(Tưởng nhớ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh)
Tôi đọc bài thơ này lần đầu trên báo Nhân dân cách đây đã hai, ba năm. Rồi gần đây lại được đọc trên Tạp chí Văn nghệ quân đội trong số kỷ niệm đặc biệt về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Bài thơ giản dị, mà có sức lay động tâm hồn. Và rồi một sáng cuối năm mưa phùn gió bấc, tôi được gặp tác giả bài thơ từ phương Nam ra, trong một quán cà phê nhỏ đặc thù của Hà Nội, Lê Khánh Hoài lại đọc tôi nghe bài thơ trên…
Có ba hình tượng lớn làm trụ cột cho cảm xúc và suy tưởng thơ mà từ đây nhà thơ triển khai xây dựng nhân vật trữ tình Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - đó là Cánh đồng, Dòng sông và Ngọn gió.
Cánh đồng bao đời nay gắn bó thân thiết với người nông dân, vốn là lực lượng chủ chốt của mọi vận động trong lịch sử nước Việt ta từ cổ xưa tới nay. Người anh hùng của quần chúng thường xuất thân từ chốn dân dã, giống như trường hợp của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - “Giã từ Kẻ Lừ mảnh đất đói nghèo”. Trước nay, “dĩ binh ư nông” là kế sách quan trọng của mọi nhà cầm quyền. Chính quyền cách mạng cũng đã vận dụng thực thi kế sách đó một cách sáng tạo. Khi “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, mọi người đã chung tay chiến đấu cùng quân đội - vốn được đào luyện từ con em nông dân để trở thành những người lính đi đầu bảo vệ Tổ quốc. Khi giặc tan, phần đông những người lính đã làm lễ “Hạ sao” để trở về nông bản. Đại tướng của chúng ta cũng không ra ngoài quy luật chung đó, Lê Khánh Hoài diễn tả điều này một cách giản dị: khi không còn bóng giặc nữa, “Vị Đại tướng trở lại với ruộng đồng”. Bài thơ có năm khổ thì có tới bốn khổ thơ hình ảnh Đại tướng được gắn với ruộng đồng và sự phát triển của đất nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng: “Lon nước, mo cơm chân Anh lội khắp đồng” - “Hóa thành cơn bão táp những ruộng đồng” - “Sau lưng Anh những cánh đồng bát ngát”. Từ một câu chuyện có thực về Đại tướng đồng cam cộng khổ với nông dân trên đồng ruộng, tác giả đã khái quát lên thành những biểu tượng giàu sắc thái lãng mạn cách mạng và thấm đượm xúc cảm thơ.
Chính những cánh đồng đã sản sinh ra, nuôi dưỡng và bảo vệ những dòng sông quê hương, và tới lượt Dòng sông cũng là nơi sinh ra những anh hùng theo cách nói của cố thi sĩ Bế Kiến Quốc: “Sinh ra ở đâu, mà ai cũng anh hùng?/Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông”…(Những dòng sông). Khổ thơ viết về Dòng sông nằm giữa bài thơ như sự bao bọc quấn quýt đầy tình nghĩa của Cánh đồng với Dòng sông, và cho thấy hình ảnh thật đẹp của Đại tướng trong mối quan hệ với Nhân dân:
Kiến Giang ơi vẫn xôn xao dòng sông
Nhớ đêm Anh chèo đò miệng ngọt ngào câu hát
Tướng và Dân cùng chung nhịp tim đập,
Sông như lòng gương tỏa sáng đến mai sau…
Đã nhiều người viết về Sông quê một cách thú vị, thấm thía, đến Lê Khánh Hoài, anh đã có dịp viết về một dòng sông cụ thể mang tên Kiến Giang từng in bóng lồng lộng một người con đáng tự hào của dân tộc, người đã để lại Công - Đức ngời ngợi tựa “lòng gương tỏa sáng đến mai sau”; nơi ấy từng có một thời “Tướng và Dân cùng chung nhịp tim đập” kế tục truyền thống đẹp của ông cha: “Tướng sĩ một lòng phụ tử/Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” (Hịch tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn) khiến chúng ta rượi mát lòng và có thêm sức mạnh để vượt lên được bao cấn cái, tấm tức đời thường...
