Sinh năm: 1963
Quê quán: Tiền Hải - Thái Bình
Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
Hiện công tác tại: Tạp chí Văn nghệ quân đội.
MÃI MÃI TỎA SÁNG NGỌN LỬA CỦA TINH THẦN SỬ THI
(Khảo sát trong thể loại tiểu thuyết)
Trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam từ 1945 đến nay thì sự phát triển của tiểu thuyết - với tư cách một thể loại cơ bản luôn gắn liền với những biến động lịch sử của dân tộc và thời đại. Tiểu thuyết sử thi là thể tài nhạy cảm hơn cả với bước đi của lịch sử, với những sự kiện lịch sử.
Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1948 với bản báo cáo mang tính lịch sử Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam đã mở ra một triển vọng, một hướng đi cho nền văn học mới. Đó cũng chính là tiền đề lý luận để tiểu thuyết sử thi Việt Nam hình thành và phát triển. Chúng ta đã có những thành quả đầu tiên với Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Xung kích (Nguyễn Đình Thi), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng) được trao Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam các năm 1951 - 1952 và 1954 - 1955. Được viết với cảm hứng ngợi ca hồn nhiên nên tiểu thuyết sử thi giai đoạn này mới chỉ dừng lại miêu tả những cái bên ngoài của sự kiện, của nhân vật, nhất là hình tượng nhân vật tập thể chứ chưa đi sâu vào lý giải bản chất bên trong hay phân tích tính cách. Dưới cái nhìn của hôm nay dễ thấy các tác giả thời đó ý thức rất cao về nhiệm vụ chính trị, về tinh thần dân tộc nhưng ý thức về giai cấp còn mơ hồ, nói như nhận xét của Ban chấm giải Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955 là “chưa nêu rõ vấn đề đấu tranh chống phong kiến, vạch rõ những quan hệ và sự câu kết giữa đế quốc và giai cấp phong kiến”3. Thành công của các tác phẩm này là miêu tả khá sinh động sức mạnh của quần chúng tập thể, cao hơn là sức mạnh của toàn dân tộc cùng một lòng đứng lên đánh đuổi giặc Pháp theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã góp phần tích cực trong việc phản ánh cổ vũ động viên cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện gian khổ và cực kỳ anh dũng của quân dân ta trong những năm đầu đánh Pháp. Có thể nói sự hồn nhiên trong tư duy (cả về nội dung và hình thức) là một đặc điểm riêng của tiểu thuyết sử thi được viết trong những năm trước 1954.
3. Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 39.
Đỉnh cao của tiểu thuyết sử thi viết về cuộc kháng chiến chống Pháp là Đất nước đứng lên (1956) của Nguyên Ngọc. Sự bứt phá về đối tượng miêu tả, về nội dung phản ánh và cách biểu hiện là rất đáng khâm phục. Lấy bối cảnh cuộc kháng chiến của dân tộc Ba Na (Tây Nguyên) đánh Pháp kiên cường bất khuất nhưng người đọc vẫn nhận thấy đó là cả một cuộc đấu tranh vĩ đại được thu nhỏ của cả dân tộc Việt Nam này. Thành công của tác phẩm ngoài tính điển hình phổ quát còn phải kể đến một tư duy tiểu thuyết khá già dặn ở chỗ nhà văn đã xây dựng một tính cách anh hùng của nhân vật Núp với quá trình phát triển biện chứng lôgíc, được viết bởi một bút pháp sử thi vừa giàu tính hiện thực vừa đậm chất thơ. Đất nước đứng lên xứng đáng là một trong những đỉnh cao không chỉ của văn học viết về kháng chiến chống Pháp mà còn là của cả dòng tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975.
Sự xuất hiện của Đất nước đứng lên và âm hưởng vang dội của tiếng súng Đồng Khởi đầu những năm 60 của thế kỷ XX là những “cú hích” để tiểu thuyết sử thi phát triển mạnh mẽ. Hàng loạt tiểu thuyết ra đời: Một chuyện chép ở bệnh viện (1959), Trước giờ nổ súng (1960), Sống mãi với Thủ đô (1961), Cao điểm cuối cùng (1961), Những người cùng làng (1961), Làng tề (1962), Một chặng đường (1962), Trên mảnh đất này (1962), Phá vây (1963), Đất lửa (1963)... Trong ba năm 1960, 1961, 1962 có hơn 20 cuốn tiểu thuyết xuất bản, mỗi cuốn phát hành trên dưới một vạn bản4. Nhưng có lẽ nguyên nhân quan trọng hơn cả là vị thế dân tộc lúc này đang ở tầm cao của vũ đài chính trị thế giới. Sau khi chúng ta thắng Pháp với trận Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”, cả thế giới nhìn chúng ta với con mắt cảm phục, ngưỡng mộ.
