Cái cối xay bột của bà nội có từ hồi nào thì tôi không rõ, chỉ biết rằng khi tôi lớn lên, đã thấy nó có sẵn ở góc bộ ván cũ rồi. Hiện tại, cái cối xay bột đó vẫn còn. Sau khi bà nội tôi mất, những vật dụng rất cũ kỹ mà còn dùng được, có món cô tôi giữ lại làm kỷ niệm, có món cô tôi cho chị dâu lớn của tôi “tiếp quản”. Và cái cối xay bột của bà nội, hiện nay chị dâu tôi cũng để trên bộ ván như hồi bà tôi còn sống, chỉ khác một chút, nó được “di chuyển” từ căn nhà rất cũ của bà tôi sang căn nhà hơi cũ mà cha tôi để lại, hai nhà chỉ cách nhau một con mương, giống như đa phần các gia đình ở miền Tây này, nhà con cháu cách nhà ông bà, cha mẹ một con mương nhỏ. Bây giờ nhìn lại, nó như nếp văn hóa trầm tích của đồng đất miệt này. Nghĩ lại cũng rất hay; vì chỉ một thời gian sau thôi, biết đâu những ngôi nhà con cháu cách nhà ông bà, cha mẹ chỉ một con mương nhỏ như thế này cũng sẽ trở thành dĩ vãng... Và rất thật lòng, không bao giờ tôi mong điều đó xảy ra, để cho tâm hồn mình bị khuyết đi một phần ký ức sống động đến lạ thường đó...
Cái cối xay bột bằng đá này, cũng góp phần nuôi lớn ấu thơ của anh em tôi bằng các món bánh từ bàn tay của bà, của mẹ. Ở ruộng đồng quanh năm suốt tháng, lâu lâu được bà hoặc mẹ ngâm gạo thì mấy anh em tôi loi nhoi lên đợi. Mà đâu đơn giản như bây giờ, nhà nào muốn làm bánh, cứ chạy ù ra chợ hoặc cửa hàng tạp hóa gần nhà, lúc nào cũng có bán bột sẵn, hoặc bột đã đóng gói chuyên dùng cho từng món bánh, hoặc bột gạo, bột nếp phơi khô thủ công, mua về rồi nhào nặn; nói vậy để biết rằng, bánh bây giờ, dù tự làm tại nhà, cũng “lược” mất công đoạn ngâm gạo, xay bột rồi, nhanh và tiện lợi hơn xưa rất nhiều.
Bà nội tôi hồi còn ở Bến Tre, trước năm 50 của thế kỷ trước, bà làm phụ bếp cho nhà hàng của Pháp, nên các món ăn nói chung và các món bánh nói riêng, bà tôi rất khéo léo và có chút cầu kỳ. Ngâm gạo tẻ làm các món bánh khác thì bà tôi ít kỳ công hơn, còn ngâm gạo nếp để làm bánh ít, nấu chè trôi nước thì bà tôi rất vất vả; bởi trước đó vài ngày, bà tôi phải đón xuồng bán hàng đi ngang để mua bằng được mấy trái khóm (thơm); bà tôi băm khóm thật nhuyễn rồi vắt lấy nước cho gạo nếp đã vo sạch bụi cám vào ngâm; cốt để cho bột sau khi xay thơm, trong và dai hơn. Nhưng từ lúc ngâm gạo nếp đến khi xay, ít nhất phải một đến hai ngày.
