi rõ các mặt lợi hại, rồi lấy một ví dụ:
- Sức ta lúc này như trai mười sáu, mà giặc như một lão già quỷ quyệt, độc ác. Nếu ta cậy sức đánh bừa thì sao chắc thắng được! Phải vừa đánh, vừa nuôi cho sức mình lớn lên. Khi sức ta đã khoẻ, giặc đã suy yếu, già cỗi, ta mới lừa thế quật ngã nó, như vậy có chắc thắng không?
Bác dừng lại nhìn chúng tôi một lượt và khi đã thấy chúng tôi nhận thức được, Bác kết luận:
- Vì vậy mới nói trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi.
Sau đó, Bác bảo chúng tôi:
- Các chú ở đây mỗi người một tên, khó gọi, dễ lộ bí mật. Để dễ gọi, để giữ bí mật và cũng thể hiện quyết tâm kháng chiến của chúng ta, từ này Bác đặt cho các chú tên mới theo câu Bác vừa nói, các chú có đồng ý không?
- Dạ! - Chúng tôi đều phấn khởi nhận tên mới.
Bác chỉ vào tôi và lần lượt đặt tên cho từng đồng chí. Từ đó tám anh em chúng tôi có tên mới là : Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.
Tới giữa năm 1947, tình hình các mặt trận đã tạm thời ổn định. Bác đề ra cho các cơ quan phải sản xuất để tự túc một phần lương thực. Muốn vậy cần phải có địa điểm ở tương đối tốt, phải có căn cứ địa trên một quy mô lớn.
Mỗi khi chúng tôi đi tìm địa điểm, Bác thường dặn những điểm cần thiết, nghe nhiều thành quen, lời Bác dặn giống như một bài thơ dễ nhớ:
Trên có núi
Dưới có sông
Có đất ta trồng
Có bãi ta vui
Tiện đường sang Bộ tổng
Thuận lối tới Trung ương
Nhà thoáng, ráo, kín, mát
Gần dân, không gần đường.
Chỉ có mấy yêu cầu ấy thôi, nhưng thực hiện được thật là khó. Núi đẹp thì thiếu sông, được nơi kín đáo lại không thoáng ráo, không gần dân. Tuy vậy, gắng sức vẫn tìm ra được nơi vừa ý.
“Chủ tịch phủ” hồi này cũng không còn là chiếc lán dài nữa. Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng.
Gọi là nhà lầu, thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải, sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy được các vật dùng để ở vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức lao động, tiện giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một cái bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ.
Đồ dùng riêng của Bác thật là giản dị. Chỉ có cái chăn, cái màn, vài bộ quần áo và đôi dép cao su chúng tôi mua ở phố Sơn Dương thôi. Nếu được lệnh di chuyển đi đâu, chúng tôi chỉ việc đem cái màn và mấy bộ quần áo kia cuộn vào cái chăn của Bác, thành một gói, thế là xong rồi. Ngoài ra còn có ít sách, ít tài liệu đựng trong chiếc túi, đi đâu Bác đeo lấy, chúng tôi chỉ mang hộ Bác chiếc máy chữ xách tay. Do đó ngôi nhà lầu tuy nhỏ mà vẫn rộng.
Dạo này ngoài việc tập võ thuật, Bác còn tham gia đánh bóng và bơi lội. Bác chơi bóng chuyền rất vui. Người búng bóng, phát bóng chắc chắn, nhưng tuổi già nên chậm, chỉ đỡ được những quả nhẹ nhàng và ở phía trước thôi. Do đó, hễ bên kia bị thua là cánh trẻ cứ nhắm Bác, bỏ nhỏ. Những lúc ấy, Bác thường cười và nói:
- A, bên kia truy “tủ” rồi!
Bác cháu cười vang cả khu rừng.
Lúc bơi lội, chúng tôi thường bơi quanh Bác để giúp Người những khi qua dòng suối nước mạnh. Bác thường đùa, Người chỉ vào mình và chúng tôi mà nói:
- Đây là “bà già”, còn đây là các tàu bay khu trục.
Nhờ tập đều như vậy, nên mỗi khi đi công tác qua sông, bất kể ngày đêm. Bác vẫn cùng chúng tôi bơi qua sông một cách dễ dàng. Những lúc đi công tác gặp lũ to, suối lớn cũng ít khi Người chịu dừng lại.
