Việt Dũng
(Cục Cảnh sát bảo vệ - Bộ Nội vụ)
Cuối tháng 4 - 1945, sau khi các mũi quân Nam tiến của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân về tới khu giải phóng Tân Trào, trường Quân chính kháng Nhật liền được thành lập.
Vào một buổi sáng, chúng tôi đang tập trung để sắp sửa làm việc thì đồng chí Văn(1) tới thăm.
(1) Đồng chí Võ Nguyên Giáp
Tôi đoán chắc có việc gì quan trọng đây!
Đúng vậy, sau khi nói chuyện về tình hình đấu tranh chống Nhật ở các nơi và nhắc nhở chúng tôi về nhiệm vụ học tập, xây dựng trường, đồng chí nói:
- Đoàn thể cần một số đồng chí đi công tác, các đồng chí cần nhận rõ học tập hay đi công tác đều là trách nhiệm của đoàn thể giao cho, chúng ta phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.
Chúng tôi tha thiết mong được học, nhưng khi nói đến công tác cần, thì ai cũng sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Chúng tôi đi về phía đình Tân Trào. Được chừng nửa cây số gặp con suối, đồng chí Hồng Thái đưa chúng tôi lội ngược dòng. Đi một quãng nữa thì rẽ quặt lên đồi rồi tạt sang sườn núi. Cơ quan ở ngay trên núi này, đó là một nhánh của ngọn núi Hồng. Đứng trên đỉnh núi, chúng tôi có thể quan sát khắp cánh đồng Tân Trào, đến sông Đáy, đèo De...
Cơ quan có một lán dài ngăn đôi, một nửa to có nhiều người ở. Vũ khí, toàn các-bin và tiểu liên “tôm- sơn”. Còn một nửa nữa được ngăn ra, ở đó có một điện đài, và có một số đồng chí đang làm việc. Cách lán đầu chừng ba mươi thước có một lán nhỏ nữa.
Các đồng chí đang làm việc ở cơ quan thấy chúng tôi tới liền chạy lại chào hỏi. Đồng chí Hồng Thái vui vẻ giới thiệu chúng tôi với các đồng chí trong cơ quan.
Giữa lúc đó, tôi nghe có tiếng ho từ phía lán nhỏ, rồi một ông cụ gầy yếu, tay chống chiếc gậy song đi lại. Cụ mặc áo ngắn, kiểu người Nùng (cổ cao, hàng cúc giữa bằng vải), quần áo đều màu chàm, nhưng đã bạc. Ông cụ đội chiếc mũ vải kiểu các cụ già người Nùng. Cụ đi thẳng tới chỗ chúng tôi. Tôi thấy lúc cụ đi tới, mọi người đều đứng nghiêm chỉnh và khi cụ đi thì mọi người nhường bước.
Ông cụ vui vẻ hỏi tôi:
- Các đồng chí mới đến phải không?
Tôi vội trả lời:
- Báo cáo đồng chí, chúng tôi mới đến.
Ông cụ gật đầu bảo:
- Tốt, đồng chí Hồng Thái cần giao nhiệm vụ và giúp đỡ cho các đồng chí ấy công tác.
Nói xong ông cụ đi xuống phía nhà bếp.
Lần đầu tôi gặp một cụ già như vậy. Ông cụ tuổi khoảng gần sáu mươi, mái tóc bạc quá nửa, người cụ tuy gầy yếu mà cặp mắt rất sáng, nghiêm nghị, vầng trán cao, giọng nói rất rõ ràng, ấm áp. Ông cụ có cái nhìn rất lạ, nhìn vào ai cứ như thấu suốt mọi ý nghĩ trong con người đó, khiến cho sau mỗi câu hỏi của ông cụ, người trả lời thấy mình phải nói thật trung thực. Còn riêng nét cười của ông cụ thì thật là hiền dịu, làm cho chúng tôi vừa gặp lần đầu, đã cảm thấy gần gũi ngay.
Ông cụ đi khỏi, một đồng chí cũ nói với tôi:
- Đấy, ông cụ đấy!
Giới thiệu vậy thì chỉ làm cho tôi càng thêm bỡ ngỡ, vì tôi đã biết ông cụ là ai đâu?
