Bình bát là một loại cây, mọc hoang, ngoài trái chín dầm đường làm món ăn vặt cho bọn trẻ con ở nông thôn như tôi thuở nhỏ với vị ngọt thanh, thì trái này còn chứa vitamin C giúp chống gốc tự do gây lão hóa sớm; vitamin A giúp da và tóc khỏe, hỗ trợ thị lực; vitamin B6, magnesium, potassium, chất xơ tốt cho hệ tim mạch, hệ tiêu hóa, có tác dụng lợi tiểu và giảm trầm cảm; có tính giảm co thắt, giảm a xít tại các khớp xương. Các thông tin này, tôi vừa “sớt” trên mạng.
Tôi phải diễn giải một chút như thế để thấy rằng, nếu gọi là quả bình bát thì như cô gái nông thôn mặc áo bà ba dịu dàng mà mang giày “xăng-đan” vậy! Rất khó nhìn vì không cân xứng. Thì thôi, quê mùa, cứ trái bình bát mà gọi theo đúng tên cúng cơm của nó vậy.
Cây bình bát hình như không có mùa ra bông đậu trái cố định; vì khi bình bát mọc sát mép nước, đủ cho cây “uống” thì gần như bình bát có trái quanh năm. Đối với vùng nào đất hơi thấp và trũng, thì bình bát có trái bốn mùa.
Cái hồi tôi còn nhỏ xíu, lâu lâu có vài trái bình bát chín ngoài bờ mương sát mép nhà, hay cha đi ruộng về, thường cũng có một vài trái bình bát chín hườm hườm làm quà cho con gái út. Thế là hai ngày sau tôi đã có món bình bát dầm đường. Thỉnh thoảng có xuồng bán nước đá đi ngang, xin mẹ năm trăm đồng mua nước đá đập nhuyễn cho vào hỗn hợp bình bát dầm đường. Nói thiệt, cái hồi đó, có được món ăn vặt giữa vùng nông thôn chưa khởi sắc như vậy, cũng đã vui lắm rồi.
Trái bình bát, có khi vừa hườm hườm tôi đã hái đem vào khạp gạo để “dú”2 cho mau chín rục; còn không thì trái bình bát chín vàng đậm một chút sẽ rụng xuống mép đất dưới thân cây, hoặc trái nào “de” ra xa ngoài mép nước, sẽ rụng xuống sông hoặc ao hồ. Lúc đó thì chỉ còn biết tiếc “hùi hụi”. Riêng trái bình bát nào rụng trên mép đất thì cũng cần chút lưu ý nhỏ như sau: Trái nào rụng còn nguyên cùi thì không phải bàn; trái nào rụng mà cùi đã rơi ra và trái nào phía bên trong cùi như có nước rỉ ra thì đừng nên tiếc, cứ thảy xuống hồ cho cá tra ăn nếu không, ăn vào sẽ đau bụng, vì trái bình bát đó rụng đã lâu, đã bị ôi thiu rồi. Cá tra là loại rất ưa bình bát chín. Hồi đó, mỗi khi muốn bắt cá tra lên ăn, cha hoặc anh trai tôi thường móc lưỡi câu to và sâu vào trái bình bát, cứ như thế cho “mồi” xuống ao; không quá lâu, chỉ tầm mươi đến mười lăm phút sau, khi thấy chỗ nào dưới ao mà đuôi cá quẫy mạnh, nước hơi bắn lên một chút là cá tra đã mắc câu rồi.
2. Dấm.
Cách đây vài năm, khi nhóc nhà tôi còn nhỏ, tầm tuổi tôi lúc ở quê. Khi đi chợ, thấy mấy bà mấy cô ở quê mang dăm trái bình bát ra bán, ký ức cứ chảy tràn cảm xúc trong tôi. Muốn con tôi quay về miền ấu thơ của mẹ, tôi mua mấy trái bình bát mang về, dầm đường, đập nhuyễn nước đá để vào, giống y chang món tôi từng “mê” thuở nhỏ; vậy mà, chỉ mút vài ba muỗng, thằng nhóc con ngây thơ nói: “Mẹ ơi con không thích món này!”. Nghe con nói mà tôi thương tuổi ấu thơ mình đến chảy tràn nước mắt. Cầm cái ly thật to từ tay con đưa lại, tôi muốn nói với con rằng: Từ những trái bình bát dầm đường này mà mẹ đã lớn lên... Nhưng tôi kịp dừng lại. Mỗi thời điểm đều có tính “lịch sử” của nó; bây giờ, hơn ba mươi năm đã đi qua, làm sao tôi có thể buộc trẻ con hôm nay quay lại đời sống cũ với những nghèo khó như thế được?
Tôi không có ước muốn nào cao sang cho những trang viết của mình hết. Với tôi đơn giản chỉ là ghi chép lại miền ký ức thơ dại, để sau này, khi già hơn chút nữa, về lại quê, mỗi gốc cây ngọn cỏ, mỗi vật dụng xưa cũ trong gia đình thời đó còn sót lại, khi tay tôi chạm vào, tôi đều tự hào để nói với con cháu rằng: Cái lúc “bà” bằng tuổi con bây giờ... như thế này, thế này nè...
Ký ức trong vắt thế đó, đố ai đã đi qua mà dám quay lưng?
Vừa mới hôm qua thôi, khi tôi có việc về lại quê, ngay mép nước chỗ giao lộ giao thông nông thôn để bước xuống xuồng, có mấy cây bình bát đang xòe tán rộng, đang sum suê ra trái. Tôi mở điện thoại ra chụp hình, chụp lấy chụp để; như chỉ vài ba phút sau, nếu không chụp nhanh, cây bình bát sẽ biến mất vậy.
Cảm ơn buổi chiều hôm qua đã cho tôi trở về để trái bình bát dắt tôi đi dọc lại miền thơ ấu của mình!