4. Pham Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 2000, tr. 143.
Đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam. Cả nước ta lại đoàn kết thành một khối “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu). Chưa bao giờ “không khí sử thi” lại bừng bừng mạnh mẽ như lúc bấy giờ. Những tiểu thuyết sử thi nguyên khối, tinh chất, không pha tạp ra đời như là một sự tất yếu: Vào lửa (1966), Hòn Đất (1966), Cửa sông (1967), Gia đình má Bảy (1968), Ở xã Trung Nghĩa (1969), Rừng U Minh (1970), Đường trong mây (1970), Vùng trời (1971), Đất Quảng (1971), Dấu chân người lính (1972), Thôn ven đường (1973), Mẫn và tôi (1972)... Nhà nghiên cứu Niculin (người Nga) nhận xét về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng là “đã bao bọc nhân vật trong bầu không khí vô trùng”. Nhưng có lẽ nhận xét ấy đúng với cả các nhân vật tiểu thuyết sử thi tiêu biểu của thời kỳ này: Chị Sứ (Hòn Đất), Lữ (Dấu chân người lính), Mẫn (Mẫn và tôi), Hảo (Vùng trời)...
Cảm hứng sử thi hào sảng đã tạo ra những nhân vật đậm chất lý tưởng. Nhân vật như một vầng hào quang trên bầu trời sử thi tỏa chiếu ánh sáng lý tưởng soi rọi, hướng bạn đọc đi về phía cái cao cả, cái anh hùng. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ, đỉnh cao của tiểu thuyết sử thi Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975. Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) xứng đáng là một thành tựu của văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài sự thành công xây dựng những điển hình anh hùng thời chống Mỹ (Kinh, Lữ), tiểu thuyết còn thể hiện được tinh thần của thời đại cả dân tộc một lòng đứng dậy đánh giặc: “Lớp cha trước lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).
Con người sử thi là con người của lý tưởng, của niềm tin, rất khó tìm thấy ở họ có chút gì riêng tư cho cá nhân mình. Tình yêu là lĩnh vực riêng tư nhất nhưng trong văn học thì tình yêu trai gái hòa vào tình yêu đất nước, tình yêu nhỏ nằm trong tình yêu lớn. Thật dễ hiểu các cặp đôi như Lữ - Hiền (Dấu chân người lính); Quỳnh - Hảo (Vùng trời); Thiêm - Mẫn (Mẫn và tôi); Ngạn - Quyên (Hòn Đất) đều là những nhân vật của sử thi, từ suy nghĩ đến “yêu đương” cũng rất “sử thi”. Tình cảm trong bức thư của người vợ gửi cho chồng (Chính ủy Kinh) cũng có thể tìm thấy ở bất kỳ lá thư nào của những người vợ từ hậu phương: “... ở nhà mọi người đều bình yên và đang tích cực sản xuất để góp phần cùng tiền tuyến chống Mỹ, cứu nước” (Dấu chân người lính). Những người vợ ấy đã xác định rõ không chỉ gửi thư cho chồng mà còn cho cả đồng chí của chồng. Cũng tương tự lá thư của những người chồng không chỉ là tình cảm của riêng mình mà còn là của chung đồng đội. Tất cả, những người nơi hậu phương, nơi tiền tuyến đều coi nhau như trong một nhà, tất cả vì mục tiêu đuổi giặc. Cũng rất lôgic, khi đồng chí coi nhau như anh em trong nhà, thì anh em cha con ruột thịt lại coi nhau như đồng chí. Thậm chí khi yêu nhau người ta cũng coi nhau như đồng chí. Một câu thơ đã nói rất đúng cái tình thời đó là tình đồng chí: “Rồi hai đứa hôn nhau hai người đồng chí”. Con người sử thi là con người “nén tình riêng vì nghĩa lớn” nên sự hy sinh của họ cũng là cái chết của sự cao cả, là cái chết “gieo mầm” (tên một truyện ngắn của Nguyễn Thiều Nam).
