Sinh năm: 1976
Quê quán: Giao Thủy, Nam Định
Hiện công tác tại: Văn phòng đại diện phía Nam, Tạp chí Văn nghệ quân đội.
TOÁN BIỆT KÍCH CUỐI CÙNG
Đã hơn một tuần nay ông cụ Vượng không đi bán vé số dạo. Người ta kháo nhau: Bệnh ấy thì trời kêu ai nấy dạ. Mấy bà đi chợ nhai trầu bỏm bẻm than thở: Khổ thân ông lão, giờ nằm đấy… rồi mai mốt ai trông nom thằng Khờ…
Con hẻm ấp Quảng Đà dường như vắng lặng hơn mọi hồi. Mỗi ngày không có tiếng rao khàn khàn, đùng đục của ông cụ Vượng. Cái cách rao bán vé số của ông cũng rất khác người. Bữa nào cũng thế, cứ vào tầm sáu rưỡi sáng là ông dắt chiếc xe đạp cũ kỹ, cầm xấp vé số trên tay vừa đạp xe vừa gõ chiếc kẹp vé số vào ghi đông những tiếng kêu cặp cặp… cặp cặp. Thi thoảng lắm ông mới cất giọng: “Số ê… đê…” nghe cũng khó nhọc như tiếng cà vào nhau của bộ sên nhão lâu ngày. Con hẻm toàn dân lao động nghèo, chả mấy khi ông bán được tấm vé nào. Ấy vậy nhưng mỗi khi bước ra khỏi nhà ông vẫn cất lên tiếng gõ đều đặn, như thể một thói quen cố hữu của một ông lão gàn gàn, dở dở. Khách mối của ông là những chủ sạp bán buôn ngoài chợ, hoặc vài người nhàn hạ nhâm nhi cà phê sáng dọc con lộ trên thị trấn. Ngày nắng cũng như ngày mưa, ông đạp xe bán dạo đều đặn, đến nỗi không cần xem đồng hồ nhưng khi thấy tiếng gõ cặp cặp… cặp cặp trên đường về của ông cụ là tôi biết ngay đã đến giờ đưa con đến trường. Những hôm gặp khách rủng rỉnh mua nhiều, ông bán hết sớm và y rằng ghé qua nhà tôi, khi thì bụm trà bắc thơm ngon, khi thì cái bánh bông lan cho thằng nhóc. Tôi vốn chẳng mơ trúng số bao giờ, nhưng để đáp lễ ông, tôi cũng mua giúp ông vài tấm. Riết rồi quen tiếp chuyện ông, những câu chuyện tự cổ chí kim, mà có lẽ tấm vé số chỉ là cái cớ để ông tìm đến với tôi để dốc bầu tâm sự. Nhiều lần vợ tôi nhăn nhó: “Ông cụ bán vé số kiếm từng đồng, mà bố con anh nhận quà hoài, em thấy tội lắm”. Nhưng nào tôi có muốn nhận đâu, ông cụ cứ tìm đủ lí do. Nào là thằng cháu ở Sài Gòn mới về cho, hoặc giả như… hôm nay gặp bà bán bánh bông lan ế nên đổi cho tôi lấy số… Tôi hiểu ý ông nhưng cũng thấy áy náy mà chẳng biết làm sao. Người ta có quý mình mới tới chơi chớ. Ở đời giàu sang chắc gì đã có bạn tri kỷ tri âm. Vợ tôi cười mỉa: “Anh với ông lão là tri kỷ chắc, đồng niên chả phải, đồng nghiệp cũng không. Khéo mà bị vạ lây đấy...”. Tôi ậm ừ cho qua chuyện. Cả ấp này ông lão có chơi với ai đâu. Nói đúng hơn, chẳng ai muốn qua lại với gia đình có người tham gia chế độ cũ. Tôi cũng không hiểu tại sao mình lại thân với ông cụ, lúc đầu chỉ là vài ba câu chuyện xã giao, dần dà tôi thấy ông cụ có phần tồi tội, nên hay hỏi thăm, an ủi, rồi thân thiết lúc nào không hay. Nhà ông Vượng ở cuối hẻm, mỗi lần ngang qua nhà tôi, ông rà rà bàn chân mang đôi dép Lào mòn vẹt, một tay lái xe, tay kia cầm xấp vé số gõ cặp cặp thay cho lời chào. Nghe tiếng gõ tôi biết ông buồn hay vui. Hôm bán được nhiều, tiếng gõ khoan thai từng nhịp. Bữa nào ế ẩm tiếng gõ lạc lõng, rời rạc chìm theo bóng ông lão xiêu vẹo nghe buồn mênh mang…