Cũng như cái cối xay bột của bà tôi, khi bà Mười Xiềm - nghệ nhân chiên bánh xèo nổi tiếng ở miền Tây, khi được mời sang Mỹ “biểu diễn làm bánh”, bà phải mang cả cái cối xay bột đi theo. Nói thật, những ai biết một chút chuyện bếp núc, ăn uống, làm bánh; thì cũng quá biết một điều, bánh xèo được chiên từ bột gạo xay bằng cối đá thì khi chiên lên, bề ngoài (lớp vỏ bánh) có mặt rỗ đều, vừa giòn, vừa xốp, khi ăn vào, cảm giác như bột giòn rụm trong miệng. Ngon phải biết! Hồi tôi hơi lớn một chút, mẹ tôi cứ kể hoài câu chuyện về bà nội tôi. Bà nội tôi rất thảo thơm và hiếu khách, mỗi khi sắp đến ngày kỵ cơm của ông nội tôi, bà thường ngâm gạo nếp rất nhiều để xay bột làm bánh ít, thường thì bà tôi làm đến năm bảy trăm cái; trước để cúng kiếng, đãi khách, sau làm quà biếu bà con, láng giềng cho thêm tình, thêm nghĩa. Vì bà nội tôi sống một mình ở quê, gần đó, cách một con mương nhỏ, như tôi đã kể trên, là nhà của cha mẹ tôi. Khuya, trước tiên thường hai ngày, bà kêu mẹ tôi sang cùng bà xay bột, vì số lượng gạo nếp nhiều, mẹ chồng con dâu cùng xay cho “nhẹ tay” bớt. Mẹ tôi kể, khi sang, mẹ tôi xả gạo nếp ngâm khóm, xả mấy lần nước rồi mới cho nước mưa trong vắt vào mới bắt đầu xay bột. Trong khi đó, bà nội tôi chịu phần gắn “bồng bột” vào cối. Trời khuya, đèn dầu tù mù, bà tôi lớn tuổi, độ tinh anh của mắt đã kém đi; bà “cột” bồng bột vào cối xay ra sao không biết, cứ thế, mẹ chồng nàng dâu từ tốn xay bột, đến khi rõ mặt người, dưới đất một màu sáng choang của bột. Lúc này kiểm tra lại mới hay, phía dưới bồng bột bị hở, bột xay, thay vì chảy xuống bồng bột, đằng này chảy lênh láng xuống nền đất. Thế là năm đó cúng giỗ ông nội tôi, bà tôi thay thế bánh ít bằng các món bánh khác. Ký ức này đã quá cũ, nhưng mỗi khi nhớ, trong tôi lại dạt dào cảm xúc. Thương bà, thương mẹ vất vả mà không thu được “thành quả lao động”.
Trong số rất nhiều loại bánh bà nội làm, tôi thích nhất là bánh cam bánh còng; vì hai loại này không quá tốn sức của bà. Thêm nữa, nhớ có lần bà tôi xay bột làm bánh còng, ngay thời điểm cái răng sữa sắp thay, trong khi tôi rất sợ nhổ răng, chỉ là cha hoặc mẹ tôi tự nhổ tại nhà, chứ ở quê mà, đâu có nha sĩ để đi như trẻ con bây giờ, mỗi cây răng nào cũng đòi được nha sĩ “ra tay”. Bà ngưng xay bột, kêu tôi lại há miệng cho bà kiểm tra răng, sau khi thấy răng tôi đã “hơi muồi”, bà nói để bà cột chỉ vào tay cối xay, bà xay một vòng là răng sữa của tôi rớt ra thôi, không chảy máu, không đau. Nghe bà “dụ dỗ” rất êm tai, thế là tôi đồng ý. Đúng như bà đã nói, chỉ cần một vòng quay, chiếc răng sữa của tôi đã rụng, kèm theo ít máu và không đau chút nào cả. Có thể khi đó tôi cũng đau, nhưng nghĩ đến những cái bánh còng sắp được bà chiên sau khi xay bột xong, tôi thèm quá nên quên béng đau đi mất cũng nên!
Hôm rồi, khi về thăm quê, nhìn cái cối xay bột của bà để lại, ấu thơ như ùa về trong tôi với bao nhiêu hình ảnh đẹp cùng những món bánh dân dã, quê mùa nhưng đầy tình thương mà bà và mẹ đã làm cho anh em tôi ăn thuở nhỏ.
Với tôi, ký ức nào kịp quay về thì tôi luôn lưu giữ. Bà đã mất. Mẹ thì rời quê. Vườn xưa cảnh cũ cũng thay đổi ít nhiều. Duy cái cối xay bột vẫn được để trên góc bộ ván cũ; cái cối cũng cũ như cái hồi tôi chưa lớn lên, tôi đã từng nhìn thấy nó...