C
ánh cửa thông ra boong của phòng hút thuốc mở toang trước màn sương mù nơi Bắc Đại Tây Dương, trong khi chiếc tàu chở khách lớn lừ lừ rẽ sóng, vừa đi vừa hú còi để cảnh báo đoàn thuyền đánh cá nhỏ xung quanh.
“Đứa trẻ nhà Cheyne, đó là thứ khó chịu nhất ở trên tàu.” Một người đàn ông mặc chiếc áo khoác bằng vải len tuyết xoăn lên tiếng trước khi đóng sầm cửa lại. “Cậu ta không được chào đón ở đây. Cậu ta còn quá trẻ.”
Một người Đức đầu bạc trắng với tay lấy chiếc bánh kẹp, vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói: “Tôi biếc cái thứ ấy. Lũ người Mỹ luôn như vại. Tôi nghĩ anh cứ là nên giắt xẵn cái roi quanh thắc lưng thì hơn.”
“Ôi dào! Cậu ta chẳng làm hại được ai đâu. Cậu ta đáng thương hơn bất kỳ điều gì khác.” Một người đàn ông đến từ New York đang nằm duỗi dài cạnh đống gối dưới cửa sổ ẩm ướt, kéo dài giọng. “Họ kéo cậu ta đi từ khách sạn này sang khách sạn khác từ khi còn là một đứa bé. Tôi vừa nói chuyện với mẹ cậu ta sáng nay. Bà ta thì cũng ưa nhìn nhưng chẳng thèm quản con chút nào. Cậu ta sẽ đến châu Âu để hoàn thành cái sự học của mình.”
“Cái sự học của cậu ta còn chưa bắt đầu đâu.” Một người Philadelphia nằm cuộn mình trong góc lên tiếng. “Thằng bé đó được cho hai trăm đồng tiền tiêu vặt hằng tháng, nó đã kể với tôi như vậy. Nó cũng chưa được mười sáu tuổi đâu.”
“Đường sắt phải không, bố nó ấy?” Gã người Đức nói.
“Phải. Đường sắt, hầm mỏ, gỗ và tàu thuyền. Bố nó đã xây một tòa nhà ở San Diego, và một tòa khác ở Los Angeles; sở hữu nửa tá tuyến đường sắt, một nửa số gỗ ở vùng thoải Thái Bình Dương[1], và vợ ông ta chỉ việc tiêu tiền.” Người Philadelphia kể với giọng biếng nhác. “Bà ta nói mình không hợp với miền Tây. Tôi đoán là bà ta chỉ đi đây đi đó cùng thằng bé cho vui, thử xem thứ gì sẽ khiến thằng bé thích thú. Florida, vùng Adirondacks, Lakewood, Hot Springs, New York, rồi lại quay lại một vòng. Giờ thì nó chẳng khác gì một gã phục vụ khách sạn hạng hai. Khi học xong ở châu Âu, nó sẽ là một cơn ác mộng.”
[1] . Pacific slope là một vùng địa lý trải từ Bắc xuống Nam Mỹ, nằm ở phía tây của lục địa và thoải dần về phía Thái Bình Dương.
“Sao bố cậu ta không trực tiếp dạy con nhỉ?” Người mặc áo choàng dài lên tiếng.
“Ông già còn bận chất đầy kho. Chắc là không muốn bị quấy rầy. Chỉ vài năm nữa thôi lão sẽ tự nhận ra sai lầm của mình. Đáng tiếc thật, vì sẽ có khối điều tốt đẹp bên trong thằng bé nếu ta chịu đào sâu tìm tòi.”
“Nó cần nếm mùi roi, nó cần nếm mùi roi!” Gã người Đức cằn nhằn.
Thêm một tiếng sập cửa nữa vang lên, rồi một cậu bé dong dỏng, mảnh khảnh, khoảng chừng mười lăm tuổi, khóe miệng còn ngậm xì gà đang hút dở, ngó vào và tựa người lên tay vịn lối đi. Nước da vàng lợt của cậu ta không phù hợp với độ tuổi ấy, và vẻ ngoài của cậu thì vừa do dự, phớt đời, lại vừa trí thức rởm. Cậu ta mặc một chiếc áo vét màu đỏ sơ ri, quần chẽn gối, đi tất đỏ, giày thể thao và đội ngược một chiếc mũ lưỡi trai đỏ bằng nỉ. Sau khi huýt sáo và nhìn khắp mọi người trong phòng một lượt, cậu ta cất giọng vừa to vừa chóe: “Sương mù dày quá nhỉ? Đám tàu cá cứ chí chóe xung quanh. Nếu ta cán phải một chiếc thì cứ gọi là vui lắm nhỉ?”
“Đóng cửa vào, Harvey.” Gã người New York nói. “Đóng cửa vào và ở ngoài đấy đi. Cậu không được chào đón ở đây.”