Người trong ấp kể, trước đây ông Vượng đất đai nhiều bao la, có cả nhà mặt tiền mấy chục thước án ngữ ngoài thị trấn. Nhưng thằng con dị tật bẩm sinh đã khiến ông bà khánh kiệt tài sản vì chạy chữa khắp nơi. Để có tiền trị bệnh cho con, ông cắt đất bán dần. Thằng Khờ đã ngoài ba mươi mà như đứa con nít. Ấy là nghe mọi người kêu như thế, chứ chẳng ai biết tên thật của nó là gì. Cái mặt nó lúc nào trông cũng đần đần, mắt trợn thao láo, không biết nói, không biết cười, chỉ gào lên vật vã mỗi lần lên cơn động kinh. Những lúc như thế nó lùa đánh cả bố đẻ thừa sống thiếu chết. Bà con lối xóm mỗi khi nghe tiếng vỡ chén bát loảng xoảng, tiếng gào khóc của nó lại nháo nhào chạy sang giúp ông trói nó lại qua cơn mới thôi. Căn nhà của ông cứ bán rồi mua giật lùi dần từ ngoài phố về trong hẻm, rồi giật lùi mãi đến cuối cùng mà tiền vẫn không đủ để chữa trị cho thằng Khờ. Biết rằng chẳng thuốc gì chữa được căn bệnh quái ác nhưng ông vẫn không bao giờ hết hy vọng chạy chữa cho nó. Sức cùng lực kiệt, ông cụ Vượng bán vé số sinh nhai, và ngày nào ông cũng để lại cho mình một vé, ông nói với tôi: Biết đâu trời thương cho một tấm độc đắc, khi đó ông lại tiếp tục chữa bệnh cho con… Mấy người bàn: Hay là đưa nó vào nhà thương Biên Hòa? Ông lắc đầu, khuôn mặt già nua nhăn nheo, mắt ầng ậc nước.
Tôi biết ông Vượng cũng vào một ngày thằng Khờ lên cơn động kinh như thế. Ngày ấy gia đình tôi mới chuyển lên cư trú nơi ấp Quảng Đà. Giữa trưa, trời nắng như đổ lửa. Nghe tiếng la hét, tiếng chân giậm bình bịch từ phía căn nhà cuối hẻm, tôi vội vã chạy xuống coi. Gã thanh niên tóc tai bờm xờm như vượn, chân mang cùm đang cầm cây đuổi đánh một ông già. Tôi sôi máu lao vào giật phăng cây gậy, xô hắn té sấp. Nhưng lạ thay ông lão lật đật chạy lại đỡ thằng mất dạy ấy lên rồi xuýt xoa ra chiều xót xa lắm. Ông lão ngẩng mặt nhìn tôi đoạn nói giọng đứt quãng: “Cảm phiền thầy, cháu nó không biết gì đâu”. Nói rồi ông cùng vài người hàng xóm dắt nó vào cái cũi ở chái nhà. Sau tiếng khóa lách cách, nó nhổ phì phì như rắn hổ mang, mồm méo xệch, rớt dãi trắng xóa như bọt xà phòng. Mấy bà ngoài ngõ rỉ tai tôi: “Con ổng bị thần kinh đấy. Chú coi chừng…”. Sáng hôm sau, lúc ông cụ đạp xe đi bán vé số qua nhà tôi, ông dừng lại gõ cặp cặp, khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn sâu hoắm với nụ cười méo mó. Tôi không hiểu ý chừng ông cụ chào mời vé số hay trách cứ. Một giọng nói trầm đục nửa Nam nửa Bắc:
- Bữa nay thầy ở nhà?
- Vâng, chào bác. Mời bác vô uống nước.
- Xin phép thầy, tôi phải đi cho kịp giờ.
- Chuyện hôm qua mong bác bỏ quá cho… chả là…
- Ấy không. Thầy mới đến nên chưa biết đó thôi, tôi khổ lắm…
Ông cụ chực khóc. Tôi chẳng biết nói sao cho phải. Nhìn tấm thân gầy guộc trên chiếc xe đạp cũ kỹ lảo đảo tiến về hướng đầu giao lộ, tôi thấy lòng mình nao nao.
