• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương chín

1

Tôi vô tình sở hữu một cuốn sổ khâu tay lem luốc, bọc vải đen. Nó có chứa những tài liệu cũ, bao gồm cả các bằng cấp, bản nháp, nhật ký, chứng minh thư, những bản ghi chép bằng bút chì, vài mẩu báo, tất cả từng được mẹ tôi lưu giữ kỹ càng ở Prague cho đến ngày bà mất tại đó, nhưng rồi, từ năm 1939 đến 1961, chúng đã phải trải qua vô số thăng trầm. Với sự trợ giúp của những giấy tờ này, cùng ký ức của chính mình, tôi đã dựng lại được tiểu sử ngắn sau đây về cha tôi.

Vladimir Dmitrievich Nabokov, thẩm phán, nhà báo và nghị viên, con trai của Dmitri Nikolaevich Nabokov, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, và nữ Nam tước Maria von Korff, sinh ngày 20 tháng Bảy năm 1870 tại Tsarkoe Selo gần St. Petersburg, và bị giết bởi viên đạn của một sát thủ vào ngày 28 tháng Ba năm 1922 ở Berlin. Từ bé cho đến tuổi mười ba, ông được giáo dục tại nhà bởi các bảo mẫu người Anh và Pháp, cùng các gia sư người Nga và người Đức; từ một trong các vị gia sư này mà ông đã du nhập và truyền lại cho tôi morbus et passio aureliani1. Vào mùa thu năm 1883, ông bắt đầu học trường “Gymnasium” (tương đương với một dạng kết hợp của “trường trung học” và “năm nhất đại học” ở Mỹ) trên phố Gagarin hồi đó. Ham muốn làm người nổi trội của ông luôn chất ngất choáng ngợp. Vào một đêm đông, sau khi đã không hoàn thành một bài tập giao về và thà chịu viêm phổi còn hơn bị chế nhạo trước tấm bảng đen, ông đã đẩy mình ra chịu cái lạnh của vùng Cực Bắc, với hy vọng bị ốm đúng lúc, bằng cách mặc độc chiếc áo ngủ và ngồi trên cửa sổ để mở (nó trông ra Quảng trường Cung điện và cây cột đẫm ánh trăng của nó). Sáng hôm sau ông vẫn khỏe mạnh phây phây, và bất công thay, chính người thầy giáo bị e sợ kia mới là người phải nghỉ ốm ở nhà. Vào tuổi mười sáu, tháng Năm năm 1887, ông đã hoàn tất chương trình Gymnasium với mề đay vàng và học luật tại Đại học St. Petersburg, tốt nghiệp tháng Một năm 1891. Ông tiếp tục sự nghiệp học hành ở Đức (chủ yếu ở Halle). Ba mươi năm sau, một người đồng môn của ông, người đã cùng đạp xe với ông ở Rừng Đen, gửi cho người mẹ góa bụa của tôi cuốn Bà Bovary mà cha tôi từng mang bên mình trong thời gian đó, và trên trang đầu, cha tôi đã viết “Viên ngọc trai không thể vượt qua nổi của văn học Pháp” – một đánh giá vẫn còn nguyên giá trị đến nay.