Tương ứng với cảm hứng sử thi hào sảng và con người sử thi lý tưởng là một không gian sử thi hoành tráng. Đó là kiểu không gian mang tính xung đột căng thẳng: xung đột giữa dân làng Kônghoa với bọn giặc Pháp (Đất nước đứng lên); giữa nhân dân thôn Hòn Đất với tụi Mỹ - Diệm (Hòn Đất); giữa đoàn không quân Sao Vàng với bọn không lực “Huê Kỳ” (Vùng trời)... Thường là xung đột không cân sức, bên ta thì ít người, vũ khí thô sơ; bên giặc quá đông cùng vũ khí hiện đại. Đó là xung đột chính nghĩa - phi nghĩa mà kết cục chính nghĩa giành được thắng lợi. Không gian sử thi được biểu hiện cụ thể qua hình tượng con đường, trận đánh. Đó là con “đường vui”, là “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Con người thời đó tìm niềm vui, nguồn vui ở trong những trận đánh giặc: “Đánh Tây sướng bằng tiên chớ cực gì” (Người mẹ cầm súng)... Đấy không chỉ là tâm trạng của nhân vật chị Út Tịch mà còn là tâm trạng chung của hàng vạn, hàng triệu con người ở thời đó. Thời đánh giặc ấy không chỉ có những suy nghĩ sáng ngời lấp lánh một tinh thần sử thi của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc… mà chúng ta có hàng triệu, hàng triệu những trái tim “trong như ngọc sáng ngời” như thế. Đấy là sự thật. Nhờ vậy chúng ta mới chiến thắng những đế quốc siêu cường cả về vũ khí cả về sự dã man!
Đặc trưng của không gian sử thi là không gian con đường đông đúc, chật chội, con đường “ta đi đánh giặc”. Trong không gian này lại mang một đặc điểm là tất cả như hòa lẫn vào nhau, con người lẫn vào thiên nhiên, người lẫn vào thác, người lẫn vào rừng, rừng lẫn vào súng đạn... Không chỉ con người đi đánh giặc mà cả không gian đi đánh giặc. Điều này càng tăng cường chất sử thi, đẩy hình tượng văn học luôn vượt lên trên cái bình thường để trở thành cái phi thường.
Con người yêu nước có văn hóa trước hết là con người không được quên đi quá khứ của dân tộc mình. Một quá khứ cực kỳ cao cả, đẹp đẽ, hào hùng như thời cả nước lên đường ấy càng phải được làm sống lại trong mỗi con tim người Việt hôm nay. Văn học của chúng ta đã góp phần làm tốt nhiệm vụ cao cả đó. Cả dân tộc phải đổ máu để giành lại độc lập tự do trong các cuộc kháng chiến vĩ đại. Có bà mẹ hy sinh cả chín mười người con cho sự nghiệp cứu nước. Kẻ thù đổ xuống dải đất thân yêu này hàng tỷ tấn vũ khí, giết hại hàng triệu dân thường, đốt phá hàng trăm nghìn làng mạc… Đây không phải là “một cuộc chiến tranh lạnh đầy thù địch” như có nhận định thiếu thiện ý mà là những cuộc chiến tranh tự vệ của một dân tộc khát khao có hoà bình, trân trọng con người, yêu tự do, không chịu nhục hèn chống lại bè lũ xâm lăng. Thế mà có ý kiến hàm hồ cho rằng cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại ấy là “cuộc chiến ý thức hệ”, “phi văn hoá”. Đây là sự cố tình lộn sòng các giá trị, đảo ngược các quan niệm, gây ra sự hiểu lầm về bản chất của những cuộc chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Chúng ta phải có một quan niệm rõ ràng: đối với kẻ xâm lược, cuộc chiến tranh ở Việt Nam đúng là “phi văn hoá” vì chúng là những kẻ giết người mang tội danh diệt chủng. Cho đến hôm nay vẫn có bao những em bé bị què quặt yếu ớt không mang dạng người bình thường vì bị mang di chứng chất độc màu da cam. Kẻ rải chất độc chết người ấy xuống những cánh rừng nguyên sinh, xuống những làng mạc bình yên là “văn hoá” hay “phản văn hoá”? Đối với nhân dân Việt Nam thì đó là cuộc chiến cực kỳ có văn hóa, vì đó là cuộc chiến tranh bảo vệ con người, bảo vệ lẽ phải, chính nghĩa!
Đã có nhiều lý giải về nguyên nhân vì sao có chất sử thi đậm đà trong văn học Việt Nam 1945 - 1975. Có người cho rằng thời đó văn học phải phục vụ chính trị nên nhiệm vụ của văn học là miêu tả đời sống chiến đấu anh hùng. Các nhà văn chỉ làm nhiệm vụ “minh hoạ” chân thật hiện thực. Đấy chỉ là căn cứ bên ngoài, bề nổi. Có lẽ cần cắt nghĩa vấn đề ở những nguyên nhân sâu xa hơn, ở góc độ tính cách tâm lý dân tộc và tiếp biến văn hoá.
Tính cách người Việt luôn hướng tới cái trong sáng, cái cao cả, chết trong còn hơn sống đục. Dù có đang sống nơi giàu sang nhưng vẫn hướng về quê nhà, không đâu bằng quê nhà có thể là nghèo nhưng trong sáng êm đềm: Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. Con cò trong ca dao là biểu trưng cho người nông dân Việt dù chẳng may chịu cảnh sa cơ lỡ bước, dù có chịu chết nhưng vẫn hướng tới sự trong sạch: ... Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Tính cách này rất phù hợp với đặc điểm tôn thờ, ngưỡng vọng cái cao cả của sử thi.