Sau vài lần thằng Khờ lên cơn động kinh, tôi đã quen với cảnh nhốn nháo ở căn nhà cuối hẻm. Lần nào cũng vậy, tôi chạy sang nhẹ nhàng giúp ông khống chế thằng con tội nghiệp. Qua một hồi vật lộn với nó để đưa vào cũi, ông lão mời tôi ở lại chơi, như để cảm ơn, hay tâm sự nỗi đời của lão cũng không biết nữa. Lúc đầu, tôi ngồi một chút cho phải phép. Lâu dần, thấy tâm sự của ông lão đầy uẩn khuất… tôi đâm ra ghiền nghe chuyện của lão. Có người bảo, cán bộ đảng viên ai lại chơi với lính ngụy. Có người thì cho rằng tôi đang lấy cớ để theo dõi lão. Mặc kệ thiên hạ, thời buổi này rồi còn theo dõi nỗi gì, hơn nữa già khú đế như lão… Hồi mới quen, nghe lão chào tôi bằng thầy, tôi lại tưởng ý chừng lão kêu như vậy vì vợ tôi là giáo viên. Sau lão bảo, hồi trước giải phóng, sĩ quan quân đội Sài Gòn ai cũng phải kêu bằng thầy hết ráo. Có xe Jeép riêng chạy tối ngày. Họ dữ dằn lắm chứ không… hiền lành như thầy đâu. Tôi giật mình, thì lão vẫn nguyên là một tên lính ác ôn chế độ cũ mà. Tôi chợt hơi lo lắng, nhưng rồi nghĩ lại phì cười. Ông lão bị ám ảnh chuyện ngày xưa đó thôi…
Giữa dòng người xuôi ngược, ông cụ Vượng vẫn lặng lẽ canh giờ người ta uống cà phê hay trong quán nhậu để mong bán được sự cầu may cho thiên hạ. Người ta nhâm nhi nhàn tản, còn ông lúc nào cũng vội vã, lo âu. Những câu chuyện giữa tôi và ông cụ được chắp nối sau từng cơn điên dại của đứa con tật nguyền.
Ngày ấy, lúc vừa mới chào đời còn đỏ hỏn, cha mẹ cu Vượng đã chết trong nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu. Ông chú họ ở Bùi Chu nhận làm con nuôi. Vượng lớn lên trong sự ghẻ lạnh của bà thím độc ác. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, gia đình chú thím mang theo Vượng ra Hải Phòng để lên tầu há mồm vào Nam. Cả làng Vượng định cư ở một vùng đất mới. Tiếng súng nổ khắp miền Nam ngay từ những ngày đầu Vượng biết thế nào là chiến tranh. Đứa trẻ mới lớn như Vượng sớm được chứng kiến cảnh bắn giết, bắt bớ giữa hai làn đạn. Từ một đứa trẻ mồ côi Vượng trở nên gan lỳ cóc tía. Cuộc sống hỗn loạn nơi xứ người khiến Vượng nhanh chóng nhập bọn với đám bạn giang hồ tứ chiếng. Trong những lần đụng độ với cảnh sát bảo an, Vượng thấy người ta truy tìm cộng sản gắt gao nhưng bản thân anh không hề biết cộng sản là ai, tại sao họ luôn luôn “chống” lại chính quyền Sài Gòn? Vượng vốn không ưa gì lũ người chuyên trị bắt nạt dân lành. Nhưng một mình chống lại chúng cũng không dễ nên gã tụ họp đàn em quấy phá nhiều vụ làm chính quyền thất điên bát đảo. Nghe vài người bảo muốn oánh lại cảnh sát thì vào rừng theo cộng sản. Nhưng một gã giang hồ như Vượng biết tìm cộng sản ở đâu? Xung quanh Vượng toàn lính Sài Gòn và đồn bốt. Mà chắc gì cộng sản sẽ thu nạp? Vượng chậc lưỡi sống kiếp lang thang như bầy sói hoang. Băng nhóm Vượng Hố Nai đã một thời làm khuynh đảo khắp vùng Biên Hòa. Vượng là cái gai nhức nhối trong con mắt của bọn bảo an dân vệ. Cho đến một ngày Vượng bị bắt lên xe GMC đến quân trường Quang Trung thì gã mới biết mình đã bị đăng lính Sài Gòn. Năm ấy Vượng đã ngoài hai mươi tuổi. Vốn vùng vẫy giang hồ đã quen mùi súng đạn, gã nhanh chóng đứng đầu bảng thành tích bắn súng, phi dao. Kết thúc khóa huấn luyện, gã được chọn học trường biệt kích Nha Trang. Cũng mặc, miễn là chưa bị đày ra chiến trận. Gã suy nghĩ đơn giản thế bởi bạn bè gã nói nếu không có tiền chạy chọt ở lại thành phố thì phải sung vào bộ binh khổ ải ác liệt lắm, mạng sống như con muỗi mà thôi… Mà gã thì tứ cố vô thân, tiền đâu ra để chạy chọt? Thì đi học cũng được, gã gật đầu tắp lự mà đâu biết bước ngoặt trong đời lính của gã.