I
Đêm ấy, sau khi được đồng chí Hồng Thái giao nhiệm vụ cụ thể, lại được sinh hoạt cùng tiểu đội cảnh vệ, chúng tôi được rõ là: cơ quan này rất quan trọng; ông cụ là cán bộ thượng cấp. Ở đây có hai lớp học: lớp học điện đài và lớp chính trị đều do ông cụ hướng dẫn cả. Trách nhiệm của đội cảnh vệ là phải bảo vệ cơ quan cho tốt.
Nghe giới thiệu, lòng tôi càng suy nghĩ về ông cụ.
Bỗng nhiên tôi nhớ trước đó mấy ngày, đội giải phóng quân của chúng tôi vừa về tới Tân Trào, đồng chí Quang Trung(1) bỗng hỏi tôi:
(1) Thiếu tướng Đàm Quang Trung, tư lệnh Quân khu I hiện nay.
- Đồng chí quê chợ Đồn à?
- Vâng - Tôi trả lời.
- Đồng chí có thuộc các đường về đấy không?
- Thuộc chứ!
- Đi đón ông cụ nhé! Đi cả tiểu đội của đồng chí!
Nghe đồng chí Quang Trung nói vậy, tôi hơi lạ, ông cụ nào mà lại phải mang cả tiểu đội đi đón? Tuy vậy, tôi không dám hỏi kỹ. Đồng chí Quang Trung lại nói:
- Chờ liên lạc sẽ đi, việc này tuyệt đối bí mật đấy!
Thấy việc quan trọng nên tôi hỏi thêm:
- Từ chợ Đồn về đây có hai đường. Đường chợ Đồn đi Phong Vân, Nghĩa Tá về chợ Chu - tức là đường đồng chí Văn đã Nam tiến - thì tôi không được rõ! Còn đường chợ Đồn qua Tổng Quản về, đường đồng chí Khang Nam tiến - thì tôi thuộc.
Nghe vậy, đồng chí Quang Trung bảo:
- Nếu đi đường đồng chí Khang thì đồng chí sẽ đi.
Tôi vâng lời, nhưng sau đấy không thấy đồng chí Quang Trung nói gì nữa.
Giờ đây, ở cơ quan lại có ông cụ này, chắc ông cụ mà đồng chí Quang Trung đã nói! Có lẽ ông cụ là người đứng đầu của Việt Minh mình đây.
II
Ở gần ông cụ được vài ngày, tôi nhận thấy ông cụ làm việc sao mà nhiều như vậy! Suốt ngày cụ đọc sách và viết tài liệu, viết báo, dạy chính trị v.v... Ngoài ra, bất kể ngày đêm, cán bộ các nơi còn luôn luôn đến nhận chỉ thị. Cả anh Văn, anh Khang cũng thường tới cơ quan xin ý kiến của cụ.
Bận như vậy nhưng ông cụ rất quan tâm săn sóc chúng tôi. Ngoài việc giáo dục về chính trị, ông cụ còn dạy bảo rất tỉ mỉ về cuộc sống tập thể, như bày cho chúng tôi cách đặt chương trình học tập, làm việc trong ngày, trong tuần; cách sắp xếp trật tự trong lán, nhất là cách giữ gìn súng đạn. Ông cụ thường dạy không nên ngồi chơi rỗi, phải lấy sách báo ra đọc, hoặc vá quần áo v.v... Hồi đó giữa mùa xuân nước suối từ trong khe chảy ra còn lạnh. Ông cụ thường dặn chúng tôi không nên tắm lâu, đề phòng cảm. Khi tập thể dục có những đồng chí thường tập cho có lệ, ông cụ ra xem sửa chữa động tác cho từng người. Ông cụ còn làm mẫu và bảo: “Các đồng chí tập theo tôi, tập thế này mới được”. Những buổi đi lấy rau rừng, ông cụ hướng dẫn cả cho chúng tôi cách đi lấy rau, cách chọn rau ngon v.v...
Hằng ngày, ông cụ thường xuống suối, tắm rửa hoặc giặt lấy quần áo.
Do chưa có kinh nghiệm nên anh em thanh niên chúng tôi mỗi khi lên xuống núi thường hay ngã, còn ông cụ tay chống gậy, vai vác ống nước, vai vắt quần áo vừa giặt, chẳng bao giờ bị ngã. Thấy anh em ngã nhiều, cụ bảo:
- Các đồng chí cứ làm theo tôi thì không việc gì!