1 Niềm đam mê dành cho các loài bướm

Ngày 14 tháng Mười một năm 1897 (một ngày bất di bất dịch vẫn còn được kỷ niệm hàng năm trong vòng gia đình thân cận của chúng tôi), ông kết hôn cùng Elena Ivanovna Rukavishnikov, ái nữ hai mươi mốt tuổi của người hàng xóm ở vùng thôn quê, và cùng với bà, ông đã có sáu mặt con (người con cả bị chết non). Năm 1895 ông được bổ nhiệm làm Cận thần cấp thấp của Nhà vua. Từ 1896 đến 1904 ông giảng về hình pháp tại trường Luật học Hoàng gia (Pravovedenie) ở St. Petersburg. Các Cận thần của Nhà vua đáng ra phải xin phép “Hội đồng Bộ trưởng” trước khi thực hiện một hành động công khai. Hiển nhiên, cha tôi đã không xin cấp phép khi cho đăng trên tạp chí phê bình Pravo bài báo được tán dương của ông “Cuộc tắm máu ở Kishinev”, trong đó ông lên án vai trò của cảnh sát trong cuộc tàn sát người Do Thái ở Kishinev năm 1903. Một sắc lệnh của hoàng gia đã phế truất tước hiệu triều thần của ông vào tháng Một năm 1905, sau đó ông đã cắt đứt mọi mối liên hệ với chính phủ Sa hoàng và triệt để lao mình vào cuộc vận động chính trị phản chuyên chế, trong lúc vẫn tiếp tục các công việc trong ngành luật của mình. Từ 1905 đến 1915 ông là Chủ tịch Chi hội tại Nga của Hiệp hội Tội phạm học Quốc tế, và trong các buổi hội thảo tại Hà Lan, ông mua vui cho mình và làm kinh ngạc khán phòng bằng cách dịch miệng, khi cần thiết, các bài diễn văn từ tiếng Nga và tiếng Anh sang tiếng Đức và tiếng Pháp và ngược lại. Ông cực lực phản đối hình phạt tử hình. Ông tuân thủ các nguyên tắc của mình trong những vấn đề cá nhân và công cộng một cách kiên định. Trong một buổi tiệc trang trọng năm 1904, ông đã từ chối uống mừng sức khỏe Sa hoàng. Người ta đồn rằng ông đã lạnh lùng cho đăng quảng cáo trên các báo để rao bán bộ triều phục của mình. Từ 1906 đến 1917, ông đồng biên tập với I.V. Hessen và A.I. Kaminka ở một trong vài tờ nhật báo tự do hiếm hoi ở nước Nga, tờ Rech (“Ngôn luận”) đồng thời chủ biên tờ tạp chí Pravo của trường Luật. Về mặt chính trị, ông là một “Kadet,” tức là một thành viên của KD (Konstitusionno-demokraticheskaya partiya1), sau này được đặt lại tên thích hợp hơn là Đảng Tự do của Nhân dân (partiya Narodnoy Svobodi). Cùng với khiếu hài hước sắc bén của mình, chắc hẳn ông sẽ thấy nhột kinh khủng trước những lời mạt sát vô dụng dù độc địa mà những người biên soạn từ điển độc mồm đã nói về các ý kiến và thành tựu của ông trong những bình luận hiếm hoi về tiểu sử của ông. Năm 1906, ông được bầu vào Quốc hội đầu tiên của nước Nga (Pervaya Duma), một tổ chức nhân quyền và anh hùng, thiên hướng tự do (nhưng lại là tổ chức bị các nhà khảo cứu luật nước ngoài vô tâm thường nhầm lẫn với “boyar dumas2” cổ lỗ, do bị ảnh hưởng bởi chính sách tuyên truyền của Xô Viết!). Ở đó, ông đã có vài bài phát biểu tuyệt hay mang lại tác động sâu rộng trên cả nước. Chưa đầy một năm sau đó, khi Sa hoàng giải tán Duma, một số thành viên, bao gồm cả cha tôi (người đã mang theo chiếc vé tàu hỏa của mình kẹp dưới vành mũ, như một bức ảnh chụp tại nhà ga Phần Lan đã cho thấy), đã quay trở lại Vyborg để họp mặt bất hợp pháp. Tháng Năm năm 1908, ông bắt đầu chịu án tù ba tháng trong một hình phạt có phần muộn màng vì bản tuyên ngôn cách mạng mà ông cùng nhóm của mình đã phát hành tại Vyborg. “V. có kiếm được con “Egerias” [Speckled Wood] nào mùa hè này không?” Ông đã hỏi trong một lá thư bí mật gửi từ nhà tù, thông qua một lính gác đã bị mua chuộc và người bạn trung thành (Kaminka), và tới được tay mẹ tôi ở Vyra. “Kể với con là tất cả những gì anh trông thấy trong sân nhà tù là lũ Brimstones và bắp cải trắng.” Sau khi được thả, ông bị cấm tham gia vào các cuộc bầu cử công khai, nhưng (một trong những nghịch lý thường thấy dưới triều đại Sa hoàng) lại được thoải mái làm việc trong tờ Rech mang thiên hướng tự do chua chát, một công việc mà cha tôi có thể dành tới chín tiếng mỗi ngày để làm. Năm 1913, ông bị chính quyền phạt một khoản tượng trưng khoảng một trăm rúp (tương đương con số ấy bằng đồng đô la ở thời hiện tại) vì bài phóng sự của ông từ Kiev, sau một phiên tòa bão táp mà Beylis được phán vô tội dù đã giết một cậu bé Công giáo cho mục đích “nghi thức tôn giáo”: công lý và ý kiến đám đông đôi khi vẫn có thể thắng thế trong xã hội Nga cũ; họ chỉ còn phải chờ đợi thêm năm năm nữa thôi. Ông bị tổng động viên không lâu sau khi Thế chiến thứ Nhất bắt đầu và bị gửi tới tiền tuyến. Dần dần ông gắn bó với công việc của Ban Tham mưu ở St. Petersburg. Đạo đức nhà binh đã ngăn ông dự phần tích cực trong những cuộc náo động đầu tiên của cuộc Cách mạng Tự do hồi tháng Ba năm 1917. Ngay từ đầu, dường như lịch sử đã hết sức hào hứng tước đoạt của ông một cơ hội đầy đủ để hé lộ tài năng lãnh đạo trong một nước Cộng hòa Nga theo kiểu phương Tây. Năm 1917, trong suốt giai đoạn sơ khai của Chính phủ Lâm thời – tức là hồi mà những người Kadet vẫn còn được dự phần vào đó – trong Hội đồng Bộ trưởng, ông đã giữ chức vụ Thư ký Điều hành, dù không có chức danh. Mùa đông năm 1917 - 1918, ông được bầu vào Hội đồng Lập hiến, nhưng lại chỉ để bị bắt giữ khi nó bị giải tán. Cuộc Cách mạng tháng Mười một đã bước vào chặng đường mới nhưng trong những ngày tháng ấy, những mệnh lệnh và phản mệnh lệnh hỗn loạn đôi khi lại đứng về phía chúng tôi: cha tôi đi theo một hành lang tối mờ, trông thấy một cánh cửa mở ở đầu bên kia, bước ra một con phố nhánh và tìm đường tới Crimea cùng chiếc ba lô ông đã lệnh cho người hầu riêng Osip của mình mang đến một góc đường hẻo lánh, bên trong là một hộp bánh sandwich kẹp trứng cá muối mà người đầu bếp tốt bụng Nikolay Andreevich của chúng tôi đã tự ý thêm vào. Từ giữa năm 1918 đến đầu năm 1919, trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiếm đóng và trong những cuộc xích mích không ngừng với những nhân tố sốc nổi trong đội quân của Denikin, ông đã là Bộ trưởng Bộ Tư pháp (hay “tư pháp tối thiểu” như cách ông thường giễu nhại) tại một trong các chính quyền địa phương, chính quyền tỉnh Crimea. Năm 1919, ông tự chọn cảnh lưu đày biệt xứ, đầu tiên là ở London, rồi Berlin, tại đó ông kết hợp cùng Hesson để biên tập tờ nhật báo của những người ly hương tự do Rul’ (“Bánh lái”) cho đến ngày bị ám sát năm 1922 bởi một tên côn đồ vô lại, kẻ mà trong Đại chiến thứ Hai, Hitler đã cho làm người điều hành các vấn đề của người Nga ly hương.

1 Đảng Dân chủ Lập hiến

2 Hội đồng gồm những người thuộc tầng lớp trên của giai cấp thống trị

Ông viết rất nhiều, chủ yếu là các đề tài chính trị và tội phạm học. Ông biết rành rẽ về văn xuôi và thơ ca của vài quốc gia, thuộc lòng hàng trăm câu thơ (các nhà thơ Nga yêu thích của ông là Pushkin, Tyutchev và Fet – ông đã cho xuất bản một bài luận hay về vị này), là chuyên gia về Dickens, và ngoài Flaubert ông còn đánh giá cao Stendhal, Balzac và Zola, ba nhà văn xoàng xĩnh theo ý kiến cá nhân tôi. Ông từng thừa nhận rằng việc sáng tạo ra một câu chuyện hay bài thơ, bất kỳ câu chuyện hay bài thơ nào, với ông, cũng là một điều kỳ diệu khó hiểu y như việc chế tạo một cỗ máy chạy điện vậy. Mặt khác, ông không gặp vấn đề gì với việc viết lách về các chủ đề hình pháp hay chính trị. Ông có cách hành văn chuẩn xác, dù có phần hơi đơn điệu mà ngày nay, bản thân nó đã trở thành một phẩm chất có phần hấp dẫn riêng, bất chấp những ẩn dụ của thế giới cũ về nền giáo dục cổ điển và lối khoa trương rập khuôn của báo chí Nga – ít nhất là với cái tai đã chán ngấy phải nghe của tôi – nó tương phản hoàn toàn (cứ như nó thuộc về một người họ hàng nào già hơn và nghèo nàn hơn) với lời ăn tiếng nói hàng ngày màu mè, hoa mỹ, mang ý thơ, và đôi khi còn tục nữa. Các bản thảo còn giữ lại được của những tuyên ngôn (khởi đầu bằng "Grazhdane!", có nghĩa là “Hỡi đồng bào!”) và bài báo được viết bằng tuồng chữ in nghiêng, mượt mà xinh đẹp, bằng một bàn tay cứng cáp đến khó tin, gần như không mắc một lỗi nào, một sự thuần khiết, chắc chắn, một đối hàm giữa tâm trí-sự thật mà tôi thấy buồn cười khi đem so với nét chữ viết tay loằng ngoằng cùng các bản thảo rối rắm của mình, với việc phải chỉnh sửa hàng loạt và viết đi viết lại, và thêm nhiều chỉnh sửa mới nữa, của chính những dòng mà lúc này đây tôi đang dành hai giờ liền để mô tả lại nét chữ viết tay không tì vết của cha trong hai phút. Các bản thảo của ông chính là bản đại diện công bằng cho ý nghĩ trực tiếp nhất. Cũng bằng cách này, với sự thoải mái khác thường và tốc độ nhanh nhẹn, ông đã viết (trong lúc ngồi không hề thoái mái gì trên một cái bàn học của trẻ em trong phòng học của một cung điện đang để tang) bài diễn văn thoái vị cho Đại Công tước Mihail (người kế vị tiếp theo sau khi Sa hoàng đã từ bỏ vương vị của mình và con trai). Chẳng trách ông cũng là một diễn giả đáng ngưỡng mộ, một nhà hùng biện “kiểu Anh” trầm tĩnh, tránh làm cử chỉ chém thịt và bắn ra những lời mị dân khoa trương, và cả ở đây nữa, một kẻ chuyên phát âm sai lố bịch như tôi đây, khi không có được một mảnh giấy đánh chữ sẵn trước mặt mình, đã chẳng được thừa hưởng điều gì.

