(Đọc thơ của nhà thơ Châu La Việt trong Mai - Pi - Muôn Nhà xuất bản Văn học, 2013)
Khoác áo lính lên đường năm 17 tuổi, trải qua trận mạc, viết văn làm báo với nhiều bút danh: Triệu Phong, Trương Nguyên Việt, hay Lê Khánh Hoài - Châu La Việt trình làng tuyển tập thơ - truyện, đó là sự trân trọng không chỉ lao động nghệ thuật mà còn cả quãng đời hy sinh, gian truân của tuổi thanh xuân đã qua.
Đọc chùm thơ (phần I tập sách) với số lượng khiêm tốn 10 bài của anh tôi càng hiểu anh hơn, hiểu những người lính của đất nước những năm tháng chiến tranh ác liệt.
Có biết bao tên gọi trìu mến về người lính: Nghĩa sĩ, vệ quốc, chiến sĩ, đồng chí, đồng đội qua mỗi áng thơ, Châu La Việt cũng tìm cho mình một “định nghĩa”. Bài thơ Bộ đội không diễn tả một trận đánh mà đọng lại trong tâm trí người đọc, hình dung về người cầm súng:
Khi đi ra chiến trường
Chúng tôi xếp hàng ngang
Không ai muốn lùi bước
Khi đi nhận lương thực
Chúng tôi xếp hàng dọc
Đồng chí khỏe đứng sau
Đồng chí yếu đứng trước
Đồng chí nào thương tật
Đề nghị xếp lên đầu
(Mặt trận Lào - 1971)
Tinh thần hy sinh, tình cảm đồng đội được Châu La Việt sắp xếp theo những vị trí: dọc, ngang, sau, trước thật hợp lý, hợp tình. Vượt lên đó là phẩm chất của người lính cách mạng: sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, vượt lên lợi ích cá nhân cho một nghĩa cử cao đẹp, tất cả vì trận mạc, vì nghĩa vụ thiêng liêng.
Có những tác giả khi nhắc đến là người đọc nhớ ngay tên tác phẩm dù chỉ một bài. Với Châu La Việt cũng vậy, bài thơ Bộ đội chắc chắn đã nằm lòng bao thế hệ chiến sĩ, bạn yêu thơ.
Nhưng Châu La Việt còn nhiều bài không thể không nhắc đến. Cả một quãng đời tuổi trẻ đương đầu với đạn bom kẻ thù, cả một quãng đời khát khao tình yêu, khát khao cuộc sống… như được anh bộc bạch, chia sẻ lên trang viết. Những niềm vui, nỗi buồn ấy giờ không còn của riêng anh mà của chung thế hệ cầm súng năm nào.
Như một thước phim, tái hiện đời lính, Châu La Việt đã viết tự truyện đời mình qua mỗi dòng thơ, trang thơ.
Đây là Tuổi trẻ Trường Sơn với bao nét tinh nghịch hồn nhiên mà nhiều suy tư:
Hôm đi mày nhớ không
Mừng mày nhưng tao ức
Vật nhau tao khỏe hơn
Mà nay mày đi trước.
Thôi bây giờ như nhau
Đường Trường Sơn chung bước.
Đây là niềm kiêu hãnh Tôi có một Trường Sơn mà chỉ có những người nhập cuộc như anh mới có quyền viết:
Hai mươi tuổi sống với trận sốt rừng
Với nhành lá tàu bay, với tiếng chim khe núi
Hai mươi tuổi với ngàn lần bom giội
Giáp mặt thù vai tôi tựa Trường Sơn…
Không chỉ trưởng thành, vững tin qua bom thù, chiến trận, người lính còn tự vươn lên trong chính con người, tình cảm của mình. Bài thơ Trăng non như một sự khẳng định, tâm hồn nhân hậu, cao cả của người lính trong một hoàn cảnh bất thường.
Đêm hành quân qua xóm
Gặp tiếng khóc trẻ con
…
Hộ sinh o dũng sĩ
Vừa bắn tàu bay rơi
Tay lau sạch bùn đất
Đỡ đứa trẻ ra đời
…
Và tôi dù trẻ lắm
Nhưng vẫn cứ nghĩ rằng
Mình đang làm người bố
Đi giữ đời cho con…
Anh Châu La Việt sinh trưởng trong một gia đình nghệ sĩ, sự nhạy cảm, rung động trước cảnh đời, cảnh sống luôn thường trực, lại ở tuổi người lính thì làm sao không thể không viết được những bài thơ như Trăng non. Âu là lẽ thường tình. Nhưng cái đáng khích lệ là biết phát hiện, biết triển khai cái sống - cái chết trong một hoàn cảnh ngặt nghèo của chiến tranh.
Ba bài thơ Sức còn lại để hát, Chị ngâm thơ về Mẹ giữa cánh rừng, Tâm sự với sông Bồ chính là kết tinh “thế mạnh” của người nghệ sĩ - chiến sĩ trong con người Châu La Việt. Với họ, trận mạc và ác liệt chỉ càng làm cho “bản năng”, “sức sống” chân - thiện - mỹ vươn lên, vượt qua bao gian khó mà thôi. Điều này như giúp người đọc khám phá thêm về họ, ngoài lòng dũng cảm, ý chí chiến đấu còn có cả tình yêu thương, lương thiện của những con người thiết tha với hòa bình, độc lập.
Tiếng đàn bầu gợi nhớ
Tiếng ghita bập bùng ánh lửa
Tiếng sáo tre lả lơi cánh diều
Tiếng vĩ cầm xao động ngôi sao chiều
Nếu như rồi chẳng có
Hẳn chiến trường sẽ chỉ chùm bom nổ
Trái tim mình biết đập làm sao?
Năm 1976, tôi vào học năm thứ nhất thì anh Châu La Việt đang học năm thứ ba. Khóa học sau năm 1975 khoa Văn Sư phạm, kín đầy sân trường sắc áo các anh lính trở về, không khí vui tươi, rộn ràng. Bao nhiêu kỷ niệm với các anh, các chị khóa trước. Từ các anh Châu La Việt, anh Lê Huy Hòa, anh Trần Duy Thanh, anh Trần Đăng Xuyền… chúng tôi như được tiếp thêm không khí văn chương, khát khao sáng tác. Nhiều truyện ngắn, kịch của anh Châu La Việt như Những tầng cây săng lẻ, Mai - Pi - Muôn chúng tôi yêu mến và nhớ từ ngày đó.
Đọc chùm thơ của anh Châu La Việt tôi lại bồi hồi nhớ một thuở sinh viên khoa Văn, càng thấy trân trọng một người anh đã dâng hiến tuổi xuân cho đất nước, cho từng trang viết ngày nào…
Thu 2013
Nguyễn Đức Quang