“Ai cản được tôi chứ?” Cậu nhóc thủng thẳng trả lời. “Ông có trả tiền cho chuyến đi của tôi không, ngài Martin? Tôi có quyền ở đây như bất kỳ ai khác.”
Cậu ta nhặt một viên súc sắc từ bàn cờ lên và bắt đầu tung nó từ tay phải sang tay trái.
“Các quý ông nói xem, không khí ngột ngạt hơn cả bùn ấy. Chúng ta chơi bài poker nhé?”
Không có ai trả lời, vậy là cậu ta rít thêm một hơi xì gà, ngồi bắt tréo chân và dùng những ngón tay nhem nhuốc gõ lên mặt bàn. Sau đó, cậu ta lôi ra một cuộn tiền như thể sắp đếm chúng.
“Mẹ cậu chiều nay có khỏe không?” Một người đàn ông lên tiếng. “Tôi không thấy bà ấy dùng bữa trưa.”
“Chắc bà ấy vẫn đang ở phòng riêng. Lúc nào đi biển mà bà ấy chẳng bị say. Tôi sẽ cho cô tiếp viên mười lăm đồng để chăm sóc bà ấy và sẽ không xuống đó lần nữa nếu tránh được. Tôi cứ thấy rùng mình khi đi qua cái phòng trữ thức ăn ấy. Dù gì, đây cũng là lần đầu tiên tôi ra biển.”
“Ồ, cậu không cần phải xin lỗi đâu, Harvey.”
“Tôi đâu có xin lỗi. Đây là lần đầu tiên tôi vượt đại dương, thưa các quý ông, và ngoại trừ ngày đầu tiên, tôi chẳng hề thấy phát ốm tí nào. Không hề, thưa các ngài!” Cậu ta dằn mạnh tay xuống bàn vẻ đắc thắng, rồi liếm ngón tay và tiếp tục đếm tiền.
“Ồ, cậu đúng là một cỗ máy cao cấp, được ghi chú rõ ràng.” Người Philadelphia ngáp dài. “Cậu sẽ làm hỏng thanh danh của đất nước nếu cậu không cẩn thận.”
“Tôi biết chứ. Tôi là một người Mỹ - luôn luôn là như vậy. Tôi sẽ cho người ta biết điều đó khi tôi đến châu Âu. Xì! Điếu xì gà của tôi tắt rồi. Tôi không thể hút cái thứ mà gã phục vụ tàu bán được. Có quý ông nào có xì gà Thổ chính cống không?”
Kỹ sư trưởng ngó vào trong chốc lát, mặt đỏ bừng, người ướt nhèm và đang nở nụ cười.
“Này, Mac!” Harvey thốt lên vui vẻ. “Chúng ta ổn cả chứ?”
“Cũng như mọi khi thôi.” Ông ta trả lời một cách trịnh trọng. “Những người trẻ vẫn đối xử với người già lịch thiệp như thế, và những người già vẫn phải cố mà chấp nhận điều đó.”
Có tiếng cười trầm vang lên từ trong góc. Gã người Đức mở hộp xì gà của mình và đưa cho Harvey một điếu xì gà màu đen khá nhỏ.
“Đơi mới là hàng ngon chính cống, anh bạn chẻ ạ.” Gã nói. “Cậu muống thử hút chứ? Có à? Rồi cậu xẽ mãng nguyện chưa từng thấy.”
Harvey châm điếu xì gà xấu xí bằng một động tác dứt khoát - cậu cảm thấy như đang được bước vào thế giới của người trưởng thành.
“Muốn hạ gục tôi thì cần nhiều hơn là điếu xì gà này đấy.” Cậu nói một cách lơ đễnh trong khi châm thứ thuốc kinh khủng đó - một điếu Wheeling “cuốn tay”.
“Rầu chúng ta xẽ thấy ngay thôi.” Gã người Đức nói. “Chúng ta đang ở đâu nhỉ, ông “Mactonal”?”
“Cũng gần tới nơi rồi, ông Schaefer.” Viên kỹ sư nói. “Tối nay ta sẽ đến Grand Bank[2]; nhưng nhìn chung là chúng ta đang ở giữa một đoàn tàu đánh cá. Chúng ta đã sượt phải ba thuyền nhỏ và gần như gọt mất phần đuôi của một tàu đánh cá Pháp tính từ trưa đến giờ, và anh có thể nói đó là một cú hút chết.”
[2] . Một địa danh ven biển ở Newfoundland, Bắc Mỹ.
“Cậu có thích xì gà tôi đưa không?” Gã người Đức hỏi khi thấy mắt Harvey đang giàn giụa nước.