Tiểu thuyết là một thể loại non trẻ trong gia đình văn học Việt Nam, do vậy không thể đòi hỏi nó có ngay một hệ thi pháp già dặn, vững vàng. Mà đã gọi là trẻ thì luôn có xu hướng hấp thu cái đi trước, cái mới. Cái đi trước ở đây là nói tới tư duy sử thi, cụ thể là sử thi phương Đông. Sử thi phương Đông luôn tôn thờ, nhấn mạnh những phẩm chất cao cả, nhất là trong sử thi Ấn Độ. Sử thi Ấn Độ vừa miêu tả chiến tranh vừa rất coi trọng miêu tả sự xung đột giữa cái thiện và cái ác, giữa đạo lý và phi đạo lý. Tinh thần Ấn Độ ảnh hưởng đến các nước Đông Nam Á trước Công nguyên đi cùng với con đường truyền bá đạo Phật. Tư tưởng Phật giáo cũng hướng tới sự cao cả, thánh thiện. Biểu tượng Đức Phật nghìn tay nghìn mắt là một hình ảnh rõ nhất, tập trung nhất về khát vọng cao cả nhìn thấu bốn cõi (nghìn mắt) để thấy sự đau khổ trầm luân của chúng sinh mà ra tay (nghìn tay) cứu độ. Nhờ có những nét tương đồng mà tinh thần Phật giáo đã nhanh chóng hoà nhập, ăn sâu rồi trở thành quốc giáo một thời gian dài ở đất nước Đại Việt.
Như vậy tính chất sử thi luôn là một đặc tính, thuộc tính của văn học Việt Nam từ trước tới nay và mãi về sau. Chỉ nên phát triển nó, phát huy nó chứ không thể và cũng không phủ nhận được nó. Những ai “dị ứng” với văn học sử thi cần nên có một suy nghĩ khác.
Cái mới ở đây là sự hấp thu từ văn học Nga Xôviết. Trước 1975 cửa ngõ quan hệ của chúng ta hầu như chỉ mở thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mà Liên Xô là chủ yếu. Các tác phẩm sử thi của Liên Xô vĩ đại được in với số lượng rất lớn đến tay bạn đọc Việt Nam: Số phận con người (Sôlôkhốp), Tuyết bỏng, Bến bờ, Lựa chọn (Bônđarep), Gắng sống đến bình minh, Bia mộ (Bưcốp), Sống mà nhớ lấy (Raputin), và không thể thiếu những bộ tiểu thuyết sử thi kinh điển: Chiến tranh và hoà bình, Sông Đông êm đềm... Đấy là chưa nói tới ảnh hưởng văn hoá phim ảnh.
Sau ngày giải phóng, nhất là sau Đổi Mới (1986) nước ta mở cửa “làm bạn” với tất cả các nước trên thế giới. Tầm mắt của các nhà văn dõi nhìn về nhiều những chân trời văn học khác nhau. Văn học ta được đón những luồng gió thi pháp trên khắp thế giới thổi tới làm phong phú đa dạng thêm rất nhiều bức tranh vốn đơn sắc. Trở thành đa sắc thì có nghĩa là muôn hình nhiều vẻ, do vậy khó nhận dạng, khó nắm bắt. Có cái cũ trở nên lỗi thời nhưng cũng có cái cũ trở thành cổ điển. Có cái mới nhập tịch được công nhận nhưng cũng có cái mới đưa vào gượng ép thành ra sống sượng...