Chỉ mới gần đây tôi mới lần đầu tiên đọc bản thảo quan trọng của ông, Sbornik statey po ugolovnomu pravu (một tuyển tập các bài báo về hình pháp), xuất bản năm 1904 ở St. Petersburg, một bản rất hiếm, có khi là duy nhất của cuốn sách này (từng là tài sản của một “Mihail Evgrafovich Hodunov” nào đó như dấu đóng bằng mực màu tím trên trang đầu đã ghi) đã được một người du hành tốt bụng, Andrew Field, tặng cho tôi. Ông đã mua nó trong một hiệu sách cũ, trong chuyến ghé thăm nước Nga năm 1961. Nó là một cuốn sách dày 316 trang chứa mười chín bài báo. Trong một bài (“Những tội ác trần tục” viết năm 1902), cha tôi đã bàn, hay đúng hơn là tiên tri theo một kiểu kỳ quặc, về các vụ án (ở London) “các bé gái à l’age le plus tendre (v nezhneyshem vozraste1), chẳng hạn từ tuổi tám tới mười hai, bị hiến cho những kẻ phóng đãng (slastolyubtsam)”. Cũng trong bài báo đó, ông đã hé lộ một cách tiếp cận rất tự do và “hiện đại” với nhiều thói quen bất thường khác nhau, vô tình ông còn hun đúc một từ tiếng Nga rất tiện dụng cho từ “đồng tính”: ravnopoliy.

1 Ở độ tuổi nhạy cảm

Việc liệt kê chính xác hàng ngàn bài báo của ông trong các ấn bản khác nhau, chẳng hạn như Rech hay Pravo là điều bất khả thi. Trong một chương sách sau, tôi sẽ nói về cuốn sách rất thú vị về mặt lịch sử của ông, viết về một chuyến đi bán chính thức trong thời chiến tới Anh. Vài tháng trước cái chết của cha tôi, tờ báo của người dân ly hương Teatr i zhizn’ (Rạp hát và Đời) đã bắt đầu cho đăng một chuỗi bài về hồi ký thời trai trẻ của ông (giờ thì ông và tôi đã trùng lặp nhau – quá ngắn ngủi). Tôi thấy trong đó những mô tả tuyệt hay về những cơn thịnh nộ khủng khiếp của vị thầy giáo dạy tiếng La Tinh có vẻ mô phạm của ông vào năm ba trường Gymnasium, cũng như niềm đam mê từ rất sớm và kéo dài suốt đời của cha tôi dành cho nhạc kịch: chắc hẳn ông đã từng nghe hết tất cả các ca sĩ châu Âu hạng nhất từ khoảng năm 1880 đến 1922, và mặc dù không thể chơi bất kỳ nhạc cụ gì (trừ vài nốt đầu tiên xuất sắc trong màn dạo đầu của “Ruslan”), ông vẫn nhớ mọi nốt nhạc trong các vở kịch yêu thích của mình. Xuôi theo dây đàn rung rinh này một gen về âm điệu đã bỏ lỡ tôi mà truyền từ nghệ sĩ dương cầm Wolfgang Graun của thế kỷ XVI qua cha tôi tới thẳng con trai tôi.

2

Hồi tôi mười một tuổi, cha tôi quyết định rằng giáo dục tại gia mà tôi đã có, và vẫn đang nhận được, có thể được bổ sung một cách hữu hiệu bằng việc để tôi gia nhập trường Tenishev. Ngôi trường này, một trong những trường học danh tiếng nhất ở St. Petersburg, là một học viện còn tương đối trẻ và theo kiểu hiện đại, tự do hơn hẳn trường Gymnassium thông thường, dù nó cũng được liệt kê vào loại hình trường học này. Các khóa học của nó, bao gồm mười sáu “kỳ học” (tương đương tám kỳ Gymnassium), quy đổi tương đương với sáu năm cuối cấp phổ thông cộng với hai năm đầu đại học ở Mỹ. Khi tôi nhập trường vào tháng Một năm 1911, tôi thấy mình đang ở “kỳ” thứ ba, hay bắt đầu năm lớp tám theo hệ thống của Mỹ.

Trường học dạy từ ngày 15 tháng Chín đến 25 tháng Năm, với vài kỳ nghỉ chen ngang: hai tuần nghỉ giữa các kỳ học – hóa ra là để dọn chỗ cho cây Giáng sinh khổng lồ mà ngôi sao trên đỉnh của nó chạm tới tận trần nhà màu xanh nhạt trong phòng khách đẹp nhất nhà chúng tôi – và một tuần nghỉ Lễ Phục sinh, trong thời gian đó, những quả trứng màu làm bàn ăn sáng của chúng tôi thêm sinh động. Vì băng tuyết kéo dài từ tháng Mười cho mãi đến cuối tháng Tư, chẳng trách biên độ ký ức của tôi về trường học ảm đạm như mùa đông.