“Cũng được, đậm đà lắm!” Cậu ta vừa nghiến răng vừa trả lời. “Tôi đoán chúng ta đang đi chậm lại phải không? Tôi sẽ ra ngoài kia xem hải trình.”
“Nếu là cậu thì tôi cũng làm thế.” Gã người Đức nói.
Harvey lảo đảo đi qua phần boong tàu ướt nhẹp để ra lan can gần nhất. Cậu chẳng lấy gì làm vui vẻ, nhưng khi nhìn thấy gã phục vụ trên boong đang dùng dây cột ghế lại, và vì cậu đã lỡ khoe khoang với anh ta rằng mình không hề bị say sóng, lòng tự trọng đã thôi thúc cậu lập tức đi lên boong lớn thứ hai ở phần đuôi tàu, phía ngoài lan can là một khoảng trống có hình mai rùa. Boong này không có một bóng người và cậu bò ra phía xa nhất của nó, gần cột cờ. Sau đó, cậu bắt đầu cảm thấy chân tay mình đau đớn gấp hai lần, do điếu xì gà Wheeling phát tác cộng thêm từng đợt sóng trồi lên và tiếng cột buồm kêu kẽo kẹt khiến cậu choáng váng. Đầu cậu sưng lên, mắt nổ đom đóm, cơ thể cậu cứ như mất trọng lượng, còn hai chân thì không ngừng huơ huơ trước gió. Cậu đang xỉu đi vì cơn say sóng, con tàu trồi lên và cậu mất đà, lao qua lan can, rơi vào phần boong trơn tuột có hình mai rùa. Rồi một con sóng bạc đầu thấp lao ra sau màn sương mù, cuốn Harvey vào lòng và kéo cậu ra xa, về phía ngọn sóng. Con sóng xanh trùm lên cậu, và cậu lặng lẽ chìm vào giấc ngủ.
Cậu tỉnh dậy bởi tiếng còi báo bữa tối vẫn thường nghe thấy ở ngôi trường mùa hè mà cậu từng theo học ở vùng Adirondacks. Dần dần, cậu nhớ ra mình là Harvey Cheyne, đã bị ngã xuống biển và suýt chết chìm, nhưng cậu còn quá yếu để nhận thức được mọi thứ. Một thứ mùi lạ xộc vào mũi cậu, cảm giác ẩm ướt và ớn lạnh chạy dọc sống lưng, và cả người cậu nhớp nhúa trong thứ nước biển mằn mặn. Khi mở mắt ra, cậu nhận thấy mình vẫn đang ở trên biển, vì xung quanh cậu là những đống lớn óng ánh bạc, và cậu đang nằm trên một lũ cá thoi thóp, nhìn vào một tấm lưng rộng lớn trong chiếc áo len dệt kim màu xanh da trời.
“Không hay rồi.” Cậu nghĩ. “Chắc chắn là mình đã chết, và đây chính là kẻ canh giữ mình.”
Cậu rên rỉ, và người kia quay đầu lại, một đôi vòng vàng nhỏ lấp ló trong bộ tóc xoăn đen của anh ta.
“À há! Cậu cảm thấy ổn hơn rồi chứ?” Nhân vật đó nói. “Cứ nằm yên đấy, ta sẽ giữ thăng bằng tốt hơn.”
Bằng một cú xoáy mạnh, anh ta đã đẩy phần đầu đang lắc lư của con thuyền vào vùng nước không có bọt và nâng nó lên cao đến sáu mét, rồi lập tức trượt vào một hố nước lấp lánh phía trên. Nhưng cú vượt sóng vừa rồi không làm gián đoạn cuộc nói chuyện của người đàn ông mặc áo xanh. “Thật tốt khi chúng ta đã túm được cậu, ta dám nói vậy đấy. Và tàu của cậu tốt nhất là đừng có ngoạm vào xuồng của ta. Sao cậu lại bị ngã?”
“Tôi bị say.” Harvey nói. “Say đến nỗi bất tỉnh.”
“Lúc ấy ta vừa mới hú còi, và tàu của cậu tròng trành một cú. Rồi ta thấy cậu rơi xuống. Thế đấy! Ta cứ tưởng cậu bị sóng đánh cho tan xác chứ, nhưng rồi cậu cứ dạt vào gần xuồng của ta, và ta kéo cậu lên. Nên cậu chưa chết lần này đâu.”
“Tôi đang ở đâu?” Harvey thắc mắc mà không nhận ra rằng mình đã được an toàn khi nằm ở đây.
“Cậu đang ở trên con thuyền nhỏ của chúng ta, ta tên là Manuel, và ta ở trong đội thuyền Có chúng tôi đây! đến từ Gloucester. Ta sống ở Gloucester. Đi đánh cá ăn qua ngày. Sao hả?”