Đất nước sạch bóng ngoại xâm, cả nước bước vào thời kỳ mới và bắt đầu phải đối phó với bao nỗi khó khăn ngổn ngang phức tạp của thời bình. Có thể coi những năm từ 1975 đến 1985 là thời kỳ văn học diễn ra sự đổi thay ở chiều sâu với những trăn trở vật vã tìm tòi thì từ năm 1986 đến 1992 là thời kỳ đổi mới diễn ra rõ rệt trong đời sống văn học mà biểu hiện cụ thể là hàng loạt những tác phẩm gây xôn xao dư luận bởi những cách viết mới về những vấn đề mới: Thời xa vắng (1986), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Thân phận của tình yêu (1990), Bến không chồng (1990), Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990), Ăn mày dĩ vãng (1992)... Tiểu thuyết sử thi cũng nằm trong mạch vận động chung ấy của văn học nhưng do đặc trưng thể loại mà sự biểu hiện cách tân lại mang những sắc thái riêng. Những bộ tiểu thuyết như Đất trắng (1979, 1984), Đất miền Đông (1984 1985), Người cùng quê (1985), Mảnh đất tình yêu (1987), Chim én bay (1988), Ông cố vấn (1988), Ăn mày dĩ vãng (1992)... là những tác phẩm thể hiện rõ hơn cả những dấu hiệu tìm tòi đổi mới của thể loại. Cảm hứng sử thi vẫn là cảm hứng chủ đạo nhưng nó không còn địa vị độc tôn mà xen vào đó là những “tạp âm”, rõ hơn cả là cảm hứng bi kịch. Độ lùi thời gian cho phép nhà tiểu thuyết nhìn về chiến tranh bằng nhiều góc độ khác nhau. Lúc này đã cho phép họ không né tránh những tổn thất, mất mát, hy sinh, đầu hàng, phản bội... Đó là những điều thường có trong chiến tranh. Vấn đề là nhà văn viết với thái độ nào, tâm thế nào. Với cảm hứng bi kịch về một hiện thực dữ dội khốc liệt, Đất trắng đã miêu tả một hiện thực chiến tranh như nó vốn có, hết sức trung thực hầu như không tô vẽ, thêm bớt giúp bạn đọc có cái nhìn sâu hơn, thật hơn về chiến tranh như sự hy sinh mất mát quá lớn hay sự phản bội đầu hàng không thể ngờ (Tám Hàn là một chỉ huy cấp cao mà vẫn ra “chiêu hồi” địch). Nhưng khi đọc xong người đọc không thấy sự bi quan, phủ nhận chiến tranh từ phía tác giả, chỉ thấy một sự thật về chiến tranh để rồi thêm kính trọng những người đã ngã xuống, những người đã đi ra từ bom đạn, nhờ họ mới có những ngày hòa bình hôm nay.
Cùng với khuynh hướng tái hiện sự khốc liệt của hiện thực, tiểu thuyết bắt đầu chú ý đến những mối quan hệ phức tạp giằng xé giữa con người với con người, con người với đời sống. Vượt qua cái đơn giản một chiều, tác phẩm đã miêu tả kẻ thù như những con người.Trước đó kẻ thù được miêu tả như thú vật toàn những nét xấu, tính xấu, thì nay được đưa về đúng với cấu trúc hiện thực. Đọc Ông cố vấn - Hồ sơ một điệp viên (Hữu Mai) càng thấy loại nhân vật cao cấp trong ngụy quân cực kỳ giảo hoạt, thâm thúy, sâu sắc... Đọc Tư Thiên (Xuân Thiều) được biết kẻ thù quá nham hiểm... Sự đổi mới này làm nổi bật sự thật tàn bạo của chiến tranh, chân dung người lính cách mạng cũng rạng ngời hơn với những phẩm chất đặc biệt: thông minh, dũng cảm, một lòng yêu nước vô bờ... Nhất là cho bạn đọc trẻ hôm nay hiểu cái giá bằng máu phải trả cho chiến thắng giành độc lập tự do...
Chưa bao giờ có hiện tượng một tác phẩm văn học hiện đại chia đôi hai thế giới độc giả: những người ủng hộ hết lòng và những người chê hết mức, cho đến khi xuất hiện Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Xét theo đặc trưng thể loại tác phẩm này không phải là tiểu thuyết sử thi, nó chỉ là một tiểu thuyết viết về chiến tranh. Có nhiều căn cứ để đánh giá Bảo Ninh chịu ảnh hưởng từ lối viết của Erich Maria Remarque, nhà văn Đức gốc Do Thái trong Phía Tây không có gì lạ. Chúng ta thừa nhận tài năng của tác giả thể hiện ở phương diện đổi mới cách viết, kỹ thuật viết. Về mặt này tác phẩm xứng đáng được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991. Ngoài sự cách tân ở hình thức biểu hiện tiểu thuyết hấp dẫn ở chỗ đưa ra một cái nhìn mới về chiến tranh. Trước đó, về cơ bản cái nhìn của văn học Việt Nam về chiến tranh là cái nhìn một chiều, cái nhìn sử thi. Đến Nỗi buồn chiến tranh thì xuất hiện cái nhìn ngược lại, cái nhìn phản sử thi. Mà trong quy luật tiếp nhận, có một cái nhìn mới lạ bao giờ cũng gây sự chú ý, người quan tâm đến vấn đề đổi mới cách viết thì ủng hộ, người hay chú ý đến nội dung viết về cái gì thì phản đối. Cho nên tác phẩm tạo ra những dư luận trái chiều, phân hóa trong giới bạn đọc là điều dễ hiểu. Với cảm hứng bi kịch tàn nhẫn nhà văn nhìn về chiến tranh chỉ thấy sự tàn bạo, chỉ thấy những “nỗi buồn”, chết chóc, bi quan, không nhìn thấy đó là cuộc chiến tranh gì, với mục đích gì. Đó là hạn chế rõ nhất về tính tư tưởng của tác phẩm.