Thì ra chúng tôi vì sợ đi giữa đường lội, nên cứ tránh sang hai bên, làm cho đường ngày một to ra và sườn núi trơn nên hay ngã. Còn cụ cứ giữa đường đã đánh bậc sẵn cụ đi, tuy lội một chút, về tới lán sẵn ống nước xách lên, ông cụ rửa một nửa, còn một nửa để rửa tay trước và sau khi ăn cơm.
Từ khi anh em học ông cụ cách xuống suối, lên núi thì không mấy ai ngã nữa.
Đúng như quy định của đồng chí Đường, sau ba ngày tôi ra báo cáo công việc và nghe đồng chí Đường hướng dẫn công tác. Buổi đầu, sau khi nghe tôi trình bày, đồng chí hỏi:
- Ông cụ có khoẻ không?
- Khoẻ - Tôi trả lời.
- Gần ông cụ đồng chí thấy thế nào?
- Ở với bố đã 18 năm rồi, bố cũng dạy mọi điều, nhưng gần ông cụ có ba ngày mà tôi thấy như ông cụ dạy còn nhiều hơn.
Đồng chí Đường nghĩ một lát rồi nói:
- Đồng chí có văn hoá nên đóng một quyển sổ nhỏ, mỗi khi ông cụ nói câu gì mà đồng chí thích, thì đồng chí ghi vào sổ, sau sẽ có một quyển sách quý lắm đấy.
Mỗi lời dặn của đồng chí Đường tôi đều ghi nhớ.
Công tác được một tuần lễ, có lẽ do đồng chí Đường đề nghị, tôi được ông cụ lấy vào học lớp chính trị cùng với anh em học sinh mà ông cụ đang dạy. Tôi biết anh em này đều là cán bộ hoạt động từ lâu về đây học cấp tốc rồi đi công tác ngay. Tôi được đưa vào học có lẽ do sự chiếu cố riêng.
Buổi học đầu của tôi đúng vào bài nói về Mặt trận Việt Minh. Ông cụ đưa chúng tôi quyển sách nho nhỏ in đá, trong đó nói về chương trình điều lệ của Mặt trận.
Tôi vào Giải phóng quân giữa lúc phong trào cách mạng đang lên cao. Các đội Giải phóng quân vừa phát triển mạnh nên chưa huấn luyện được kỹ. Tôi được học đồng chí Khang, đồng chí Quang Trung ngay trong mỗi công tác thực tế. Có lúc đồng chí Khang hướng dẫn cả bài nói chuyện cho tôi, rồi tôi nhẩm kỹ cho thuộc, để khi ra nói chuyện sẽ nói bằng tiếng Tày cho khỏi vấp váp. Đây là lần đầu tôi được học về tôn chỉ, mục đích, chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh một cách kỹ càng. Vì vậy được vào học, tôi rất cảm động. Nhưng khi đọc đến đoạn nói trong Mặt trận Việt Minh có cả Đảng Cộng sản tham gia thì tôi giật mình ngơ ngác! Thật tôi không thể ngờ được là sao Mặt trận Việt Minh lại có cả Đảng Cộng sản tham gia!
Vừa may ông cụ bảo phát biểu những điều chưa hiểu, tôi giơ tay ngay. Được ông cụ chỉ định, tôi mạnh dạn nói:
- Thưa cụ, tại sao trong Mặt trận của ta lại có Đảng Cộng sản?
Lời tôi vừa dứt thì trong lớp đã có nhiều tiếng xì xào. Trước phản ứng đó, tôi lo sợ. Ông cụ ra hiệu cho mọi người giữ trật tự rồi hỏi lại:
- Đồng chí hiểu về Đảng Cộng sản như thế nào?
- Thưa cụ, cháu chưa hiểu, nhưng nghe người ta nói Đảng Cộng sản không tốt! Họ chủ trương cái gì cũng làm của chung cả, lại không có gia đình, không có biên giới, không có chính phủ.
Nghe tôi trả lời, nhiều đồng chí trong lớp học ngạc nhiên. Riêng ông cụ, vẻ mặt thoáng nét buồn. Cụ hỏi thêm:
- Đồng chí nghe ai nói vậy?
- Thưa cụ, nhiều người nói...
Ông cụ lại hỏi:
- Những người ấy là thế nào với Tây?