Khi Ivan Đệ Nhất (chú ta đã biến mất vào một ngày nọ) hay Ivan Đệ Nhị (kẻ còn trụ lại đến khoảng thời gian tôi gửi chú ta làm chân chạy trong các nhiệm vụ lãng mạn) tới gọi tôi dậy vào quãng 8 giờ sáng, thế giới bên ngoài vẫn còn đang bị úp trong bầu trời u ám miền Cực Bắc. Ngọn đèn điện trong phòng ngủ có kiểu tia sáng dằn dỗi, gay gắt, vàng ệch khiến mắt tôi nhưng nhức. Úp một bên tai còn ong ong lên tay và chống khủy tay lên một chiếc gối, tôi sẽ ép buộc mình phải chuẩn bị khoảng mười trang bài tập về nhà chưa hoàn thành. Trên chiếc bàn đầu giường, cạnh một cây đèn chắc nịch với hai cái đầu sư tử bằng đồng, là một chiếc đồng hồ khác thường: một hình trụ thẳng đứng bằng pha lê mà bên trong nó, những phiến mỏng như trang giấy có gắn chữ số màu đen, mặt kính trắng ngà lật từ phải qua trái, mỗi lần dừng một phút như cái cách các hình ảnh quảng cáo dừng lại trên màn hình chiếu phim kiểu cũ vậy. Tôi cho mình mười phút để chụp ảnh lại bài học trong não mình (ngày nay chắc tôi phải mất tới hai tiếng!) và khoảng mười hai phút để tắm, mặc quần áo (với sự giúp đỡ của Ivan), lục tục xuống nhà, uống hết một cốc ca cao ấm. Từ bề mặt của nó, tôi đã hớt ra được một lớp váng sần sùi màu nâu. Các buổi sáng đều chắp vá, và những thứ chẳng hạn như bài học đấm bốc và đấu kiếm mà một quý ông người Pháp dẻo dai tuyệt vời, Monsieur Loustalot, thường dạy tôi đều bị ngưng trệ.

Tuy nhiên, thầy vẫn đến gần như mỗi ngày, để so găng hoặc đọ kiếm cùng cha tôi. Tôi sẽ để nguyên cả áo choàng lông thú vẫn còn đang cởi dở dang mà chạy qua phòng khách màu xanh (nơi mà mùi cây thông, sáp nóng và quýt sẽ còn lưu lại rất lâu sau khi Giáng sinh đã qua đi) về phía thư viện, từ nơi đó vẳng ra một bản tạp âm tiếng giậm chân và kim loại va nhau. Ở đó, tôi sẽ tìm thấy cha mình, một người đàn ông to lớn khỏe mạnh, trông càng to lớn hơn nữa trong bộ đồ tập màu trắng, đang chọc và gạt kiếm, trong lúc thầy hướng dẫn mảnh khảnh của ông thêm vào những tiếng hô sang sảng (“Battez!” “Rompez!”) trên nền những tiếng tinh tang của lưỡi kiếm.

Khẽ hổn hển một chút, cha tôi sẽ tháo chiếc mặt nạ lồi của môn đấu kiếm khỏi khuôn mặt hồng hào lấm chấm mồ hôi của mình để hôn tôi chào buổi sáng. Căn phòng ấy là sự kết hợp dễ chịu giữa học thuật và thể thao, da của các bìa sách và da trên cặp găng đấm bốc. Những chiếc ghế bành bọc nệm dày đặt dọc các bức tường chất đầy kệ sách. Một bộ “bóng tập đấm” cầu kỳ được mua từ nước Anh – bốn cột thép làm trụ đỡ cho tấm bảng mà từ đó treo lủng lẳng quả bóng hình quả lê – sáng bóng ở cuối căn phòng rộng thênh thang. Mục đích của dụng cụ này, đặc biệt là còn liên quan đến tiếng động tạch tạch như súng máy trong chiếc túi của nó, năm 1917 đã bị vài tay dân quân vũ trang nặng nề tra hỏi khi bọn họ chui qua cửa sổ, và lời giải thích của viên quản gia của chúng tôi chỉ được miễn cưỡng chấp nhận là thật. Khi cuộc Cách mạng Xô Viết khiến chúng tôi buộc phải rời khỏi St. Petersburg, thư viện ấy đã bị tháo dỡ, nhưng những kỷ vật nhỏ gợi nhớ về nó vẫn cứ xuất hiện ở nước ngoài. Khoảng mười hai năm sau, ở Berlin, từ một quầy sách, tôi nhặt lên một món đồ bơ vơ như thế, mang theo dấu sở hữu của cha mình. Trùng hợp ở chỗ, hoá ra cuốn sách ấy chính là The War of the Worlds (tạm dịch: Cuộc chiến của các thế giới) của Wells. Và sau một thập kỷ nữa trôi qua, một ngày kia tôi lại khám phá trong Thư viện Công cộng New York, được liệt kê dưới tên cha tôi, một tập sách danh mục nhỏ mà ông đã cho in riêng hồi mà những cuốn sách đã tan thành dĩ vãng chép trong ấy vẫn còn được cất trên các giá sách của ông, bóng bẩy hồng hào.

3

Ông sẽ đội lại mặt nạ và tiếp tục với màn giậm chân và vung kiếm của mình trong lúc tôi vội vã quay lại theo con đường đã chạy đến. Sau khi trải qua cái ấm áp trong đại sảnh, nơi củi cháy tí tách trong lò sưởi lớn, bầu không khí bên ngoài dễ khiến người ta bị sốc nhiệt vì lạnh phổi. Tôi sẽ lên một trong hai chiếc ô tô của nhà, chiếc Benz hoặc Wolseley, tuỳ chiếc nào có mặt ở đó, để đến trường. Chiếc đầu tiên cũ hơn, là một chiếc xe mui trần do Volkov, người tài xế hiền lành với khuôn mặt nhợt nhạt điều khiển. Dòng xe này có vẻ khá năng động so với những chiếc xe điện hai chỗ tẻ nhạt, không đầu không đuôi trước đó; nhưng, khi đến lượt mình, nó lại khoác lên cái vẻ cổ lỗ, nặng nề, với chiếc mũ vải dúm dó đáng buồn, ngay khi đối trọng so sánh là chiếc limousine thân dài, màu đen của nước Anh tới chia sẻ ga-ra cùng với nó.