Dường như anh ta có đến bốn cái tay và một cái đầu bằng gang, bởi vì, chưa cảm thấy thỏa mãn với việc thổi vào một cái vỏ ốc xà cừ lớn, anh ta phải đứng hẳn lên, đung đưa người theo nhịp lắc của con thuyền đánh cá đáy phẳng, và hú lên một tiếng chói tai, rợn người qua màn sương. Thú vui ấy đã kéo dài bao lâu, Harvey không nhớ nổi, vì cậu nằm vật ra đó, hoảng sợ trước cảnh tượng những ngọn sóng bốc khói. Cậu tưởng như đã nghe thấy tiếng súng, tiếng còi và cả tiếng la hét. Một thứ gì đó lớn hơn con thuyền đánh cá này, nhưng không kém phần sống động, hiện ra lờ mờ bên cạnh. Một vài giọng nói vang lên cùng lúc, cậu được thả vào một cái hốc tối tăm, chật chội, những người đàn ông mặc áo vải dầu cho cậu uống một cốc rượu nóng rồi cởi bộ quần áo ướt của cậu ra, và cậu chìm vào giấc ngủ.
Khi tỉnh dậy, cậu ngóng tiếng còi báo bữa sáng đầu tiên trên con tàu hơi nước, tự hỏi vì sao căn phòng của mình lại trở nên nhỏ như thế này. Xoay người sang bên, cậu nhìn vào một cái hốc hẹp hình tam giác, được thắp sáng bởi một ngọn đèn treo trên cái cột lớn hình vuông. Một chiếc bàn ba góc nằm trong tầm với của cậu kéo dài từ góc mũi tàu tới cột buồm trước. Ở đầu kia, sau một cái lò Plymouth đã cũ, có một cậu bé chạc tuổi Harvey đang ngồi, mặt bẹt, đỏ bừng và đôi mắt xám lấp lánh.
Cậu cũng mặc một cái áo len màu xanh da trời và đi ủng cao bằng cao su. Có một vài đôi giày cùng loại như thế, một cái mũ cũ, một đôi tất len đã cũ mèm nằm trên sàn, áo vải dầu đen và vàng cứ bay phấp phới cạnh mấy cái kệ. Chỗ này chật chội và có đủ thứ mùi, y như một kiện bông. Mấy chiếc áo vải dầu có mùi nồng rất riêng, làm nền cho mùi cá chiên, dầu cháy, sơn, tiêu và thuốc lá, nhưng dĩ nhiên, chúng đều quyện vào nhau trong cái nền chung là mùi của con tàu và nước biển. Harvey tỏ ra ghê tởm khi chỗ cậu nằm không có ga trải giường. Cậu đang nằm trên tấm vải sọc ướt đẫm phủ lên một mớ đồ. Và dĩ nhiên, chuyển động của con thuyền không giống với tàu thủy. Nó không lướt đi và trồi lên, mà cứ lắc lư về phía trước một cách ngớ ngẩn, vô định, giống như cái dây buộc vào cổ con ngựa. Tiếng nước vỗ thùm thụp sát bên tai cậu, cột buồm kêu kẽo kẹt ở phía trên. Tất cả những điều này khiến cậu phải rên rỉ một cách tuyệt vọng và nghĩ đến mẹ của mình.
“Cảm thấy khá hơn chưa?” Cậu bé kia nói và nhoẻn miệng cười. “Uống cà phê không?” Cậu ta đưa cho Harvey một lon đầy và cho thêm rỉ đường[3] cho ngọt.
[3] . Rỉ đường hay rỉ mật, mật rỉ, mật rỉ đường, còn được gọi ngắn gọn là mật, là chất lỏng đặc sánh còn lại sau khi đã rút đường bằng phương pháp cô và kết tinh. Đây là sản phẩm phụ của công nghiệp chế biến đường.
“Không có sữa à?” Harvey hỏi và nhìn quanh hàng kệ hai tầng tối hù như thể cậu nghĩ sẽ có một con bò xuất hiện từ trong đó.
“Ừm, không.” Cậu bé nói. “Mà từ giờ cho đến chừng giữa tháng Chín cũng không có đâu. Cà phê không tệ chút nào. Tớ pha đấy.”
Harvey lặng lẽ uống. Cậu bé đưa cho cậu một đĩa đựng đầy những miếng thịt lợn chiên giòn và cậu ăn ngấu nghiến.
“Tớ đã hong khô quần áo của đằng ấy. Chắc là chúng đã co lại một chút.” Cậu bé nói. “Nhưng không bị mất nếp đâu, không một chút nào. Quay người lại xem có bị thương ở đâu không nào.”
Harvey duỗi tay chân ra tứ phía, nhưng không thấy vết thương nào.