- Vậy lúc đó bác có biết lính biệt kích là gì không?
- Tôi đâu có rành. Thời ấy trai trẻ tang bồng, thích đi xa, thích ở thành phố, thế thôi.
Ông cụ Vượng vốn không hút thuốc. Nhưng khi kể chuyện đời lính của mình, ông xin tôi một điếu, lặng lẽ nhả khói dày đặc như thể ông đang xả hết nỗi niềm. Ông bảo: “Thầy ạ, lúc đầu khi biết thầy là Quân giải phóng, tôi ngại lắm. Nhưng khi tiếp chuyện thầy, tôi mới biết thầy rất… thông cảm với tôi. Ngày xưa, nếu gặp ông thiếu tá như thầy, tôi đâu dám nhìn mặt”. Tôi bật cười trước suy nghĩ sặc mùi nhà binh của lão. Nhớ lại mấy năm trước khi vợ tôi còn dạy học ở Xuân Lộc, tôi cũng tình cờ quen vài ông lính chế độ cũ. Chả biết thực hư thế nào, các lão khi biết tôi là bộ đội đều giải thích giọng ráo hoảnh: “Hồi đó tớ là lính quân y thôi mà”. Hoặc như: “Tôi làm ở văn phòng, có được bắn viên đạn nào đâu”… Còn lão Vượng đây, lão thừa hiểu tôi rành rẽ lính biệt kích thám báo ác ôn như thế nào. Vậy mà lão vẫn nói ra tất cả. Ít ra lão cũng là một con người thành thật đấy chứ? Có lần lão hỏi: “Thầy được học nhiều, thầy có tin ở thuyết nhân quả của nhà Phật không?”. Rồi lão lại chìm trong hồi tưởng về tội lỗi của lão những tháng ngày đen tối, mà theo lão, đến cuối cuộc đời này biết có trả được không?
Sau Mậu Thân, Trường biệt kích chiêu sinh với số lượng lớn. Kết thúc hai năm huấn luyện khóa Kiên Cường, Vượng được điều về Liên đoàn biệt động 88 thuộc Vùng 3 chiến thuật. Từ đây Vượng chính thức trở thành lính biệt kích chuyên hoạt động ở vùng căn cứ Chiến khu D của cộng sản mà cấp trên cho gã biết rằng chính là Khu ủy miền Đông Nam Bộ. Đến lúc này gã mới biết rằng mạng sống của lính biệt kích còn mong manh hơn… con muỗi. Đã lỡ rồi, quay lại sao được nữa. Quân lệnh đến liên tục bằng các cuộc hành binh dài ngày. Để úy lạo tinh thần chiến hữu, toán biệt kích được trả lương theo từng đợt hành binh với số tiền bằng cả năm lương hạ sĩ. Tiểu đoàn của gã được chia làm nhiều toán, trực thăng của phi trường Biên Hòa đưa đến một vị trí bí mật, hạ tầm cực thấp rồi leo thang dây xuống đất. Mỗi toán chỉ khoảng bảy đến mười chiến hữu trang bị vũ khí nhẹ, lương khô và máy thông tin PRC-25. Nhiệm vụ từng toán luồn sâu vào căn cứ quân Bắc Việt, theo dõi tình hình báo cáo về trung tâm. Mỗi toán phải tác chiến độc lập, và đặc biệt phải giỏi cận chiến, xác định tọa độ, khả năng tự tồn tại trong môi trường khắc nghiệt nhất. Điều này Vượng đã được học kỹ ở Trường biệt kích. Song mỗi lần được thả xuống rừng già, gã cảm thấy toán biệt kích như bị lọt thỏm giữa trận đồ bát quái. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, bom đạn tứ bề của cả hai phía, thú dữ, hầm chông, cạm bẫy… Chỉ khi nào có lệnh bốc quân về trại, gã mới biết mình còn sống. Sau mỗi đợt hành binh, cả toán của gã nhận tiền và lao vào ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Rượu Mẽo xỉn ngoắc cần câu xong đánh xe Jeép ra Vườn Mít chơi gái điếm. Cũng có bữa mon men vào câu lạc bộ sĩ quan bù khú, hoặc cờ bạc sát phạt lẫn nhau. Đám quân cảnh khi thấy bọn gã lắc lư ở quán bar, hay trên đường phố cũng chỉ quay mặt đi cho đỡ… ngứa mắt. Vì nếu bắt bọn gã, chỉ sau một cú điện thoại lập tức toán biệt kích có xe đón ngay về trại. Bọn chiến hữu bảo Vượng: “Thiên đường và địa ngục cách nhau có mấy gang tay. Nhiều tiền để làm gì? Chúng nó mua mạng sống mình rồi, biết đâu còn có lần sau”.
Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Rừng núi Chiến khu D trở lên nguy hiểm với bất cứ lực lượng nào của quân đội Sài Gòn. Toán biệt kích của Vượng đã mất mạng bốn tên. Không còn lính để bổ sung nữa. Sài Gòn vẫn mạo hiểm đổ những toán biệt kích cuối cùng như một canh bạc sắp tàn mà phần thua đã hiện hữu trong gang tấc. Hôm ấy, cả tiểu đoàn của gã loan tin: Buôn Ma Thuột đã thất thủ. Gã thấy từng gương mặt của chỉ huy nhăn nhó, lo âu. Lệnh thiết quân luật kéo dài đằng đẵng. Rồi trực thăng tới tấp bốc quân đi đặc vụ. Chẳng thấy chuyến nào trở về. Vượng nín thở chờ đến lượt mình. Gã cầu nguyện hàng đêm mong sao đừng phải đi đến vùng nguy hiểm đó. Vượng nghe tin quân Bắc Việt tiến nhanh như thác đổ. Gã mơ đến một ngày thật gần, khi cuộc chiến này kết thúc, gã sẽ thoát kiếp nạn. Nhưng chưa kịp mơ đến ngày trở về thì toán của Vượng nhận lệnh đổ xuống điểm Z thuộc khu vực rừng Mã Đà. Tên đại úy đội trưởng dẫn Vượng đến phòng chỉ huy hành quân chỉ tay lên tấm bản đồ chiến thuật giọng căng thẳng: “Bằng mọi giá phải thu thập được phiên hiệu, lực lượng của cấp sư đoàn chính quy Bắc Việt. Nếu phát hiện căn cứ kho trạm lập tức đốt phá. Cấp bách lắm, sẽ không có chi viện hỏa lực. Trung sĩ sẽ góp phần quan trọng bảo vệ chế độ này…”.
Vượng thấy hai tai ù đặc chẳng nghe được gì thêm. Vậy là giờ định mệnh đã đến. Mấy đêm trước ngồi nhậu với bọn truyền tin, chúng nó rỉ tai rằng Chiến khu D giờ dày đặc cộng sản. Chẳng còn mấy bữa nữa đâu… Vượng chợt nghĩ: Hay là đào ngũ? Nhưng giờ biết đi đâu? Gã làm gì có ai thân thích để về nương tựa. Thôi thì đời đến đâu biết đến đó. Ngày xưa ông chú họ bấm lá số tử vi cho gã bảo rằng có sao hộ mệnh. Sống chết chẳng qua là cái số. Trong đêm hôm đó, toán biệt kích chỉ còn năm mạng do Vượng chỉ huy lọt thỏm giữa rừng già ma mị.
Ông cụ đột ngột dừng câu chuyện, khẽ hỏi tôi:
- Thầy có biết thằng cháu nhà tôi bị bệnh gì không?
Rồi chẳng đợi tôi trả lời, ông bảo:
- Ai cũng tưởng nó bị động kinh. Nhưng không phải. Thầy có nghe vụ chất độc da cam chưa?
- Cháu biết. Nhưng bác có khi nào…
Ông cụ lắc mái đầu bạc trắng giọng chua chát:
- Thầy ạ! Chúng nó đổ chất độc xuống rừng để tiêu diệt phía… cộng sản. Nhưng chất độc ấy nó đâu có phân biệt được phe nào. Tôi bị nhiễm điôxin vì những ngày làm biệt kích ở vùng cao nguyên mà không biết. Vợ chồng tôi chỉ có mình nó mà tàn tật thế này… Âu cũng là quả báo thầy ạ!