- Họ là những người...là những người làm việc với Tây ạ
Trả lời câu hỏi xong, tôi thấy tất cả những ý nghĩ của mình về Cộng sản từ trước tới nay là sai rồi. Thấy tôi như đã vỡ lẽ ra, ông cụ liền đặt câu hỏi khác:
- Đồng chí nghe Pháp, Nhật nói về Việt Minh ta thế nào?
- Dạ, nó nói là giặc cỏ, là ăn cướp ạ!
Lúc ấy ông cụ chỉ một đồng chí học viên khác bảo trả lời câu hỏi ban đầu của tôi.
Đồng chí ấy đứng dậy nói:
- Đế quốc Pháp, phát xít Nhật ghét Cộng sản cũng như ghét Việt Minh ta. Nó dùng mọi điều xấu xa để gán cho Cộng sản và Việt Minh ta. Những người Cộng sản là những người kiên quyết đánh Pháp, đuổi Nhật nhất trong Mặt trận Việt Minh ta, do đó họ là nòng cốt, là cơ quan tham mưu của Mặt trận.
Các học viên khác đều đồng ý.
Ông cụ lại hỏi tôi:
- Đồng chí đã hiểu chưa?
Tôi trả lời là:
- Thưa cụ, cháu đã hơi hiểu ạ!
Lúc ấy ông cụ mới dịu dàng giải thích. Mỗi lời ông cụ nói về Đảng Cộng sản, về những người Cộng sản, cứ như những ngọn đèn thắp lên trong óc tôi lúc ấy.
Thấy tôi chừng đã hiểu, ông cụ hỏi thêm:
- Đồng chí đã thấy người Cộng sản nào chưa?
Tôi thành thật trả lời:
- Dạ, chưa!
- Nếu đồng chí Văn, đồng chí Khang là những người Cộng sản thì đồng chí có thích không?
- Dạ, thích ạ!
Các đồng chí trong lớp học đều cười một cách vui vẻ.
Ông cụ chuyển sang giảng các bài học khác. Sau buổi học tôi suy nghĩ mãi về bài học vừa qua, về Đảng Cộng sản, cố tìm xem trong đoàn Giải phóng quân ai là những người Cộng sản? Cộng sản và Việt Minh thì khác nhau những gì?
III
Công tác và học tập được ít lâu, bỗng một buổi trưa tôi thấy người mệt. Tôi không thể cùng anh em vào rừng kiếm củi được. Tôi xin phép đồng chí Hồng Thái ở lại nhà nằm nghỉ. Vừa đặt mình nằm xuống thì cơn sốt kéo đến, tôi quấn chặt hai chiếc chăn mà người vẫn run lên và hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Giữa lúc ấy tôi chỉ ước gì có vài người đè lên tôi và giữ chặt hộ, hoặc có lò than bên cạnh thì mới ghìm cơn rét lại được.
Lát sau cơn rét lui, cơn sốt nóng lại đến. Người tôi như lò than, đầu tôi nhức buốt, khó chịu quá. Tôi bỗng nghĩ vẩn vơ: “Giá ở nhà thế nào bà mẹ, cô em gái lúc này cũng đã đánh cảm và nấu nước xông cho mình rồi. Ừ, dạo bắt đầu vào Việt Minh, mẹ mình ở nhà sợ không có ai giúp đỡ, hỏi cho một cô vợ, vừa cưới về buổi sáng thì chiều mình đi. Chả biết cô ấy bây giờ làm gì? Giá ở nhà, thế nào cô ấy cũng nấu cho mình bát cháo gà để sau cơn sốt dậy ăn, cho lại sức...”. Nghĩ hết chuyện quá khứ lại nghĩ sang hiện tại. “Ở đây tình đồng chí thật là cao nhưng mọi thứ thiếu thốn quá!”. Tôi cảm thấy nhớ nhà da diết. Đang nghĩ lẩn thẩn chợt có người bước nhè nhẹ đến bên tôi, rồi ngồi xuống giường. Tưởng là có đồng chí nào trong đội đổi gác về, tôi cứ trùm chăn mải mê với dòng suy nghĩ miên man của mình. Một bàn tay mát dịu luồn vào, đặt lên trán tôi, tiếp đó là tiếng hỏi thân thuộc:
- Đồng chí nào mệt đây?