“Tốt rồi.” Cậu bé nói với vẻ chân thành. “Sửa sang đầu tóc rồi lên boong đi. Bố tớ muốn gặp cậu. Tớ là con trai ông ấy, mọi người gọi tớ là Dan, phụ bếp kiêm đủ thứ nhiệm vụ mà các ông ấy không muốn nhúng tay vào. Không còn cậu bé nào ở đây ngoài tớ, từ khi Otto ngã xuống biển - và anh ấy là người Hà Lan, chừng hai mươi tuổi gì đó. Sao đằng ấy lại ngã khỏi tàu trong khi bể lặng như tờ?”
“Không phải là sóng thường đâu.” Harvey nói với vẻ hậm hực. “Có lốc lớn ấy, và tôi bị say sóng. Chắc là tôi đã lộn cổ khỏi lan can.”
“Ngày và đêm qua thì có chút sóng lớn. Nhưng chắc chắn là không có lốc đâu...” Cậu bé huýt sáo. “Cậu sẽ biết nhiều hơn trước khi rời khỏi đây. Nhanh lên nào! Bố tớ đang đợi.”
Giống như bao đứa trẻ kém may mắn khác, chưa bao giờ Harvey lại nhận được một mệnh lệnh trực tiếp trong đời - chưa bao giờ, ít nhất nó cũng phải đi kèm thêm mấy lời giải thích dài dòng, đôi khi đẫm nước mắt về những lợi ích của việc biết nghe lời và lý do mà họ yêu cầu cậu làm việc đó. Bà Cheyne cứ sợ làm cậu mất tinh thần, và có lẽ đó chính là lý do bà cứ suốt ngày ốm yếu. Harvey không hiểu vì sao cậu phải khẩn trương tuân theo lời một ai đó làm gì, và cậu đã nói như vậy: “Bố của cậu có thể xuống đây nếu ông ta nóng lòng muốn nói chuyện với tôi. Tôi muốn ông ta đưa tôi đến New York ngay lập tức. Tôi sẽ trả công.”
Dan mở to mắt trước câu nói đùa vừa nghe được. “Bố nghe kìa!” Cậu hét vọng lên phần mũi tàu. “Cậu ấy nói bố có thể xuống đây và gặp cậu ấy nếu bố nóng lòng đến thế. Nghe thấy không, bố?”
Một giọng nói trầm nhất mà Harvey từng nghe thấy phát ra từ lồng ngực của một người đàn ông vọng lại: “Đừng đùa nữa, Dan, đưa thằng nhóc ra đây.”
Dan cười khúc khích, rồi ném cho Harvey một đôi giày thể thao cong vẹo. Có cảnh vật gì đó ở trên boong khiến cậu nguôi cơn giận và tự an ủi mình với ý nghĩ rằng cuối cùng cậu cũng có thể tiết lộ cho những người trên thuyền câu chuyện về mình và sự giàu có của bố cậu. Vụ giải cứu này sẽ biến cậu thành người hùng trong mắt lũ bạn suốt đời. Cậu lê bước lên boong, qua mấy bậc thang vuông góc, và vấp phải một đống chướng ngại vật, tới chỗ một người đàn ông thấp nhưng đậm người, có cặp lông mày rậm và đã cạo râu sạch sẽ đang ngồi trên một bậc thang dẫn lên mũi thuyền. Cơn biển động đã qua trong đêm, để lại mặt biển loang những vệt dầu, thấp thoáng phía chân trời là những cánh buồm của hàng tá tàu đánh cá. Ở giữa chúng là các đốm nhỏ hơn màu đen, cho biết vị trí của những tàu nhỏ đã tản ra để bắt cá. Tàu chính, với cánh buồm tam giác trên cột chính, cứ thả neo ở một chỗ làm cột mốc, và chỉ trừ một người đàn ông duy nhất ở trong phòng lái - họ gọi đó là “nhà” - nó hoàn toàn không có lấy một bóng người.
“Chào buổi sáng, thật ra phải là buổi chiều mới đúng. Cậu đã ngủ cả nửa ngày rồi đấy, nhóc ạ.” Người đàn ông cất tiếng chào.
“Xin chào.” Harvey đáp lại. Cậu không thích bị gọi là “nhóc”, nhưng vì vừa mới suýt bị chết đuối nên cậu rất trông đợi sự cảm thông từ người khác. Mẹ cậu thường quặn cả ruột mỗi khi cậu chỉ mới bị ướt chân thôi, nhưng có vẻ người đàn ông trước mặt này không lấy gì làm quan tâm cho lắm.
“Giờ thì cậu kể cho tôi xem nào. Để đề phòng thôi, theo thứ tự từ đầu đến cuối, và phải trả lời tất cả. Tên của cậu là gì? Đến từ đâu (chúng tôi ngờ là từ New York), và định đi đâu (chúng tôi ngờ là đến châu Âu)?”