Cuối thu năm 1947, cuộc sống của Bác và cháu chúng tôi đã khá chu đáo. Quanh nhà đã có vườn rau, giàn mướp, đàn gà, sân bóng, xà đơn, xà kép. Bác còn bảo mua đàn về để các đồng chí trẻ học nhạc, học hát cho vui.
Ngoài công tác, tăng gia của cơ quan, Bác lại cho chúng tôi tới làm giúp dân ở các xóm quanh đó, bày cho bà con biết cách làm ăn có kỹ thuật, hoặc cho thuốc chữa bệnh, tham dự các buổi họp của dân v.v... Những buổi làm giúp như vậy, nhân dân thường đem cho gà và nếp. Trước chúng tôi không nhận, dân không bằng lòng, sau nhận rồi trả tiền, hoặc xem có cái thứ gì dân cần thì biếu lại. Thế là cả hai bên cùng vui vẻ.
Giữa lúc ấy thì địch nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn. Tình hình chiến sự lúc này chúng tôi được biết là: Mặt trận từ Bình-Trị-Thiên trở vào Nam, thì các mũi tấn công của địch tạm dừng lại. Còn ở ngoài Bắc, sau thời gian địch chiếm được các thành phố lớn và đường số 5, đường Hà Nội - Nam Định, chủ lực của chúng đã phải rải ra để chiếm đóng, nên các cuộc tấn công thời gian qua có giảm đi. Gần đây, sau khi nối được hành lang Đông, Tây (Tây Bắc, Hoà Bình, Hà Nội, Hải Phòng, Tiên Yên, Lạng Sơn) lại có thêm viện binh từ Pháp mới sang, địch quyết định tấn công Việt Bắc - nơi đầu não của kháng chiến. Chúng cho binh đoàn Bô-phơ-rê từ Lạng Sơn lên chiếm Cao Bằng, binh đoàn Com-muy-nan từ Việt Trì ngược sông Lô lên chiếm Đoan Hùng, Tuyên Quang, Chiêm Hoá. Âm mưu của chúng là hội quân ở Bắc Cạn, tạo thành một cái ô bọc lấy Việt Bắc, rồi chúng cụp ô lại, khép chặt vòng vây, dưới đánh lên trên đánh xuống, nhảy dù những nơi nghi có cơ quan của Đảng và Chính phủ để lùng bắt, phá cho được đầu não của cuộc kháng chiến. Sau đó chúng sẽ bình định nốt các vùng khác. Kế hoạch của chúng thật là to lớn! Chúng đã xây một giấc mơ thật là “huy hoàng”!
Sau khi Bác đã bàn bạc với Trung ương Đảng, với Bộ tổng tư lệnh để đối phó với tình hình, Người cho lệnh dời cơ quan.
Tôi thắc mắc hỏi Bác về tình hình, Bác bảo:
- Chúng mạnh về hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy thì cái ô cụp xuống sẽ thành ô rách! Tiếc là ta chưa có đủ chủ lực để chặn bàn tay của chúng thò vào trong ô, nên Bác và các chú cũng sẽ vất vả ít lâu đấy!
Tôi chưa hiểu hết, nhưng cũng không tiện hỏi thêm.
Đêm ấy, chúng tôi sắp xếp ra đi với tám gánh. Trời tối, mưa trơn, gió bấc hun hút, Bác, quần áo gọn, tay chống gậy, khăn mặt vắt vai, đi toàn đường tắt, hẻo lánh, đường mà đội Giải phóng quân thứ hai năm xưa đã đi xây dựng cơ sở. Đường trơn, gánh nặng mà chúng tôi, tuy có được rèn luyện trong kháng chiến nhưng chưa phải tất cả đã quen, nên tới nửa đêm có người đã bị tụt quá xa, người khỏe phải ghé vai giúp đỡ đồng chí yếu sức.
Ngày hôm sau nghỉ, lương thực vơi đi một ít, cuộc hành quân thoải mái hơn. Trước lúc lên đường, Bác bảo:
- Rút kinh nghiệm đêm qua hành quân thiếu công tác chính trị nên mệt, hôm nay các chú đi gần Bác, Bác kể chuyện cùng nghe.