Có thể hình dung về quá trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt Nam từ 1945 đến nay như một dao động hình sin, điểm bắt đầu là Xung kích, Con trâu, Vùng mỏ..., lên cao với Đất nước đứng lên và cực đại là Dấu chân người lính... rồi đi xuống đến cực tiểu là Nỗi buồn chiến tranh... và đi lên với Đất trắng, Chim én bay, Ăn mày dĩ vãng, Ngày rất dài, Những bức tường lửa, Thượng Đức, Xiêng Khoảng mù sương, Xuân Lộc, Tiếng khóc của nàng Út, Đối chiến, Đỉnh máu... Sự hình dung này chỉ căn cứ vào tính chất thể loại xem xét chất sử thi đậm nhạt khác nhau chứ không hề căn cứ vào giá trị của tác phẩm, có khi tác phẩm nằm ở vùng cực đại chưa hẳn có giá trị hơn tác phẩm nằm ở vùng cực tiểu của hình sin.
Các tiểu thuyết sử thi ở khoảng giao thời giữa hai thế kỷ, ngoài cảm hứng sử thi là chủ đạo còn được kết hợp với cảm hứng hiện thực tỉnh táo và cảm hứng nhân văn. Tiểu thuyết 1945 - 1975 miêu tả nhân vật sử thi đẹp một cách lý tưởng với những phẩm chất cao cả nên đã tạo ra một “khoảng cách sử thi” giữa nhân vật với đời thường, tất nhiên với cả bạn đọc. Phải nhìn nhận vấn đề này theo cái nhìn của biện chứng lịch sử: thời đó do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị mà nhà tiểu thuyết xây dựng nhân vật như vậy để đáp ứng đòi hỏi của thời đại. Trong tiểu thuyết sử thi hôm nay cấu trúc hình tượng nhân vật được nhận thức lại, trả về với vị thế đúng như nó vốn có, phức tạp, đa dạng, đa diện hơn. Quan niệm đã là tập thể cách mạng, con người cách mạng thì không có ai xấu, cái xấu thì nay được miêu tả khác, tập thể anh hùng cũng không thiếu những kẻ đào ngũ, cơ hội, cũng có những sai lầm nghiêm trọng do suy nghĩ ấu trĩ, giản đơn (Những bức tường lửa, Thượng Đức), nhân vật người anh hùng có khi lại có một lý lịch không trong sạch (Khúc bi tráng cuối cùng), có tính cách không mấy tốt đẹp (Những bức tường lửa), bồng bột, chủ quan khinh địch (Thượng Đức), đố kỵ, háo danh (Xiêng Khoảng mù sương)... Trước năm 1975 các nhà văn có xu hướng đẩy nhân vật vào miền “không khí vô trùng” nên nhân vật đẹp quá, lý tưởng quá, gần với người trời mà xa với người đời. Rất không nên phê phán đây là căn bệnh minh họa, ở thời ấy thì phải có những nhân vật ấy. Cái thời con người sống với nhau trong vắt thì có những nhân vật như Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu là đúng thời. Nhưng hôm nay thì phải khác. Người lính trong tiểu thuyết đã được giải phóng ra khỏi công thức “người trời” hôm qua để trở về với đúng nghĩa con người bình thường, người đời, nhờ vậy mà nhân vật thật hơn, sinh động hơn.
Tiểu thuyết hôm nay có cái nhìn khác, cởi mở và nhân ái hơn với hình tượng nhân vật kẻ thù. Nhân vật thiếu tá Hồng Nhị (Ngày rất dài), tướng Phạm Ngọc Tuấn (Khúc bi tráng cuối cùng), trung tá Nguyễn Quốc Hùng (Thượng Đức)... là những kẻ có lý tưởng, có học thức, có tài năng, mẫn cán, nhiệt tình, giàu lòng tự trọng, không sa đọa trác táng, luôn sống hết mình với một cá tính mạnh. Loại nhân vật này đã được quan niệm như là một con người tốt đúng nghĩa. Xin lấy dẫn chứng cụ thể từ tiểu thuyết gần đây của Khuất Quang Thuỵ, có tên Đối chiến. Đây là tâm trạng của đại tá Sơn Đường - lữ đoàn trường lữ đoàn thiết kỵ nguỵ: “Con người ta quý nhất là được là chính mình, được mọi người kính trọng vì chính những gì mình có chứ đâu phải vì quyền uy, vì những bông mai trên ve áo hay cây gậy chỉ huy. Tui nghĩ kỹ rồi. Vài bữa nữa về sư đoàn tôi sẽ chính thức đệ đơn xin từ chức...”. Ngày nay người ta nói nhiều về chuyện cán bộ ta thiếu cái văn hoá từ chức, thế mà văn hoá này lại đã có từ một sĩ quan nguỵ quyền của chế độ cũ!? Nói thế không có gì là hàm ý so sánh nhưng để thấy nhân vật kẻ thù trước năm 1975 đều được quan niệm vật hoá thì nay được nhìn nhận lại như những con người có nhân tính, có lương tâm và trách nhiệm. Đấy chính là cái nhìn hoà giải, hoà hợp, cái nhìn độ lượng nhân ái của những người chiến thắng!