Harvey nói ra tên mình, tên của con tàu, tóm tắt lại vụ tai nạn một cách ngắn gọn, kết thúc bằng việc yêu cầu được đưa về New York ngay lập tức, và bố cậu sẽ trả bất cứ giá nào họ đưa ra.
“Hừm!” Người đàn ông đã mày râu nhẵn nhụi nói, và có vẻ không lấy làm xúc động lắm khi bài diễn thuyết của Harvey chấm dứt. “Khó có thể nói chúng tôi coi trọng người đàn ông nào, chưa nói đến trẻ em, ngã khỏi một con tàu như thế trong khi sóng yên biển lặng cả. Nhất là khi cái cớ hắn viện ra lại là vì say sóng nữa.”
“Lấy cớ à!” Harvey gào lên. “Ông nghĩ tôi ngã khỏi con tàu xuống chiếc thuyền nhỏ bẩn thỉu của ông cho vui sao?”
“Ta không biết cậu nghĩ thế nào là cho vui nên không thể khẳng định điều đó được, nhóc ạ. Nhưng nếu ta là cậu, ta sẽ không dùng những từ ngữ như vậy để gọi chiếc thuyền, có Chúa Trời chứng giám, đã cứu sống cậu. Thứ nhất, như vậy là phỉ báng thánh thần. Thứ hai, nó làm ta khó chịu - và ta là Disko Troop, thuyền trưởng của thuyền Có chúng tôi đây! đến từ Gloucester, mà có vẻ cậu còn chưa biết rõ.”
“Tôi không biết và cũng không quan tâm.” Harvey nói. “Tất nhiên là tôi biết ơn vì đã được cứu sống! Nhưng ông phải hiểu rằng càng sớm đưa tôi về New York, ông càng được trả nhiều tiền hơn.”
“Nhiều như thế nào?” Troop nhướn một bên lông mày rậm lên, bên dưới là con mắt màu xanh nhạt đầy vẻ nghi ngờ.
“Toàn bộ bằng tiền mặt.” Harvey nói, lấy làm mừng khi nghĩ rằng cậu đã gây được ấn tượng cho người kia. “Những đồng đô la và cả xu lẻ.” Cậu thọc một tay vào trong túi và làm bộ chuẩn bị ói ra, đó là cách cậu thể hiện sự hào phóng của mình. “Ông đã có mẻ lưới tốt nhất trong cuộc đời khi kéo được tôi lên thuyền. Tôi là con trai duy nhất của Harvey Cheyne.”
“Ông ấy may mắn thật.” Disko đáp lại bằng giọng thờ ơ.
“Và nếu không biết Harvey Cheyne là ai thì ông chẳng biết cái gì hết, vậy thôi. Giờ thì cho thuyền quay đầu lại và khẩn trương lên đi.”
Harvey luôn đinh ninh rằng phần lớn nước Mỹ đều đang mải bàn luận về bố cậu và ghen tỵ với số tài sản của ông.
“Có thể ta biết, mà cũng có thể không. Thử nhìn xuống bụng mình xem, anh bạn trẻ. Trong đó còn đầy thịt lợn của ta đấy.”
Harvey nghe thấy tiếng cười khúc khích của Dan, kẻ đang giả vờ bận bịu cạnh chân cột buồm, máu nóng cứ thế dồn lên mặt cậu. “Chúng tôi sẽ trả tiền cho cả thứ đó.” Cậu nói. “Ông tính khi nào thì chúng ta về đến New York?”
“Ta không đến New York bao giờ. Hay Boston. Chúng ta có thể đến Cực Đông vào tháng Chín; và bố của cậu - rất tiếc là ta chưa từng nghe đến tên ông ấy - có thể trả ta mười đô la cho những câu nói của cậu. Mà dĩ nhiên ông ấy cũng có thể không trả.”
“Mười đô la! Tôi hiểu rồi...” Harvey thò tay vào túi để tìm cuộn tiền. Nhưng cậu chỉ móc ra được một bao xì gà đã ướt nhẹp.
“Ấy chẳng phải là loại tiền tệ hợp pháp đâu, còn không tốt cho phổi nữa. Ném nó xuống biển đi, anh bạn trẻ, rồi tìm lại trong túi xem nào.”
“Nó bị lấy mất rồi!” Harvey bực tức gào lên.
“Cậu sẽ phải chờ bố cậu thưởng cho tôi rồi, đúng không?”
“Một trăm ba mươi tư đô la, tất cả đã bị cuỗm mất.” Harvey vừa nói vừa sục sạo khắp các túi quần áo. “Trả lại cho tôi.”
Một vẻ tò mò thoáng hiện trên khuôn mặt cứng rắn của Troop. “Cậu làm gì với một trăm ba mươi tư đô la ở tuổi này vậy nhóc?”
