Một hôm có ông Trương Nhuận - Phó Giám đốc Nhà hát Tuổi Trẻ gõ cửa nhà tôi, tay ôm bọc bản thảo nói là của Châu La Việt từ Thành phố Hồ Chí Minh gửi ra để anh đọc rồi cho mấy trang đầu sách làm lời tựa.
Nhìn “đống chữ” nằm trên bàn mà lo, vừa lo lại vừa mừng, bởi thế là từ nay đã có tin về người bạn dưới tuổi lặn đâu mất tăm cả chục năm trời giờ mới hiện ra.
Tôi hỏi trong ấy Châu La Việt sống thế nào, liệu có vất vả lắm không, Nhuận trả lời vắn tắt, “sống tốt, con cái trưởng thành, ông anh đi tây đi ta cứ vèo vèo, khi thì viết báo, lúc rảnh ngồi nhà cắm đầu viết văn như thằng ngộ chữ, lần này gửi ra một tập truyện để anh đọc thử xem sao”.
Tôi thủng thẳng rót nước mời khách rồi bảo, nào đã biết văn chương của nó thế nào, nhưng dù có chưa đến đâu thì đã làm sao. Chưa hay thì cố cho bằng hay. Giữa thời buổi thiên hạ kiếm tiền, mà vẫn có thằng hì hục ngồi đánh vật với chữ nghĩa đủ để thấy phải trân trọng.
Xem ra các ông đều thuộc dòng thư hương, con nhà thư hương tất phải có nết thư hương. Nó là dấu hiệu một tinh thần văn hóa mang tính di truyền. Mùi sách mùi mực lạ lắm, nó có sức dai dẳng đeo bám, ra ngoài có ai kể hắn cũng là người có nết thư hương thế là thấy quý nể rồi. Viết tặng nhau hai chữ thư hương hoặc mặc hương là muốn tỏ lòng tôn kính. Chuyện cầm bút với các ông đâu phải quá xa lạ, nó chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. Giờ chưa viết thì rồi có lúc sẽ viết, đi đâu mà vội, ai khiến phải hối hả. Viết văn chẳng qua cũng chỉ là chuyện thả lòng mình giãi bày cái tâm, cái chí với xung quanh chứ có gì ghê gớm. Trước hết là viết cho bản thân, viết là một nhu cầu tự thân, đấy là sự theo đuổi cái thiện, cái đẹp của một đời người.
Xưa có câu, lập thân tối hạ thị văn chương, các cụ có ý dặn văn chương vốn là một công việc tao nhã, kém cỏi nhất là định dùng nó vào việc chạy danh chạy lợi, không gì hèn bằng việc lẩn vào chốn ấy mà mưu mẹo khom cúi để tiến thân.
*
Đã có trên bốn chục năm tính từ buổi đầu tiên hai anh em gặp nhau. Hôm ấy họ kéo về Bắc Ninh dự cưới. Cưới tôi, tôi lấy vợ. Đông lắm, có đến vài chục bạn bè văn nghệ đạp xe từ Hà Nội sang. Tay bắt mặt mừng, vừa thấy nhau cậu ta đã tuyên bố một câu xanh rờn, trước sau nhất định em sẽ viết, viết được gì em sẽ gửi anh đọc, và bút danh của em sẽ là Châu La Việt.
Khách khứa ra vào đông nên tôi chỉ kịp gật gù, bút danh nghe rất được, chắc là tên những con sông con ngòi chú nhỉ. Một đôi mắt sáng linh lợi, một nụ cười rộng rãi cởi mở, cái trán bướng của thằng con trai mười bảy không biết sợ, dáng vóc gầy nhàng nhàng thanh thoát như sắp bay đi đâu. Đấy là ấn tượng hôm ấy của tôi về Việt.
Lại đến cuối năm đó vào dịp Hà Nội sắp sửa bước vào cái tết nữa của thời chiến, trong Phủ Chủ tịch tổ chức một cuộc gặp gỡ đông, nhiều văn nghệ sĩ cũng được mời tới dự. Lần ấy tôi đã gặp chị Tân Nhân, một gương mặt sáng của nền âm nhạc ta và là mẹ của Châu La Việt. Lúc đó chị còn đang rất trẻ trung và đang rất nổi tiếng. Hai chị em đứng ngoài hành lang trò chuyện hồi lâu. Tôi hỏi thăm về Việt. Chị kể dự đám cưới chú về nó bảo phải đi mới viết được, thế là nó đi ngay vào mặt trận. Nó làm đơn xin nhập ngũ khi mới vừa 17 tuổi. Giờ nó đang ở mặt trận Hạ Lào…
- Thằng ấy không phải tay vừa, chị đừng lo lắng nhiều, rồi nó sẽ nên người.
Tôi an ủi một câu thế để chị yên lòng mỗi khi nghĩ đến cậu con trai trưởng thành nhưng cũng không ít long đong ngay từ thuở lọt lòng. Chị cười nhè nhẹ, một giọng nói miền Trung pha Bắc cũng nhè nhẹ thân thương đến lạ lùng…
Trong ánh sáng tưng bừng dạ hội, theo yêu cầu của đồng chí Thủ tướng, chị bước lên hát “Xa khơi” của Nguyễn Tài Tuệ. Hát như rút ruột mà hát. Cả đám đông lặng phắc. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi đến đặt vào tay chị một bông hồng thắm. Chỉ thế thôi và thế là quá đủ…
*
Tôi đọc “Những tầng cây săng lẻ” trong vòng một tuần. Mất thêm một tuần nữa loanh quanh không rứt ra nổi bảy cái truyện trong tập này. Không phải loanh quanh tìm một hướng viết cho lời tựa mà vì đây là những trang viết có sức ám ảnh người đọc. Đây là những trang viết thô mộc không ít vụng về vậy mà qua nó ta bỗng như gặp lại tiếng vang xào xạc của những cánh rừng xa, tiếng vọng nghiêm trang của những tháng năm xa. Tôi muốn cảm ơn tác giả về điều đó. Một giá trị đáng kể làm nên sức nặng cho tập sách cũng là ở đó.