Tôi giật mình nhận ra tiếng ông cụ. Tôi vội thò đầu ra khỏi chăn. Tay ông cụ vẫn đặt trên trán tôi, đôi mắt nhìn như ôm lấy tôi. Ông cụ hỏi: “Đồng chí có mệt lắm không?”.
Cảm động quá, tôi vội thưa:
- Thưa cụ, cháu bị sốt rét, giờ đỡ rồi.
Ông cụ gật đầu bảo:
- Đồng chí sốt thật. Cố ngồi dậy, dựa vào cột cho đỡ mệt, tôi đi lấy thuốc cho đồng chí uống.
Nghe nói uống thuốc, tôi tỉnh cả người. Mỗi viên thuốc trong hoàn cảnh bấy giờ rất quý giá. Thấy ông cụ phải bận tâm về mình, tôi hơi ngài ngại, tôi toan thưa lại thì ông cụ đã đi rồi. Nhìn theo mái tóc đã bạc quá nửa, đôi vai gầy của ông cụ, lòng tôi nao nao. Tôi biết giờ này là giờ đọc sách của ông cụ, sao ông cụ bỗng tới lán của chúng tôi? Chắc là trong lúc sốt rét tôi đã run mạnh làm động tới sàn nứa, ông cụ biết nên tới! Tôi đã học y tá mà chưa giúp được gì cho anh em trong đội. Bây giờ chính tôi lại được ông cụ săn sóc.
Đang nghĩ, ông cụ lại đến, tôi tưởng như cơn sốt giảm hẳn đi, liền vùng dậy sẵn sàng nhận thuốc uống. Thấy vậy, ông cụ cười bảo:
- Đồng chí cố gắng như vậy là tốt, bây giờ đồng chí uống một viên, chiều uống viên nữa.
Nói xong, ông cụ dốc chiếc lọ con lấy ra hai viên ký ninh trắng. Tôi thấy trong đó còn hơn chục viên, có lẽ thuốc dành riêng của ông cụ, ông cụ đã lấy cho tôi. Thấy tôi đã uống thuốc rồi, ông cụ dặn thêm:
- Đỡ rồi, đồng chí phải dậy đi lại mới được, nằm nhiều là dễ bị con ma ốm nó quật đấy. Bây giờ tôi về làm việc.
Ông cụ đi, tôi lặng nhìn theo, không biết nói gì. Còn một viên thuốc tôi đặt giữa lòng bàn tay. Hết nhìn viên thuốc tôi lại nhìn về phía lán ông cụ ở. Hình ảnh ông cụ in vào lòng tôi như ngọn núi Cứu Quốc của quê hương đã in trong tâm hồn tôi từ buổi ấu thơ.
Tôi khỏi bệnh, thì ngày mùng 1 tháng 5 đã đến. Hôm ấy chúng tôi cố gắng động viên nhau làm cho xong căn nhà, để có thành tích kỉ niệm ngày Quốc tế lao động. Tôi mới mệt dậy nên được phân công vá quần áo cho anh em. Đang vá, tôi chợt thấy đồng chí liên lạc lên, mang theo một số báo và tài liệu, ngoài ra, còn có một hộp gì màu đỏ trông rất đẹp, tôi đòi xem.
Đồng chí liên lạc vẻ bí mật nói:
- Quà ở xa gửi biếu ông cụ đấy!
Đồng chí liên lạc về rồi, ông cụ mang cái hộp xuống bếp, tôi tò mò theo xuống xem. Tới bếp, tôi thấy ông cụ đang bảo đồng chí Trần Đình (một đồng chí cũ, lúc này vừa bảo vệ Bác, vừa làm cấp dưỡng):
- Còn ít gạo nếp, ta đem nấu, khi dừ gạo, đồng chí nhớ cho hộp mật này vào, làm sao để mỗi người một bát.
Đồng chí Đình ngần ngừ nói:
- Thưa Bác, cái này để Bác dùng(trong chúng tôi lúc ấy chỉ có đồng chí Trần Đình gọi ông cụ là Bác) vì sức khoẻ Bác chưa được tốt.
Ông cụ bảo:
- Tôi mệt thì anh em cũng mệt, hôm nay là ngày mùng 1 tháng 5, tôi được quà từ ngoài gửi biếu, anh em cũng phải có phần.