Lúc đầu kể chuyện vui, chuyện thời sự, sau Người bảo:
- Các chú cần phải hiểu và thuộc Kiều, Chinh phụ ngâm mới được, đó là những áng thơ hay của nước mình.
Chúng tôi vâng lời. Người bắt đầu dạy. Tiếng Bác đọc trước, tiếng chúng tôi học theo sau, giọng ngâm nga trầm bổng, hòa với tiếng đòn gánh tre điểm nhịp làm cho chân bước quên cả mỏi.
Người dạy và giảng cho chúng tôi nghe cái hay, cái đẹp của Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm cũng nhiều lần, nhưng tôi vốn không có khiếu văn chương nên quên cả. Chặng đường từ Quán Triều trở đi, đường to dễ bước, đoạn thơ Kiều, Bác dạy lại phù hợp với lòng mình, nên tôi thuộc rất mau. Đó là đoạn:
" ...Nửa năm hương lửa đang nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng thẳng rong... ”
Tôi thích vì cái “nhà” của chúng tôi bên núi Hổng, cũng đang lúc “hương lửa đang nồng” mà phải dứt lòng ra đi.
Trải qua hai đêm vất vả, chúng tôi về tới địa điểm và bố trí cơ quan làm việc trong một khu rừng. Ở đây ít lâu thì tin chiến thắng Bông Lau trên đường số 4, chiến thắng Đoan Hùng, Bình Ca trên sông Lô dồn dập bay về. Lúc này tôi mới hiểu lời Bác nói trước khi đi. Gọng kìm chưa gãy nhưng địch không mạnh nữa rồi!
Thu dọn, bố trí chỗ ở vừa xong, Bác lại cho chúng tôi đi gặt giúp dân, lúc này dân đang gặt gấp để cất giấu thóc lúa phòng địch nhảy dù đốt phá.
Khu chúng tôi ở, có con đường xuyên qua nên dân hay đến hỏi công việc. Để tiện liên lạc, chúng tôi đặt ở lối vào một cái mõ, ai có việc cần tới cứ đánh mõ, chúng tôi sẽ ra. Sau mấy ngày đi gặt, mõ cứ gõ luôn, ra tới nơi chẳng thấy ai, chỉ thấy gạo, gà, mật ong, đồng bào để đó, vì đồng bào sợ chúng tôi không nhận nên đánh mõ gọi, rồi gửi quà lại.
Công việc đã tạm ổn định, thì một đêm, khoảng mười hai giờ, Bác đi họp về gần tới cơ quan, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập từ phía sau vọng đến. Bác lắng nghe và bảo:
- Chừng lại có việc gấp rồi!
Một lát sau, đồng chí Chánh văn phòng Bộ Quốc Phòng cùng đồng chí bảo vệ, từ trên mình hai con ngựa ướt đẫm mồ hỏi nhảy xuống báo cáo với Bác và đưa thư của anh Văn xin ý kiến Bác. Qua ý kiến của đồng chí Chánh văn phòng, tôi được biết: Theo tin tình báo của ta, ngày mai địch sẽ nhảy dù chiếm khu vực này. Phối hợp với binh đoàn Bô-phơ-rê rút từ Bắc Cạn về, chúng sẽ càn quét vùng Thái Nguyên, Tràng Xá...
Bác viết thư trả lời anh Văn và dặn dò đồng chí Chánh văn phòng xong. Người dùng điện thoại trao đổi với các cơ quan gần đấy. Sau đó Người ra lệnh cho chúng tôi chuẩn bị di chuyển cơ quan. Thu xếp xong thì vừa ba giờ sáng.
Bác quyết định tranh thủ đi cả ban ngày, phân tán thành từng tổ hai, ba đồng chí. Tôi được đi với Bác. Đêm qua Bác dự hội nghị rất khuya, suốt cả ngày và đêm nay lại đi miết, nhưng Người vẫn dẻo dai. Chừng gần sáng thì hai Bác cháu qua một cánh đồng rộng. Thấy một cái lều gần bìa rừng bỏ trống, Bác bảo vào nghỉ một chút cho đỡ mệt rồi sẽ đi. Vừa cởi ba-lô ra, Bác đã nói ngay:
- Chú đi ngủ trước, đến năm giờ thì dậy gác thay để Bác ngủ.