Được đi chiếc xe mới hơn là cách khởi đầu ngày mới thật vui sướng. Pirogov, người tài xế thứ hai là một anh chàng thấp bé, mập mạp với nước da màu nâu đỏ rất ăn khớp với chiếc áo choàng lông anh ta mặc bên ngoài áo vest vải nhung và quần ống màu cam-nâu của mình. Khi có sự vụ gì trên đường buộc anh ta phải đạp phanh (mà anh thường làm bằng cách đột ngột giật người lên theo kiểu lò xo kỳ dị), hoặc khi tôi làm phiền đến anh bằng cách trò chuyện qua chiếc ống nói kêu cót két và không mấy hiệu quả, thì phần gáy dày cộp của anh mà tôi trông thấy qua vách kính ngăn sẽ đỏ lựng lên. Thực ra anh ta thích lái chiếc xe mui trần hiệu Opel khoẻ khoắn mà chúng tôi dùng ở vùng nông thôn trong ba hay bốn mùa hơn, và sẵn sàng làm vậy ở tốc độ chín mươi sáu cây số trên giờ (để nhận ra thời những năm 1912 như thế là nhanh tới cỡ nào, ta nên cân nhắc đến sự lạm phát về tốc độ hiện nay): quả thực, cái hồn cốt tự do của mùa hè – rời xa trường học và chốn thành thị - trong tâm trí tôi vẫn còn kết nối với tiếng động cơ gầm vang mà bộ giảm thanh hở của chiếc xe thả ra con đường quốc lộ dài và hiu quạnh ấy. Pirogov nghỉ việc vào năm thứ hai của Thế chiến thứ Nhất và thay thế là anh Tsiganov da sậm màu, mắt hoang dã, một cựu vận động viên đua xe từng tham dự vào vô số cuộc đua tài cả ở Nga lẫn trường quốc tế, và đã có vài chiếc xương sườn bị gãy trong một cuộc va chạm tồi tệ ở Bỉ. Sau này, đâu đó quãng năm 1917, không lâu sau khi cha tôi từ nhiệm khỏi Nội các của Kerenski, Tsiganov đã quyết định – bất chấp những lời phản đối cực lực của cha tôi – cứu chiếc Wolseley mạnh mẽ khỏi chịu cảnh bị tịch thu bằng cách tháo rời nó và giấu rải rác các linh kiện ở những nơi chỉ có anh ta biết. Sau đấy nữa, trước viễn cảnh của mùa thu thảm kịch, khi những người Bolshevik giành thế thượng phong, một trong những trợ thủ của Kerenski đã hỏi xin cha tôi một chiếc xe mạnh mẽ để ngài Thủ tướng có thể dùng đến nếu buộc phải vội vã rời đi; nhưng chiếc Benz cũ kĩ yếu ớt của chúng tôi sẽ không dùng được, còn chiếc Wolseley thì đã biến mất một cách đáng xấu hổ, và nếu tôi có trân trọng cái ký ức về lời yêu cầu đó (gần đây đã bị người bạn xuất chúng của tôi phủ nhận, nhưng chắc chắn nó đã tới từ người phụ tá của ông ấy), thì đó chỉ xuất phát từ cái nhìn chắp nối sự kiện – bởi âm hưởng hài hước có liên quan đến vai trò của Christina von Korff trong vụ việc Varennes hồi năm 1791.

Mặc dù các trận mưa tuyết dày ở St. Petersburg là chuyện thường thấy hơn ở các nơi khác, chẳng hạn như quanh Boston, mấy chiếc xe ô tô đi len giữa vô vàn chiếc xe trượt tuyết trong thành phố trước Đại chiến thứ Nhất, bằng cách nào đó, dường như vẫn không gặp rắc rối kinh khiếp như những chiếc xe hiện đại vẫn vướng phải ở vùng New England xinh đẹp vào kỳ Giáng sinh trắng. Rất nhiều nguồn lực kỳ lạ đã bị kéo vào việc xây dựng nên thành phố này. Có thể ai đó sẽ cho rằng việc sắp xếp để tuyết rơi như thế - hai hàng tuyết đọng gọn ghẽ dọc lối đi bộ và một triền băng cứng phẳng phiu trên những viên gạch gỗ hình bát giác của vỉa hè – đã có được là nhờ một sự hợp tác không mang tính thần thánh gì giữa tính chất hình học không gian của các con phố và vật lý học của các đám mây tuyết. Dù sao đi nữa, việc lái xe đến trường tôi không bao giờ mất quá mười lăm phút. Nhà của chúng tôi ở số 47 phố Morskaya. Rồi đến nhà của Hoàng thân Oginski (số 45), rồi đến Đại sứ quán Ý (số 43), sau đó là Đại sứ quán Đức (số 41), cuối cùng là Quảng trường Maria rộng lớn, và đằng sau nó các số nhà tiếp tục thu nhỏ lại. Có một công viên công cộng nhỏ ở mạn Bắc của quảng trường. Một ngày kia, trên một trong những cây đoan của nó, người ta đã tìm thấy một cái tai và một ngón tay – phần di thể của một tên khủng bố đã lỡ trượt tay trong lúc đang xử lý một bọc hàng chết người trong phòng hắn ở đầu bên kia quảng trường. Cũng chính những cái cây này (như những hoa văn bạc chạm khắc trên màn sương óng ánh xà cừ, sừng sững đằng sau nó là mái vòm bằng đồng thau của Nhà thờ Chính tòa Thánh Isaac làm nền), cũng đã chứng kiến cảnh lũ trẻ bị bắn hạ ngẫu nhiên từ các cành cây mà chúng cố trèo lên trong nỗ lực vô ích để trốn khỏi những tên hiến binh cưỡi ngựa tới dập tắt cuộc Cách mạng thứ nhất (1905 - 1906). Có khá nhiều những câu chuyện nhỏ kiểu như vậy đã gắn liền với các quảng trường và con phố ở St. Petersburg.

Khi tới Đại lộ Nevski, người ta sẽ đi dọc theo nó một đoạn dài, trong lúc ấy họ sẽ rất thích thú khi không cần nỗ lực gì cũng bắt kịp một chàng lính gác khoác áo choàng trên chiếc xe trượt tuyết nhẹ được hai chú ngựa đen kéo đi; chúng vừa khụt khịt vừa tăng tốc dọc con đường nằm dưới lớp lưới màu xanh sáng để ngăn những bụm tuyết cứng không lao vào mặt hành khách. Một con phố bên tay trái với cái tên cô quạnh – Karavannaya (phố của những đoàn lữ hành) – đưa người ta chạy qua một cửa hàng đồ chơi khó quên. Tiếp theo là rạp xiếc Cinizelli (nổi tiếng vì các giải đấu vật). Cuối cùng, sau khi đã băng ngang một con kênh bị đóng băng, người ta sẽ đứng trước những cánh cổng của trường Tenishev ở phố Mohovaya (phố Mosses).