“Đó là một phần tiền tiêu vặt của tôi, trong một tháng.” Harvey nghĩ điều này sẽ là cú đánh quyết định, và nó đúng là như vậy - theo một cách gián tiếp.
“Ồ! Một trăm ba mươi tư đô la chỉ là một phần tiền tiêu vặt của cậu ấy, và lại chỉ trong một tháng! Cậu không va đầu phải thứ gì khi ngã khỏi tàu đấy chứ? Đập vào cột chống mạn tàu chẳng hạn. Lão Hasken của thuyền Gió Đông ấy...” Troop như đang nói chuyện một mình. “Lão ta vấp chân phải cánh cửa sập và cụng đầu vào cột buồm chính, một cú khá mạnh đấy. Sau đó chừng ba tuần, lão tuyên bố rằng thuyền Gió Đông là con thuyền chiến có thể phá hủy đường dây thông thương, và tuyên chiến với Sable Island vì nó là thuyền của Anh, cuối cùng cái trò đó đã trở nên hết sức lố lăng. Họ khâu dính lão ta vào một chiếc túi ngủ, chỉ chừa ra cái đầu cùng hai bàn chân, trong suốt phần còn lại của chuyến đi, và giờ thì lão ấy đã về nhà của mình ở Essex để chơi với búp bê vải rồi.”
Harvey tức đến nghẹn họng, nhưng Troop vẫn tiếp tục giảng giải: “Chúng ta rất lấy làm tiếc cho cậu. Rất lấy làm tiếc, cậu còn trẻ quá. Chúng ta sẽ không nhắc gì đến số tiền đó nữa, ta đoán là vậy.”
“Dĩ nhiên là ông sẽ không nói rồi. Ông đã cuỗm của tôi mà.”
“Tùy thôi. Cứ nghĩ là chúng ta đã lấy nó đi, nếu việc đó khiến cậu hài lòng. Giờ thì trở lại chuyện về bờ. Cứ cho là có thể làm như vậy đi, dù chúng ta không thể, cậu cũng đâu có ở trong tình trạng tốt để về nhà, còn chúng ta thì vừa mới vào đến vùng Bank, đánh cá để kiếm cái ăn. Chúng ta còn chẳng kiếm nổi năm chục đô la một tháng, chưa nói gì đến tiền tiêu vặt; và nếu gặp may, ta sẽ lên bờ lần nữa đâu đó vào khoảng tuần đầu tiên của tháng Chín.”
“Nhưng... nhưng bây giờ mới có tháng Năm, tôi không thể ở lại đây và chẳng có gì để làm chỉ vì ông muốn đi đánh cá. Không được đâu, ông nghe rồi đấy!” “Đây là quyết định cuối cùng. Không ai bảo cậu chẳng phải làm gì hết. Có cả đống việc cậu có thể làm, vì Otto đã ngã xuống biển ở Le Have rồi. Ta đoán là cậu ấy bị tuột tay trong một cơn bão ở đó. Dù sao thì, cậu ta cũng không thể trở về để mà phủ nhận chuyện ấy được. Giờ cậu xuất hiện ở đây, và theo ta thấy, cậu vẫn còn tỉnh táo, khỏe mạnh. Nhưng ta cũng đoán là chẳng có mấy việc cậu có thể làm được. Có đúng không?”
“Tôi sẽ chứng minh cho ông và đoàn người của ông thấy khi chúng ta lên bờ.” Harvey nói rồi gật đầu một cách ngỗ ngược, sau đó lẩm bẩm một câu vô nghĩa về mối họa đến từ cướp biển, và điều đó không khiến Troop cảm thấy buồn cười chút nào.
“Trừ việc nói giỏi ra. Ta quên mất đấy. Cậu không được quyền nói nhiều nữa, một khi đã lên thuyền Có chúng tôi đây!. Hãy mở to mắt mà quan sát và giúp Dan làm những việc nó yêu cầu, để xem nào, ta sẽ trả cho cậu, dù cậu không đáng nhận số tiền này, mười đồng rưỡi một tháng, vậy là cuối chuyến đi cậu sẽ có tổng cộng ba mươi lăm đồng. Làm việc một chút sẽ giúp cái đầu cậu nghĩ thoáng hơn đấy, và rồi cậu có thể kể cho chúng ta nghe về bố cậu, mẹ cậu và đống tiền của cậu.”
“Bà ấy đang ở trên cái tàu lớn.” Harvey nói mà mắt ầng ậc nước. “Đưa tôi đến New York ngay đi.”
“Tội nghiệp người phụ nữ đó, tội nghiệp bà ấy! Khi nào cậu trở về, bà ấy sẽ tha thứ cho cậu thôi. Có tám người trên thuyền Có chúng tôi đây!, và nếu trở về đó bây giờ, cách đây hơn một nghìn dặm, chúng ta sẽ bỏ lỡ mùa đánh cá. Những người khác sẽ không đồng ý, kể cả ta có nhận lời cậu đi chăng nữa.”