Rất giản dị như câu anh thưa với mẹ ngày vào mặt trận, không đi không thể viết. Sự thật cho thấy không chỉ là không thể viết, mà không đi còn khó biết khó bàn, có muốn nghe cũng không dễ đã nghe nổi. Tôi ngồi một mình trong căn gác vắng, lấy làm mừng cho Châu La Việt, dù tập sách của anh tránh sao khỏi những thiếu hụt. Đó là những thiếu hụt với thời gian người cầm bút nào cũng hoàn toàn có thể khắc phục được để vượt lên chính mình, nhưng với những giá trị mà anh đã làm nên sức nặng cho tập sách của mình, thì với nhiều người khác một khi đã thiếu chắc sẽ khó lòng có thể vượt lên…
Ngoại trừ truyện ngắn “Theo gió trăng ngàn” mang những riêng tư một thời lãng mạn của cậu học trò, sáu truyện còn lại rất nên bàn, mỗi truyện mang một vẻ riêng mà vẫn có chung một mạch văn, một hơi thở tinh thần của tác giả. Mộc mạc điềm nhiên, đôi chỗ vụng về, ấy vậy mà lại khơi gợi và ấm áp.
Bốn truyện đặt trong lòng sách đều là những truyện ít nhiều còn đang sơ sài, nghĩ sơ sài, viết cũng sơ sài. Thật tiếc vì nếu anh đừng quá vội, nếu anh giữ được sự chậm rãi, kỹ lưỡng, chịu khó bồi đắp nhiều hơn thì đó sẽ là những truyện ngắn vững vàng.
Tập sách tựu trung chỉ còn có hai cái ở đầu và cuối sách là đáng kể. Mở đầu bằng “Những tầng cây săng lẻ”. Một truyện ngắn công phu, tuyến truyện phát triển tưởng như đơn giản, chỉ là một tự sự của người lính trẻ, vậy mà lôi cuốn. Nó là một truyện hay, uyển chuyển nhịp điệu, giản dị nhưng không cần bất cứ một sự cầu kỳ phô diễn nào hết.
Đặt cuối sách là truyện “Mai - Pi - Muôn”, tiếng đồng bào nghĩa là “một, hai, ba”.
Bút pháp tung hoành, điêu luyện và mới mẻ. Một Tây Nguyên hào sảng, hoành tráng hiện lên giữa những xô đẩy dữ dội của lịch sử đất nước. Không gian truyện rất gần không gian sử thi. Nhà văn trong khi đi tìm vốn sống ngoài đời cũng là đi tìm vốn sống đầy ắp cất giấu trong lòng mình. Những mảng hiện thực ở đây hiện lên ngồn ngộn, những nhân vật, những tình tiết, những cảm xúc ồ ạt tràn ngập làm ngợp hồn người đọc. Đây là thiên truyện được viết một mạch hào hứng, đầy tự tin, một bản lĩnh vững vàng.
Tây Nguyên giữ một vị trí đặc biệt trong đời sống chung dân tộc, là một đề tài lớn cho nhiều nhà văn tiếp tục khám phá. Thiên truyện này của Châu La Việt chỉ là một thành tựu nằm cạnh nhiều thành tựu khác, điều đáng nói ở đây, nó là một thành tựu mang ý nghĩa đẳng cấp, không thấy có nhiều lắm.
Sự nổi trội của hai truyện vừa kể này đã khiến cho những truyện khác ở tầm trung bình trong sách thành vô duyên đôi chút, nhưng biết làm sao, đòi hỏi hết thảy mọi cái viết ra đều phải có đẳng cấp là không tưởng, ngay cả những tác giả đồ sộ cũng khó làm nổi...
… Điều này để thấy tác giả vẫn chưa đều tay. Bên cạnh những thành công, anh có lúc còn để mình rơi vào sự sơ sài, nghĩ và viết đều có lúc sơ sài. Đã sơ sài tất sơ lược, vội vã. Được biết nhiều năm qua anh là một nhà báo, viết văn hoàn toàn khác với viết báo. Báo có yêu cầu của báo, văn có yêu cầu của văn. Lúc ngồi vào bàn văn, nên cố gắng đẩy lùi cái bóng nhà báo của mình lùi về phía sau, không cho anh ta nhòm vào những gì mình đang phải viết. Thường thấy trong những lúc như thế nhà báo hay xúi bẩy vớ vẩn khiến những trang văn chẳng còn ra làm sao…
Như mọi con đường lớn, con đường văn chương mà ta đã tự nguyện lựa chọn phải là con đường xa, đường xa lắm ghềnh thác thử thách, đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Giờ đây anh đang bước lên với một phong độ đẹp, tôi tin ở những chặng đường sắp tới anh đi.
*
Người ta thường nói, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Châu La Việt đúng là con nhà nòi. Đã mang trong mình nết thư hương thì không thể khác được. Tôi hình dung sắp đến với anh sẽ là những năm tháng nhiều vất vả, kiêu hãnh. Nếu đợi sự dễ dàng thì đã chả chọn lối đi này. Hãy viết như mẹ anh từng đã hát. Ngậm từng chữ, nhả từng câu, đau như lòng tằm và quý phái như tấm lụa tơ tằm. Say mê tột cùng và thương nhớ cũng tột cùng…
Hà Nội tháng 6-2012
Nhà văn Đỗ Chu