4

Vì đã tự chọn mình là người thuộc tầng lớp trí thức vĩ đại của nước Nga, cha tôi nghĩ việc cho tôi theo học tại một ngôi trường nổi bật bởi các quy tắc dân chủ và chính sách không phân biệt của nó trong các vấn đề về giai cấp, chủng tộc và tín điều, cộng với những phương pháp giáo dục tân tiến là hết sức đúng đắn. Ngoài những chuyện đó ra, trường Tenishev hoàn toàn không khác biệt gì với những ngôi trường khác cả về không gian và thời gian. Như ở tất cả các trường học khác, tụi con trai chỉ chịu đựng vài giáo viên trong khi căm ghét những người còn lại, và như ở mọi ngôi trường khác, luôn có một sự trao qua đổi lại bất tận những câu trêu đùa tục tĩu và các thông tin khiêu dâm. Vốn là người chơi giỏi nhiều trò, đáng lẽ tôi đã không thấy toàn bộ việc này phiền lòng cho lắm, giả như các vị giáo viên bớt chú tâm vào việc cứu vãn linh hồn tôi hơn.

Họ buộc tội tôi không thích nghi với hoàn cảnh xung quanh, tội “huênh hoang” (chủ yếu là vì kèm vào trong các bài luận tiếng Nga của mình toàn các thuật ngữ tiếng Anh và tiếng Pháp, một việc vốn rất tự nhiên với tôi); tội không chịu chạm vào những chiếc khăn tắm bẩn thỉu ướt át trong phòng tắm; tội chiến đấu bằng các khớp ngón tay của tôi thay vì dùng những cú vả bằng lòng bàn tay như kiểu ẩu đả của Nga. Vị hiệu trưởng kém hiểu biết về các trò thể thao, dù nhiệt liệt tán dương phẩm chất tạo tình cảm đồng đội của chúng, đã nghi ngờ việc tôi lúc nào cũng giữ gôn trong trò bóng đá “thay vì chạy vòng quanh cùng các cầu thủ khác”. Một việc khác gợi lên sự tiếc nuối trong tôi chính là việc đi ô tô đến trường, và về nhà thay vì đi trên những chiếc xe khách hay taxi ngựa kéo như những cậu trai trẻ khác, những chàng thanh niên dân chủ nhỏ bé, vẫn làm. Với khuôn mặt nhăn nhó biến dạng vì khinh bỉ, một giáo viên từng gợi ý với tôi rằng ít nhất tôi cũng có thể cho dừng xe ở cách trường một hai dãy nhà, để các bạn đồng môn của tôi không phải chịu đựng cảnh anh tài xế mặc chế phục ngả mũ chào tôi, như thế chẳng khác nào trường cho phép tôi cầm đuôi một con chuột chết đi loanh quanh, với nhận thức rằng tôi sẽ không gí nó vào mũi ai cả.

Tuy nhiên tình huống tệ hại nhất xuất phát từ thực tế là thậm chí từ lúc ấy, tôi đã cực kỳ phản cảm với việc phải tham dự vào các cuộc vận động hay đoàn thể dưới bất kỳ dạng nào. Tôi đã làm cho cả những người tử tế nhất và thiện chí nhất trong số giáo viên của mình tức giận bằng cách từ chối tham gia hoạt động ngoại khoá – các nhóm tranh luận với việc bầu bán trang trọng người đứng đầu và đọc những bài báo cáo về các câu hỏi lịch sự, và khi lên các lớp cao hơn còn có cả những buổi tụ họp tham vọng hơn để bàn bạc về các sự kiện chính trị hiện tại. Cái áp lực không ngừng dồn lên tôi, buộc tôi phải thuộc về một nhóm này hay nhóm kia chưa bao giờ đập vỡ được sức kháng cự của tôi, nhưng lại dẫn đến một tình huống căng thẳng không kém chút nào, ấy là tất cả mọi người đều lải nhải về tấm gương của cha tôi.

Quả thực cha tôi là người rất năng động, nhưng như vẫn thường xảy ra với lũ trẻ của các ông bố nổi danh, tôi nhìn các hoạt động của cha qua lăng kính của riêng mình, tức là dưới vô vàn màu sắc say mê thay vì chỉ là thứ ánh sáng khổ hạnh như các vị thầy giáo của tôi được nhìn thoáng qua. Liên quan đến rất nhiều mối quan tâm của cha tôi – hình pháp học, lập pháp, chính trị, xã luận, từ thiện – ông đã phải tham dự rất nhiều cuộc họp với các Uỷ ban, và chúng thường được tổ chức ở nhà chúng tôi. Việc sắp có một cuộc họp kiểu đó diễn ra luôn được dự đoán từ âm thanh đặc biệt vẳng lại từ đầu kia của đại sảnh rộng lớn và vang tiếng của chúng tôi. Ở đó, trong một khoang nằm dưới bậc thang đá cẩm thạch, shveitsar (người giữ cửa) nhà chúng tôi sẽ bận rộn ngồi gọt bút chì khi tôi đi học về. Để làm việc đó, ông ta dùng đến một chiếc máy cồng kềnh cổ lỗ sĩ, với một bánh xe quay, ông ta nhanh nhẹn xoay tay nắm của cái bánh xe ấy trong lúc tay còn lại giữ một cái bút chì được nhét vào lỗ ở bên cạnh máy. Suốt nhiều năm liền, ông ta đã là kiểu “đầy tớ trung thành” nhàm chán nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra, đầy những kiểu hài hước và hiểu biết kỳ quặc, với cái kiểu điệu đàng vuốt cặp ria mép, đầu tiên là bên phải rồi đến bên trái, bằng hai ngón tay, và một mùi cá rán phảng phất luôn bám chặt lấy ông: nó xuất phát từ buồng ở bí ẩn của ông trong tầng hầm, nơi ông có một bà vợ béo phì cùng hai đứa con song sinh – một cậu học sinh trạc tuổi tôi và một cô bé sầu thảm, ủ rũ có cặp mắt lác màu xanh lam cùng những lọn tóc màu đồng; nhưng công việc gọt bút chì ấy hẳn đã làm ông già Ustin tội nghiệp phát ngấy lên – và tôi sẵn sàng thông cảm với ông ta, chính tôi cũng chỉ viết lách bằng chiếc bút chì sắc gọn nhất của mình, phải giữ mấy bó bút chì B3 trong các ống bút quanh mình, và xoa tay cầm của cái dụng cụ kia cả trăm lần một ngày (nó được gắn vào mép bàn tôi), nhanh chóng chất đống đám mùn gỗ màu nâu trong ngăn kéo nhỏ của nó. Sau này chúng tôi mới biết, từ lâu ông ta đã liên hệ với cảnh sát chìm của Sa hoàng – tất nhiên họ chỉ là những gã lính mới so với lính của Dzerhinski hay Yagoda, nhưng vẫn khá phiền hà. Hồi đầu năm 1906 chẳng hạn, vì nghi ngờ cha tôi đang tiến hành các buổi họp bí mật ở Vyra, cảnh sát đã nhờ đến dịch vụ của Uston. Vì lý do đó, ông này đã cầu xin cha tôi mang ông ta về vùng nông thôn cùng trong mùa hè đó như một người hầu nam (ông ta từng là thằng bé chạy việc trong kho ở lâu đài Rukavishnikov), lời khẩn cầu dựa trên tiền đề nào đó mà tôi không còn nhớ, với mục đích sâu xa là để do thám bất kể chuyện gì đang xảy ra. Và cũng chính ông ta, Ustin có mặt ở mọi nơi ấy, trong mùa đông năm 1917- 1918 đã anh dũng dẫn các đại diện của đội quân vừa giành thắng lợi tới tận phòng làm việc của cha tôi trên tầng hai, từ đó, đi qua một phòng nhạc và khuê phòng của mẹ tôi, tới căn phòng ở góc Đông Nam nơi tôi ra đời, và tới cái ngách trong tường, tới chỗ chiếc vương miện màu lửa, thứ được cho là phần thưởng tương xứng cho con Swallowtail mà ông ta từng có lần bắt cho tôi.