Nghe ông cụ nói, đồng chí Đình đành miễn cưỡng vâng lời.
Chờ ông cụ về rồi, tôi vào xem chiếc hộp. Đúng là hộp mật ong khô. Quý thật! Có lẽ thứ mật này làm ở một nước có kỹ nghệ thực phẩm cao gửi tới. Tôi bàn với đồng chí Đình nấu một nửa, còn dành lại cho ông cụ một nửa. Đồng chí Đình cười bảo:
- Tính Bác vậy, Người đã bảo làm, phải làm theo. Bớt lại, Bác sẽ bắt nấu lần nữa thì mình đâm dại.
Trưa hôm đó, chúng tôi có bữa chè mật ong. Hương vị ngon ngọt của chén chè ấy, tưởng như bây giờ vẫn còn nguyên vẹn.
IV
Đầu tháng 7 năm 1945 lớp học chính trị đã kết thúc, các học viên đã đi nhận công tác, chúng tôi ở lại vừa bảo vệ, vừa tiếp tục học tập. Sáng hôm ấy, chúng tôi vừa rửa mặt xong, chợt có tin một toán thổ phỉ vốn là đặc vụ của Tưởng mang danh mượn đường chống Nhật nhưng lại có liên hệ với Nhật, đang tiến vào đèo De để dò la căn cứ địa của ta. Một bộ phận Giải phóng quân đã đi mai phục. Vì trận địa gần cơ quan quá, các đồng chí đề nghị ông cụ tạm dời khỏi cơ quan. Ông cụ đồng ý. Đơn vị bảo vệ để lại hơn nửa quân số, nếu phỉ tràn vào sẽ đánh, còn một tổ năm đồng chí do tôi chỉ huy thì bảo vệ ông cụ và tài liệu, tạm lánh đi nơi khác.
Trước lúc ra đi, ông cụ kiểm tra lại công việc gói buộc tài liệu, việc bố trí hành quân, chuẩn bị súng đạn của chúng tôi một cách tỉ mỉ. Kiểm tra xong, ông cụ dặn:
- Các đồng chí đi phải giữ bí mật, không được gõ vào cây nứa gây tiếng động, không được phát đường, bẻ lá. Đồng chí đi sau cùng phải xóa dấu vết của anh em đi trước. Các đồng chí rõ chưa?
Chúng tôi trả lời:
- Dạ, rõ rồi ạ.
Ông cụ gật đầu, nói:
- Được, chúng ta đi.
Chúng tôi lên đường, nhằm hướng đỉnh núi cao nhất đi lên. Đi trước là các đồng chí mang “các-bin”. Thứ hai là một đồng chí vai đeo túi dết của ông cụ, trong đựng đầy tài liệu, và lưng đeo cái ba lô của ông cụ - (chúng tôi thường gội đùa là “ba-lô sách”, vì nó đựng cả quần áo, chăn màn, mà vẫn chỉ to bằng quyển sách lớn). Thứ ba là ông cụ, tay chống gậy, vai cũng đeo túi dết đầy tài liệu. Sau đó, hai đồng chí khênh hòm sách quý. Tôi đi sau, có trách nhiệm xoá dấu vết.
Đường đi dốc đứng, lại không được phát các dây leo, cây lá ngáng đường nên càng khó khăn hơn. Chúng tôi đi chầm chậm để giữ sức cho ông cụ, vì ông cụ vẫn không được khoẻ lắm. Trong lúc đi đường, chúng tôi xin đeo hộ ông cụ túi dết nhưng ông cụ không bằng lòng.
Lên đến gần đỉnh núi, nơi có một gốc cây to, sạch sẽ và có chỗ ngồi bằng phẳng, chúng tôi dừng lại tạm nghỉ. Chúng tôi toan chặt lá để ông cụ ngồi, ông cụ xua tay rồi đến ngồi trên một hòn đá. Vừa ngồi xuống, ông cụ liền giải thích cho chúng tôi rõ cần phải giữ bí mật. Ông cụ bảo làm như vậy là để nếu kẻ địch có vào tới lán của ta, chúng cũng không biết dấu vết của ta đi về phía nào mà truy tìm.
Giải thích xong, ông cụ đặt câu hỏi:
- Nếu địch tới đây, ta đối phó thế nào?
Một đồng chí trả lời:
- Thưa cụ, phải kiên quyết chiến đấu để diệt chúng.