Và với những gì miêu tả về Cánh đồng, Dòng sông, tác giả đã có cơ sở và đủ sức gợi lên được Ngọn gió, đủ sự tin cậy nơi người đọc để có thể đánh giá về một phong trào thi đua yêu nước nức tiếng một thời: “50 năm gió Đại Phong vẫn thổi” - “Gió Đại Phong truyền khắp miền đất nước”.
Cánh đồng lại gặp giông bão, Dòng sông lại nổi lửa, những người con quê hương lại tạm biệt người thân, bến đò, mái đình, cây đa để làm nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc. Đại tướng ở trong đoàn quân ấy, và tác giả đã xúc cảm vẽ lên hình ảnh vị tướng lên đường vào chiến trường bằng những câu thơ thực mộc mạc nhưng đượm ý vị anh hùng ca:
Góp vào cơn bão táp của chiến trường
Đại tướng lại lên đường, miền Nam còn có giặc
Sau lưng Anh những cánh đồng bát ngát
Bài thơ kết thúc bằng nguồn cảm hứng đã được khơi lên từ đầu: “Vị Đại tướng trở lại với ruộng đồng” để góp phần quan trọng tạo nên ngọn Gió Đại phong, và tới cuối bài thơ, khi tả ông bước vào trận mới thì “những cánh đồng bát ngát” sau lưng ông đã kịp nhân lên những Ngọn gió của tình yêu nước thương nòi lồng lộng, nuôi dưỡng sức mạnh cho bao lớp thanh niên xông pha nơi hòn tên mũi đạn gìn giữ bình yên cho cuộc sống. Hai câu thơ cuối tựa lời thì thầm của tác giả thay mặt nhiều người khi đứng trước bàn thờ Đại tướng, cũng là lời hứa sẽ tiếp tục kế thừa tinh thần Gió Đại Phong của ông năm nào để thúc đẩy xã hội đi lên:
Và Đại Phong
Gió vẫn thổi hôm nay…
Toàn bài thơ là những hình ảnh giản dị, xuất phát từ những sự thật cuộc sống mà lại mang bóng dáng huyền thoại về những vị dũng tướng năm xưa lật xá cày trong ánh mai và giở binh thư bên ngọn bạch lạp, rồi sau đó từ biệt mái nhà thân yêu ra đi trong ánh trăng lu nuôi chí diệt thù, để cứ thế “Tên Anh thành truyền thuyết, ca dao...”.
Tôi có hỏi tác giả vì sao khi làm thơ, anh thường ký Châu La Việt, mà bài này lại ký Lê Khánh Hoài, thì được biết người cha của anh là ông Lê Khánh Căn vốn là một học sinh Gia Định - Huế, được Đại tướng kết nạp vào Đảng, và mẹ anh - nữ nghệ sĩ Tân Nhân được vợ chồng Đại tướng yêu quý như người em gái trong nhà... Hoài đã ký tên húy của mình vì những tình cảm thiêng liêng của cha mẹ với Đại tướng, nhưng điều đáng quý là bài thơ đã giấu kín được tình cảm cá nhân để có được chỗ đứng của một nhân quần rộng lớn khi nói về một Con người thuộc về lịch sử. Câu chữ không có gì là mới. Thoáng đọc qua, bài thơ có dáng vẻ thực mộc mạc, với những khẩu ngữ và những hình ảnh cùng sự kiện có thực về một Con người mà lâu nay người dân đã từng quen thuộc. Có điều, người làm thơ đã sử dụng khá nhuần nhuyễn những thứ đó như một thi liệu căn bản, cấu trúc chúng lại trong cách bộc lộ cảm xúc trữ tình về các đoạn đời một Con người vĩ đại, để rồi kín đáo thể hiện lòng kính trọng, tình yêu mến vô hạn của đông đảo người Dân đối với vị Đại tướng…
Nguyễn Yên Thế