Chỉ có hai Bác cháu mà Bác cũng cắt gác!
Bác đã bảo là phải nghe, nên mặc dầu rất áy náy, tôi cũng đành phải vâng lời. Mệt quá, nằm xuống tôi đã thiếp đi luôn. Đến năm giờ mười phút Bác mới gọi tôi dậy thay gác.
Trời dần sáng. Tôi ngồi ngoài cửa nhìn Bác ngủ. Kỳ này Bác khoẻ lắm. Nước da hồng hào, gân ở bắp chân nổi lên cuồn cuộn, nên Bác đi bộ cả ngày là chuyện thường. Nhưng râu và tóc của Bác so với ngày đầu tôi mới gặp Người, thì đã bạc đi nhiều rồi.
Thương Bác suốt ngày vất vả, tôi định để Bác ngủ đến sáu giờ ba mươi sẽ gọi. Nhưng đúng sáu giờ Bác đã thức dậy. Người hỏi:
- Sáng hẳn chưa chú?
Lúc này trời bỗng có sương mù nên cũng đỡ ngại địch nhảy dù sớm. Bác cháu tiếp tục lên đường. Dọc đường, tôi phàn nàn:
- Giá có một tiểu đoàn bảo vệ thì Bác đỡ vất vả.
- Sao chú lại nghĩ vậy! Nếu lúc này ta có lực lượng thì để đánh giặc chứ! Có đánh được giặc mới bảo vệ được mình.
Sau đó, Bác giải thích cho tôi rõ:
- Vì phong trào du kích chiến tranh chưa cao, nên ta còn phải phân tán bộ đội ra xây dựng cơ sở du kích trong các tỉnh. Khi nào du kích chiến tranh đã phát triển, lúc ấy ta sẽ rút dần bộ đội về, thành lập các lực lượng chủ lực, bấy giờ mà chúng còn mò sâu vào vùng tự do của ta như thế này, chúng sẽ biết tay!
Cả ngày hôm ấy, Bác cháu đi miết về tới Quảng Nạp thì được tin trưa hôm đó, địch đã nhảy dù xuống khu vực cơ quan vừa di chuyển.
Ở Quảng Nạp còn đang chờ nghe tin các nơi, thì địch đã nhảy dù xuống Cù Vân, Đại Từ, binh đoàn Bô-phơ-rê chia một cánh quân tới chiếm Quán Vuông, chợ Chu, phối hợp với nhau càn quét khắp vùng này. Bác ra lệnh cho các cơ quan chuyển sâu lên phía trên thượng nguồn sông Đáy.
Đến địa điểm mới được mấy ngày, thì tin tức từ mặt trận báo về là bọn giặc đã bị quân ta chặn đánh các ngả, phải rút khỏi Thái Nguyên chạy về Hà Nội. Chúng đã bỏ lại hàng ngàn xác chết, hàng trăm tên bị bắt sống.
Chiến dịch Việt Bắc năm 1947 là thất bại lớn đầu tiên của giặc.
Cuộc kháng chiến của ta bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới. Tin chiến thắng từ mặt trận báo về liên tiếp. Các nơi gửi rất nhiều quà chiến lợi phẩm về biếu Bác. Bác nhận rồi giao cho cơ quan chuyển đi tặng các cụ phụ lão, các cháu thiếu nhi và các anh em thương bệnh binh trong các bệnh viện. Căn cứ địa của ta ngày một thêm vững vàng. Lúc này, chúng tôi làm lại một cái nhà chu đáo, đẹp đẽ hơn để Bác làm việc và nghỉ ngơi. Ngày ngày Người rất bận, nhưng thường lệ, nếp sinh hoạt của Người rất đều đặn, thứ tự. Những ngày gần Bác bao giờ tôi cũng thấy Người như thế, dù lúc thuận lợi hay khi tình hình diễn biến phức tạp, khó khăn, căng thẳng, phong thái của Người cũng vẫn điềm tĩnh, kiên quyết, lạc quan, tự tin... Giống như người cầm lái, dù tối trời biển lặng hay lúc sóng to, gió lớn vẫn vững tay chèo lái.
Ngọc Châu ghi