Ông cụ chỉ gói tài liệu hỏi:
- Nếu trong lúc chiến đấu, vì lực lượng yếu ta phải rút đi nữa, số tài liệu này sẽ làm thế nào?
- Ta phải đốt đi ạ.
- Không được, tài liệu này rất quý. Ta phải cất giấu vào rừng, hoặc nên chôn đi để khi chiến đấu không lo lắng về nó và nếu có phải rút, cũng không ngại. Sau đó, ta sẽ quay lại lấy tài liệu.
Anh em mỗi người một ý, hăng hái phát biểu.
Ồng cụ nghe xong, liền kết luận:
- Các đồng chí đều nói đúng. Giặc có tới, phải kiên quyết đánh, "tài liệu là sinh mệnh của chúng ta, phải bảo vệ đến cùng. Vậy ta nên tìm cách tạm cất giấu đi để khi xảy ra chiến đấu, ta hoạt động dễ dàng.
Chấp hành chỉ thị của ông cụ, chúng tôi đào một hố sâu, bỏ hòm sách xuống, lấy lá khô ngụy trang. Ông cụ bảo:
- Đừng lấp đất vội, cứ chuẩn bị sẵn khi nào cần sẽ lấp, bây giờ các đồng chí nên nghiên cứu cách đánh khi chúng tới đây.
Trong lúc chúng tôi để một đồng chí cảnh giới, rồi bàn bạc cách đánh, ông cụ lấy sách ra đọc. Sau khi thấy chúng tôi đã bàn bạc xong, ông cụ ngừng đọc sách bảo tôi báo cáo lại kế hoạch, nghe xong ông cụ bảo:
- Được, các đồng chí chuẩn bị như vậy là tốt. Ta nhân việc này mà tập dượt cho quen. Có giặc tới ta sẽ đánh!
Khoảng gần 7 giờ sáng chợt nghe một tràng dài tiểu liên rồi tiếng súng trường, lựu đạn liên tiếp nổ theo. Từ đèo đến chỗ chúng tôi, tính đường chim bay chỉ một cây số, chúng tôi lại ở trên núi cao nên nghe rất gần.
Một đồng chí gác chạy tới báo cáo với ông cụ.
Ông cụ bảo:
- Tôi cũng nghe thấy rồi.
Nói xong, ông cụ tiếp tục đọc sách.
Ngồi nghe súng nổ ngay bên cạnh, tôi thực là sốt ruột, không biết chúng có đông không? Ta có thắng không? Nếu chúng tràn vào được sẽ thế nào? Những câu hỏi đó cứ đặt ra trong đầu óc tôi. Trong anh em cũng có đồng chí tiếc là không được chiến đấu và đến bây giờ tôi mới biết đồng chí Trần Đình tuy đã nhiều tuổi, thế mà đêm qua cũng được đi diệt phỉ.
Súng nổ dồn dập một chặp rồi thưa dần, sau đó im bặt. Chúng tôi thầm thì phán đoán. Như biết được ý nghĩ của chúng tôi, ông cụ bảo:
- Chắc là thắng rồi, vì tiếng súng về sau mỗi lúc một xa. Và trận này ta nắm rõ địch, ta lại chủ động từ đầu, nên nhất định phải thắng.
Đúng vậy, quá mười một giờ có tiếng hú từ dưới lán của cơ quan vọng lên. Đó là mật hiệu liên lạc. Chúng tôi hú trả lời. Lát sau có đồng chí lên báo cáo tình hình: Quân ta đã diệt gọn cánh phỉ đó và thu toàn bộ vũ khí.
Ông cụ chỉ thị cho chúng tôi trở về và nhắc phải xoá dấu vết, để giữ bí mật.
Chỉ có mấy giờ buổi sáng mà chúng tôi đã học được nhiều điều chuẩn bị hành quân, công tác bí mật trong hành quân, cách phán đoán tình hình, cách xử trí tình huống và thế nào là dân chủ trong công tác quân sự v.v...Ông cụ đã dạy chúng tôi những bài học thực tế sâu sắc.
Chiều hôm ấy, tôi lại xuống làng để nghe đồng chí Đường hướng dẫn như thường lệ.