Có những tác phẩm lấy cảm hứng từ văn hoá dân gian, mà tiêu biểu là các tác phẩm của Nguyễn Chí Trung và Trung Trung Đỉnh. Vượt lên trên sự mô tả chiến tranh đơn thuần Tiếng khóc của nàng Út (Nguyễn Chí Trung) có xu hướng lý giải sự thắng thua trong chiến tranh bằng chiều sâu văn hóa hơn là những câu chuyện giặc tàn ác, phi nhân, ta dũng cảm, chính nghĩa đã quen thuộc. Huyền thoại về xứ Bàu Ốc qua lời kể của nhân vật bà On nằm ngay ở phần đầu tác phẩm: “Những người dân Việt đến Bàu Ốc đích thực vào năm nào, tháng nào, ngày nào, không ai biết thực rõ. Chỉ nghe truyền miệng…”. Cứ thế, các huyền thoại hiện dần lên vừa linh thiêng vừa huyền bí, xa xăm: “Ngày đi mở đất của ông cha còn đào thấy những bãi sỏi rộng và dài…”. Lời kể quay về quá khứ làm sống lại lịch sử các vùng đất và đặc điểm tập quán của các bộ tộc Ê Đê, Xơ Đăng, Chăm Roi…. Rồi chuyện đi lấy Nước Thần, Nước Xu Đỏ của đồng bào: “Năm nào? Hồi đó, không ai nói năm… Hừ! Đi cả dân tộc Kor, dân tộc Ca Dong, dân tộc Cơ Tu, dân tộc Xơ Đăng, dân tộc Ba Na… Người dài như kiến kéo nhau đi tìm mồi, nhiều như lau lách…”. Dĩ nhiên không chỉ kể để mà kể, những câu chuyện ấy có quan hệ chặt chẽ với chủ đề chung của tiểu thuyết. Được nghe những câu chuyện ấy, bạn đọc càng rõ hơn rằng cuộc kháng chiến thần thánh của đại gia đình các dân tộc Việt Nam không chỉ là tổng hợp sức mạnh cách mạng của ngày hôm nay mà còn có cả sức mạnh của chiều sâu văn hóa.
Có thể coi Trung Trung Đỉnh là nhà văn của Tây Nguyên. Anh như con ong chăm chỉ hút mật nguồn từ nền văn hoá các dân tộc nơi cao nguyên nhiều nắng và nhiều gió để cho ra đời những tiểu thuyết vừa nồng mùi khói súng vừa lóng lánh những sắc màu phong tục rất riêng về vùng đất của sử thi vĩ đại. Lạc rừng có thể gọi là một tiểu thuyết sử thi - văn hóa vì mượn cái nền chiến tranh để khai mở các trầm tích văn hóa của vùng đất Tây Nguyên vốn đã giàu có trữ lượng “phôn cơ lo” dân gian cổ xưa. Những âm vang của văn hóa núi rừng không chỉ vọng vào tâm hồn nhân vật mà còn vọng vào lòng độc giả hôm nay. Ngược chiều cái chết và Lạc rừng luôn được cấu trúc song hành của hai không gian, chiến tranh và văn hoá dân gian. Người kể chuyện thường ở ngôi thứ nhất cũng luôn ở hai tư cách, là người miền Bắc nhưng lại là con nuôi hoặc sống với gia đình, bạn bè đồng chí Tây Nguyên. Tư cách lưỡng hoá này đã bảo đảm cho lối kể chuyện vừa thật vừa mới mẻ, lạ lẫm cuốn hút người đọc. Một Tây Nguyên anh dũng quật cường, một Tây Nguyên đậm đà bản sắc hiện lên trong tác phẩm như một sự cắt nghĩa: con người ta không chỉ xả thân mình để giành độc lập tự do cho ngày hôm nay mà còn vì cả một nền văn hóa đã ăn sâu vào máu thịt. Để rồi nếu có kẻ thù nào đến xâm lược, như một lẽ của bản năng tự nhiên, mỗi người dân đều có thể sẵn sàng hy sinh để giữ gìn non nước này, văn hóa này.