Khoảng 8 giờ tối, tiền sảnh sẽ thành nơi chứa nhiều chiếc áo choàng dài và bọc giày. Ở phòng hội họp cạnh thư viện, bên một chiếc bàn dài phủ vải len (nơi đặt những chiếc bút chì nhọn hoắt xinh đẹp kia), cha tôi cùng các đồng nghiệp của ông sẽ tụ tập lại để bàn về các bước phản đối Sa hoàng. Bên trên tiếng trò chuyện, một chiếc đồng hồ cao ở góc nhà tối om sẽ bật ra những tiếng chuông Westminster; và ngoài phòng hội họp là những khoảng sâu kỳ bí – các phòng kho, một đợt cầu thang uốn lượn, một kiểu phòng để đồ khô – nơi em họ Yuri và tôi thường ghé lại cùng những khẩu súng đã rút sẵn trên đường tới Texas, và cũng ở đó, một tối nọ, cảnh sát đã gài vào một gã gián điệp béo ú, trì độn. Lúc bị phát hiện, gã đang vật vã quỳ trên hai đầu gối trước mặt thủ thư của chúng tôi, Lyudmila Borisovna Grinberg. Nhưng làm thế nào mà tôi có thể bàn về tất cả những chuyện này với các giáo viên ở trường?

5

Báo chí phản động không lúc nào ngừng tấn công đảng của cha tôi, và tôi đã khá quen thuộc với những bức biếm họa ít nhiều độc địa thỉnh thoảng vẫn xuất hiện – cha tôi và Milyukov đang dâng Thánh Nga trên một chiếc đĩa cho Thế giới Do Thái và những thứ kiểu như vậy. Nhưng một ngày kia, tôi nhớ là mùa đông năm 1911, tờ báo hùng mạnh nhất của phe cánh hữu đã thuê một tay nhà báo xấu xa để nhào nặn ra một câu chuyện thô bỉ với những lời bóng gió mà cha tôi không thể bỏ qua. Vì gã tác giả thực thụ của bài báo đã quá nổi danh bất lương tới mức “không đáng được đấu tay đôi” (neduelesposobniy, như quy tắc đấu tay đôi của người Nga đã chỉ ra), cha tôi buộc phải gọi tay biên tập có phần ít nhơ nhuốc hơn thế của tờ báo đã cho đăng bài này.

Một cuộc đấu tay đôi kiểu Nga là chuyện nghiêm trọng hơn nhiều so với sự kiện tương tự thường thấy ở Paris. Tay biên tập kia mất mấy ngày mới quyết định có chấp nhận lời thách đấu ấy hay không. Trong ngày cuối cùng của thời hạn này, một ngày thứ Hai, tôi vẫn đến trường như mọi khi. Hệ quả của việc tôi không đọc báo ấy là tôi hoàn toàn không biết gì về toàn bộ vụ việc. Lúc nào đó trong ngày hôm ấy, tôi bỗng nhận ra một tờ tạp chí được mở tới một trang nhất định truyền từ tay người này sang người khác và tạo ra những tiếng cười rúc rích. Một cú bổ nhào đúng lúc giúp tôi nắm trong tay thứ hóa ra là số mới nhất của một tuần báo rẻ tiền, trong đó có đăng bài chi tiết về lời thách đấu của cha tôi, kèm theo những bình luận ngớ ngẩn về việc ông nhường cho địch thủ của mình chọn vũ khí. Những lời moi móc xảo quyệt được đưa ra về việc cha tôi đã phải viện tới một tục lệ cổ hủ mà chính ông đã từng chỉ trích trong các bài viết của mình. Trong đó cũng đề cập đến số gia nhân và số bộ trang phục của ông. Tôi phát hiện ra ông đã chọn người hỗ trợ cho mình là người em rể, Đô đốc Kolomeytsev, người hùng trong cuộc chiến với Nhật. Trong trận chiến Tsuchima, ông chú của tôi, khi đó còn là đại tá, đã lái được chiếc tàu khu trục của mình đến bên một tàu mẹ đang bốc cháy và cứu sống vị Tổng Tư lệnh Hải quân.

Sau giờ học, tôi xác định được tờ tạp chí ấy thuộc về một trong những người bạn thân nhất của tôi. Tôi buộc tội cậu ta phản bội và báng bổ. Trong trận ẩu đả sau đó, cậu ta va phải một cái bàn, kẹt chân vào mối nối và bị gãy cổ chân. Cậu phải nằm mất một tháng, nhưng đã hào hiệp giấu phần lỗi của tôi khỏi gia đình cậu lẫn các giáo viên của chúng tôi trong vụ này.

Cảm giác tội lỗi khi trông thấy cậu bạn được đưa xuống tầng dưới đã chìm nghỉm trong nỗi khổ sở chung chung của tôi. Vì lý do này khác, hôm đó không có chiếc ô tô nào đến đón tôi, và trong cuốc xe lạnh lẽo, đáng sợ và chậm khủng khiếp trên một cái xe trượt tuyết thuê, tôi đã có khối thời gian để ngẫm nghĩ về sự việc. Giờ thì tôi đã biết tại sao ngày hôm trước mẹ tôi chỉ dành rất ít thời gian cho tôi và đã không xuống nhà ăn tối. Tôi cũng đã hiểu ra gần đây thầy Thernant, một maitre d’armes1 giỏi hơn cả Loustalot, đã huấn luyện cho cha tôi làm gì. Đối thủ của ông sẽ chọn gì, tôi không ngừng tự hỏi – lưỡi gươm hay viên đạn? Hay lựa chọn đã được đưa ra rồi? Tôi thận trọng đem hình ảnh yêu thương, thân thuộc, tràn đầy sức sống lúc cha mình đấu kiếm và cố chuyển cái hình ảnh ấy, bỏ qua mặt nạ và đệm ngực, tới sàn đấu tay đôi ở một nhà kho hay trường dạy cưỡi ngựa nào đấy. Tôi mường tượng cảnh ông và đối thủ của mình, cả hai đều để ngực trần, mặc quần đen, trong trận đấu khốc liệt, những chuyển động mạnh mẽ của họ được đánh dấu bằng sự lúng túng kỳ lạ mà ngay cả những tay kiếm hoa mỹ nhất cũng không thể tránh khỏi trong một cuộc đối đầu thực sự. Bức tranh ấy quá kinh tởm, quá sống động đến mức tôi cảm nhận được cả sự chín muồi và trần trụi của một trái tim đang đập điên cuồng sắp sửa bị cắt ra, đến mức tôi thấy chính mình đang hy vọng có một thứ vũ khí mà lúc ấy có vẻ trừu tượng hơn. Nhưng chẳng bao lâu sau tôi còn rơi vào nỗi buồn sâu sắc hơn.