Giọng ông cụ chùng hẳn xuống. Từ hai hốc mắt già nua ứa ra những giọt tủi hờn, nghẹn đắng. Tôi rót cho ông cụ ly trà đặc. Có lẽ ông ta đang sám hối về quá khứ đau buồn của thời lầm lạc. Thôi cứ để ông lão kể ra cho nhẹ lòng. Phía đằng mình, biết bao gia đình đau khổ vì cái chất độc quái ác ấy. Nhưng có lẽ, lão Vượng ngày xưa gây quá nhiều tội ác với Quân giải phóng, nên lão mới day dứt như vậy. Đêm hôm ấy, sau mấy tuần trà vòng vo tam quốc ông lão Vượng mới nói ra được sự thật khiến lão day dứt cả đời. “Tôi đã giết một anh Bắc Việt thầy ạ. Đúng hơn là tôi quá hoảng sợ mà giết chết anh ấy. Thầy có tin không?”.
Tôi chẳng bất ngờ về câu chuyện của lão. Lính biệt kích vốn ác ôn, giết chóc là nghề của chúng. Chẳng lẽ lão tính gạt tôi sao? Như đoán được suy nghĩ của tôi, lão Vượng lập cập ra dấu thánh, lão thở dài:
- Thầy đã là sĩ quan, chắc thầy hiểu. Thời chiến nếu không đăng lính bên này thì cũng ở phía bên kia. Thề có Chúa, tôi không yêu mến gì cái chế độ ấy nhưng cũng chẳng thể làm khác được. Tôi không đếm được bao nhiêu lần xuất trận, không biết đã bắn chết bao nhiêu quân… Bắc Việt. Nhưng người lính cuối cùng phía… bên thầy, đáng lẽ anh ấy phải sống… Toán của tôi vừa chạm đất đã đụng một tiểu đội bộ binh. Có lẽ họ mới vào, quần áo còn mới lắm. Ba thằng chiến hữu của tôi dính ngay loạt đầu. Tôi và thằng còn lại liều chết băng rừng thoát thân. Chạy đến gần sáng thì lạc nhau và tôi phát hiện một căn cứ chắc là của hậu cần vì thấy trên cây treo đầy túi cứu thương. Lán trại trống hoắc, chỉ có một anh Giải phóng đang nằm đu đưa trên võng. Tôi đã định di chuyển sang hướng khác nhưng vừa nhìn thấy nòng súng AK hướng lên tôi vội quăng một trái mỏ vịt. Thầy biết không, trái lựu vừa nổ cũng là lúc trên máy PRC-25 tôi nghe rõ lệnh rút chạy của sư đoàn 18 ra khỏi căn cứ Xuân Lộc… Giá như nghe được sớm hơn… vài giây thôi…
Tôi giận rung người. Cảm giác căm thù dồn lên khiến mặt tôi nóng bừng. Lão đang chống chế hành động tội lỗi của lão ư. Một giọng điệu cả thôi. Cớ sao lão lại kể tôi nghe chuyện này? Người như lão mà ngày xưa bên ta đã tha thứ ư? Ngày ấy nếu tôi đã ra đời. Nếu tôi đã là một người chiến sĩ Giải phóng. Nếu tôi bắt được gã Vượng? Tôi sẽ bắn cho tan xác gã? Hình như có mùi thuốc súng đâu đây? Không phải. Phía căn nhà cuối hẻm phát ra tiếng kêu thất thanh: “Ới ông Vượng ơi… thằng Khờ đốt nhà…”.
Từ sau buổi trò chuyện với tôi đêm ấy, ông cụ Vượng nằm bẹp ở nhà không đi bán vé số như mọi ngày. Thấy lạ tôi định sang chơi mấy lần nhưng vì bận việc nên lại thôi. Bẵng đi một thời gian, khi tôi đang chỉ huy đơn vị ngoài bãi tập thì chợt nghe vợ gọi:
- Tuần này anh có trực không? Ông bạn tri kỷ chết đến nơi rồi.
- Bạn nào?
- Ông Vượng vé số chứ còn ai nữa.
- Làm sao mà sắp chết?
- Ung thư vòm họng, giai đoạn cuối.
Vợ tôi nhấm nhẳng mấy câu rồi cúp máy. Vậy ra lão âm thầm chịu đựng nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần bấy lâu mà tôi không hay. Tôi bần thần tự nhủ: Cũng một kiếp người. Dù sao lão cũng đã sống thật những ngày còn lại. Tôi sẽ về để gặp ông cụ lần cuối. Một biệt kích quân trong toán biệt kích cuối cùng.