Các nhà văn Bùi Bình Thi với Xiêng Khoảng mù sương, Bùi Thanh Minh với Sào huyệt cuối cùng, Phạm Quang Đẩu với Một ngày là mười năm, Nguyễn Quốc Trung với Đất không đổi màu... theo hướng này đã đưa vào tác phẩm những không gian văn hoá lạ của hai nước bạn Lào và Cămpuchia tạo ra một sự mời gọi hấp dẫn riêng. Các tác phẩm đều hướng tới một chủ đề phổ quát: dưới cái bề nổi của không gian chiến tranh là một không gian của những xung đột văn hóa, rõ hơn là xung đột giữa một bên là văn hóa và một bên là phản văn hóa. Sức mạnh văn hóa là sức mạnh chính nghĩa được tích tụ từ ngàn đời nên bao giờ cũng chiến thắng.
Từ những hiện tượng cụ thể này có thể nêu ra một khuyến nghị: các nhà tiểu thuyết sử thi khi đào sâu vào các tầng vỉa văn hóa, lấy văn hóa làm chất liệu sáng tạo, thì ít nhiều đều tạo ra được ấn tượng nơi người đọc.
Tiếp nối những thành tựu đã có, bước sang thế kỷ XXI tiểu thuyết sử thi chuyển sang hướng phân tích đào sâu vào hiện thực (chiến tranh) và cắt nghĩa, lý giải những biểu hiện tâm trạng (con người). Với lối viết trực diện mà tỉnh táo Phượng hoàng (Văn Lê) cho thấy cuộc kháng chiến chống Mỹ thật vô cùng gian nan và anh hùng. Chúng ta chiến thắng kẻ thù bằng một thứ vũ khí tinh thần mà chỉ chúng ta có, ngoài đạo lý (yêu nước), công lý (chính nghĩa) còn là phẩm hạnh con người. Phẩm hạnh không chỉ là gan dạ, thông minh, trung thực, quyết tâm, táo bạo... mà có khi chỉ là một nỗi niềm trắc ẩn rất tình người, tình đời nằm sâu trong trái tim người lính. Mặc dù theo hướng phân tích nhưng vẫn trung thành với phong cách bạo liệt mà trữ tình đã trở thành riêng biệt mà quen thuộc, Chu Lai trong Mưa đỏ đã đẩy ngòi bút lách sâu, nhập thân vào nhân vật, gọi ra ở nhân vật những trăn trở, dằn vặt rất con người không chỉ ở phía ta mà cả ở phía địch. Để cho bạn đọc thấy, thì ra đã là người Việt ai cũng đều máu đỏ chung dòng giống. Câu chữ khép lại còn ý nghĩa thì mở ra: hãy cùng yêu thương nhau, cùng yêu hòa bình, cùng nhau gắn nối và gắn kết để dân tộc này mãi mãi trường tồn, đất nước này mạnh mẽ, giàu có...
Với tinh thần tiên phong, so với các thể loại khác tiểu thuyết sử thi đã có những đổi mới sớm hơn cả. Đầu thời kỳ đổi mới, nó như tiếng hót của đàn chim báo hiệu một mùa xuân mới mẻ sắp về. Đến hôm nay nó tiếp tục gánh vác trọng trách là cây cột chống cường tráng của ngôi nhà văn học cách mạng. Từ góc nhìn thể loại sẽ cho thấy đây là một thể tài năng động, linh hoạt, như một cỗ xe tăng xung kích gạt bỏ những công sự trì trệ bảo thủ, mở đường cho các thể tài khác chiếm lĩnh, khai phá những miền đất thẩm mỹ mới.
Như vậy quy luật vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết sử thi luôn gắn liền với những biến động và thay đổi của lịch sử. Có thể lý giải điều này ở mấy góc độ như đặc điểm thể loại, chủ thể sáng tạo (nhà văn), không khí sáng tác, bạn đọc. Nhìn vào bức tranh toàn cảnh của văn học về đề tài chiến tranh cách mạng từ 1945 đến nay chúng ta dễ thấy không khí sáng tác (bối cảnh xã hội) đóng vai trò rất quan trọng. Đây chính là yếu tố then chốt chi phối cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ. Nước Nga phải đợi gần nửa thế kỷ sau chiến tranh mới gọi được cảm hứng cho “con sư tử của văn học Nga” là L. Tônxtôi viết sử thi Chiến tranh và hoà bình bất hủ. Không khí Đổi Mới của xã hội ta hôm nay đã và đang gặt hái nhiều thắng lợi, hứa hẹn những triển vọng đầy lạc quan. Tất cả những điều ấy phả vào chủ thể nhà văn kích thích họ sáng tạo ra những tác phẩm sử thi mới vừa mang âm hưởng hào hùng của ngày hôm qua vừa có không khí sống động của hôm nay. Từ những chứng cứ trên cho phép chúng ta hy vọng: tiểu thuyết sử thi Việt Nam đang có những dấu hiệu khởi sắc, hứa hẹn những thành quả mới trong một tương lai gần.