“Nhưng bố tôi sẽ thu xếp ổn thỏa.”
“Ông ấy hẳn sẽ cố gắng. Ta không nghi ngờ điều đó.” Troop nói. “Nhưng cả một mùa cá sẽ mang lại cái ăn cho tám người đàn ông, và cậu sẽ thấy khỏe hơn khi gặp lại ông ấy vào mùa thu. Hãy cứ giúp việc cho Dan. Như ta nói, mười đồng rưỡi một tháng, và tất nhiên, bao ăn ở, giống như tất cả những người còn lại.”
“Ý ông là tôi phải cọ rửa xoong nồi và những thứ khác sao?” Harvey nói.
“Và nhiều việc khác nữa. Cậu không có quyền phản đối, anh bạn trẻ.”
“Tôi không làm! Bố tôi sẽ cho ông số tiền đủ để mua lại chiếc tàu cá nhỏ bé và nhếch nhác này.” Harvey giậm chân trên sàn tàu. “Gấp mười lần nữa nếu ông đưa tôi về New York an toàn, và... và ông vốn đã có một trăm ba mươi đồng của tôi rồi, bằng cách nào đó.”
“Cách nào?” Troop hỏi, khuôn mặt rắn rỏi bỗng tối sầm lại.
“Cách nào à? Ông tự biết rõ mà. Hơn nữa, ông còn muốn tôi làm mấy công việc vặt vãnh...” Harvey hết sức tự hào về từ vừa nói. “... cho đến tận mùa thu. Tôi nói là tôi không làm. Ông nghe rõ chưa?”
Troop quan sát đỉnh cột buồm chính với vẻ thích thú trong chốc lát, trong khi Harvey vẫn sồn sồn lên, đi đi lại lại xung quanh ông.
“Yên nào!” Cuối cùng, ông lên tiếng. “Ta đang cân nhắc những trách nhiệm mà ta phải gánh. Đây là vấn đề liên quan tới việc đánh giá con người.”
Dan bước lên và huých vào khuỷu tay Harvey. “Đừng có mà gây hấn với Bố nữa.” Cậu ta đề nghị. “Cậu đã gọi ông ấy là quân kẻ cướp hai hay ba lần rồi, và ông ấy không thích nghe ai gọi như vậy đâu.”
“Tôi cứ cãi đấy!” Harvey gần như ré lên, bỏ ngoài tai lời khuyên kia, còn Troop vẫn đang trầm ngâm.
“Có vẻ không được thân thiện cho lắm nhỉ?” Cuối cùng ông cũng lên tiếng và cúi xuống nhìn Harvey. “Ta... không trách cứ gì cậu, không một chút nào, anh bạn trẻ ạ. Cậu cũng không thể trách ta mỗi khi cậu nổi giận. Hãy đảm bảo là cậu hiểu những gì ta nói nhé? Mười đô rưỡi cho một đứa trẻ thứ hai trên thuyền buồm - bao ăn ở - để dạy dỗ cậu và vì chính sức khỏe của cậu. Đồng ý không?”
“Không!” Harvey nói. “Đưa tôi về New York, nếu không tôi sẽ...”
Cậu không nhớ chính xác những việc xảy ra tiếp theo. Cậu đang nằm trên rãnh chứa nước tràn, ôm lấy cái mũi đang chảy máu ròng ròng trong khi Troop nhìn xuống với vẻ bình thản.
“Dan!” Ông nói với con trai mình. “Chỉ vì những phán đoán vội vàng khi lần đầu tiên nhìn thấy cậu ta mà giờ ta chẳng khác nào bị bắn cho một phát. Con đừng bao giờ bị che mắt bởi những đánh giá vội vã, Dan ạ. Giờ thì ta cảm thấy tiếc cho cậu ta, vì cậu ta đã bị rối trí bởi cái xã hội thượng lưu của mình. Cậu ta không có trách nhiệm với cái tên của mình, cũng như với những tuyên bố khác mà cậu ta đưa ra, tương tự như đối với việc nhảy khỏi tàu - việc mà ta đã tin đến một nửa là cậu ta tự làm như vậy. Con hãy nhẹ tay với cậu ta, Dan, nếu không ta sẽ cho con lĩnh gấp đôi cú vừa rồi đấy. Có chảy tí máu thì mới nghĩ thông được. Cứ để cậu ta tự tỉnh lại!”
Troop một mình đi xuống cabin, nơi ông và những người lớn tuổi hơn ở, để Dan ở lại an ủi người thừa kế kém may mắn của gia tài ba mươi triệu đô la kia.