Tới nơi, một tin làm tôi sửng sốt. Đồng chí Đường đã hy sinh trong trận diệt phỉ. Đau xót quá, tôi chạy thẳng về cơ quan và không sao nén nổi xúc động, tôi bỏ bữa cơm chiều, nằm dài trong lán.
Gần tối đồng chí Trần Đình tới thăm, nói với tôi:
- Ông cụ bảo tôi tới kể cho đồng chí nghe về gương chiến đấu của đồng chí Đường.
Tôi vội ngồi dậy lắng nghe.
Đồng chí Trần Đình kể xong, dặn tôi:
- Ông cụ nhắc đồng chí là: “Thương đồng chí mình phải noi theo gương chiến đấu của đồng chí ấy”.
Tôi hứa với đồng chí Đình là sẽ học hỏi theo gương đồng chí Đường.
V
Khoảng trung tuần tháng bảy, tôi được bổ sung về phân đội của đồng chí Quang Trung để học bắn súng Ba-dô-ka. Đang học tập thì có chỉ thị làm sân bay để đón máy bay của Đồng minh. Sân bay sửa xong, chiều hôm ấy nhận được điện sẽ có máy bay tới đón những phi công bị rơi của họ. Đồng chí Quang Trung bảo tôi về báo cáo với ông cụ.
Mừng quá! Xa ông cụ mới hơn một tuần mà tôi nhớ làm sao! Bây giờ có dịp lên thăm, tôi vội chạy một mạch về cơ quan. Vừa tới nơi, anh em chào hỏi, tôi không kịp trả lời, chạy thẳng tới chỗ ông cụ báo cáo:
- Thưa cụ, 4 giờ máy bay đến ạ!
Ông cụ đang đọc sách, thấy tôi báo cáo liền bỏ sách xuống hỏi:
- Đồng chí nói 4 giờ họ sẽ tới, vậy 4 giờ là mấy giờ?
Tôi không hiểu ý câu hỏi của ông cụ nên đáp lại như cũ.
Ông cụ liền lấy chiếc đồng hồ quả quýt ra chỉ cho tôi xem và nói:
- Báo cáo quân sự là phải chính xác, nếu không sẽ sai lầm nguy hiểm. Trên mặt đồng hồ có 12 giờ, vậy đồng chí nói 4 giờ là 4 giờ chiều hay 4 giờ sáng?
Lúc này tôi mới hiểu, nhưng tôi không thể trả lời được câu hỏi của ông cụ, đành phải trở về hỏi đồng chí Quang Trung kỹ lại cả về giờ, ký hiệu để đón máy bay, kế hoạch đón tiếp họ... để trả lời Người.
Bài học này cũng làm cho tôi ghi nhớ mãi trong công tác chỉ huy. Sau đấy, tôi theo chi đội của đồng chí Quang Trung về đánh Thái Nguyên.
Tổng khởi nghĩa thành công, tôi về Hà Nội được biết ông cụ thượng cấp ở núi Hồng nay là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng tôi vô cùng sung sướng, tin tưởng. Sau đó ít lâu, đơn vị tôi có một tiểu đội được chuyển về bảo vệ Bắc Bộ Phủ.
Buổi sáng hôm ấy, tôi vội tới thăm tiểu đội với hi vọng may ra được gặp Bác.
Tôi tới vào lúc anh em sắp ăn sáng. Tiểu đội cảnh vệ, các đồng chí công tác ở văn phòng đang đi vào nhà ăn. Trên bàn để từng hàng bát cháo hoa múc sẵn, phần mỗi người một bát, ăn với cà muối hoặc vừng. Đồng chí Đình giới thiệu tôi với chị Thanh (người cấp dưỡng của Bác và cơ quan bấy giờ). Chị vui vẻ đưa tôi một bát. Tôi vừa cầm bát cháo thì Bác tới. Đặt bát cháo xuống, tôi chưa kịp đứng nghiêm chào Bác, thì Người đã vui vẻ hỏi:
- Chú Việt Dũng đấy à. Chú vẫn khoẻ chứ?
- Dạ! - Câu hỏi của Người làm tôi rất cảm động không nói được lời nào nữa.
Bác nhìn tôi, Người bảo:
- Ta ăn sáng đi.
Chị Thanh mang cháo lại. Như mọi anh em khác, Bác cũng nhận một bát cháo hoa ăn với muối vừng.
NGỌC CHÂU ghi