Khi chiếc xe trượt tuyết lao đi dọc Đại lộ Nevski, nơi những ánh đèn mờ đang bập bềnh trong bóng tối dần buông xuống, tôi nghĩ về khẩu Browning đen nặng nề mà cha tôi giữ ở ngăn kéo trên bên tay phải của bàn làm việc. Tôi biết rõ về khẩu súng ấy như tất cả những thứ khác, nổi bật hơn trong văn phòng ông; một objets d’art2 bằng pha lê hay một loại đá có vân là mốt hồi đó; những bức ảnh gia đình sáng bóng; một bức tranh lớn của Perugino được chiếu sáng dịu; những lọ dầu nhỏ màu vàng như mật của Hà Lan; và ngay bên trên cái bàn là bức chân dung màu hồng pastel đổ bóng của mẹ tôi do Bakst vẽ: họa sĩ đã vẽ khuôn mặt bà trông nghiêng ba phần tư, làm nổi bật những đường nét tinh tế trên đó một cách tuyệt đẹp – cú vẩy cọ lên trên tạo hình mái tóc màu tro (nó đã chuyển sang hoa râm từ hồi bà mới ngoài hai mươi), đường cong thuần khiết của vầng trán, cặp mắt màu xanh của chim bồ câu và đường viền cổ duyên dáng.

1 Thầy dạy đấu kiếm

2 Tác phẩm nghệ thuật

Khi tôi thúc giục ông lái xe già, rúm ró như cái giẻ đi nhanh hơn, ông ta chỉ đơn giản dựa người sang một bên với cái kiểu cử động nửa vời đặc biệt của cánh tay, để khiến con ngựa của ông ta tin rằng ông sắp vung chiếc roi đang đặt bên cạnh bàn chân phải đi ủng; và thế là đã đủ để con ngựa nhỏ bờm xờm diễn một màn tăng tốc vờ vịt y như tay lái xe đã làm lúc giả vờ mang chiếc knutishko của mình ra. Trong trạng thái gần như ảo ảnh do cuốc xe giữa trời tuyết đổ của chúng tôi gây ra, tôi diễn lại tất cả những cuộc đấu tay đôi nổi tiếng mà một cậu bé Nga biết rất rõ. Tôi đã trông thấy Pushkin, bị thương chí mạng ngay lượt súng đầu tiên, nghiêm trang ngồi dậy để nổ súng vào d’Anthès. Tôi trông thấy Lermontov mỉm cười khi đối đầu với Martinov. Tôi trông thấy Sobinov khỏe mạnh trong vai Lenski sụp xuống và làm vũ khí bay vào dàn nhạc. Không một nhà văn Nga nào dù nổi tiếng hay không lại thất bại khi mô tả một uni rencontre1, một cuộc gặp ác ý, tất nhiên luôn là kiểu duel à volonté2 kinh điển (không phải màn biểu diễn quay-lưng-cùng-tiến-lên-và-quay-lại-nổ-súng ngớ ngẩn đã nổi tiếng trong phim ảnh và hoạt hình).

1 Cuộc gặp gỡ

2 Đấu tay đôi theo ý muốn

Trong những gia đình quyền quý, luôn có những cái chết trên sàn đấu tay đôi trong những năm gần đây. Dần dần cỗ xe trượt mơ màng của tôi cũng tiến lên phố Morskaya, và những cái bóng mờ của các đấu sĩ tay đôi cũng chậm rãi tiến lên gặp nhau và giương súng lên bắn – vào lúc bình minh, trên trảng cỏ ẩm ướt của một trang viên cũ kỹ nào, trên bãi tập quân sự u ám nào đó, hay trên con đường phủ tuyết nằm giữa hai hàng cây linh sam.

Và đằng sau tất cả lại có một miền cảm xúc đặc biệt mà tôi đã gắng hết sức để né tránh, nhỡ khi tôi òa lên khóc nức nở, và đó chính là tình bạn âu yếm ẩn dưới lòng kính trọng tôi dành cho cha mình; sức quyến rũ đến từ sự đồng điệu hoàn hảo của chúng tôi; những trận Wimbledon mà chúng tôi cùng theo dõi trên báo London; những thế cờ chúng tôi đã phá giải; những vần thơ của Pushkin được ông ngâm một cách đắc thắng nếu tôi trót nhắc tới một bài thơ kém nổi tiếng hơn nào đó trong ngày. Mối quan hệ của chúng tôi được đánh dấu bằng sự trao đổi những câu đùa vô nghĩa hàng ngày, những từ bị xuyên tạc một cách hài hước, cách nhái giọng khác cho những ngữ điệu được cho là chuẩn, và tất cả những câu đùa riêng tư vốn là mật mã bí mật của những gia đình hạnh phúc nữa. Dù có tất cả những điều đó, ông cực kỳ nghiêm khắc trong các vấn đề hành vi và thường đưa ra những lời nhận xét gay gắt khi cáu với con trẻ hay gia nhân, nhưng tính nhân văn cố hữu của ông vẫn quá lớn, nên những lời quở trách với Osip khi lấy sai áo sơ mi không thực sự là xúc phạm, tương tự như thế là kiến thức cơ bản về lòng tự trọng của một cậu bé đã lược bớt tính nghiêm trọng của một lời trách mắng và dẫn đến sự tha thứ bất ngờ. Vì thế mà tôi đã bối rối nhiều hơn là hài lòng vào một ngày nọ, khi cha tôi biết được tôi đã cố ý dùng một cái dao cạo râu cứa vào đầu gối (đến tận giờ tôi vẫn còn mang sẹo) chỉ để tránh một một bài đọc thuộc lòng trên lớp mà tôi chưa kịp thuộc, ông đã không thật sự khơi được cơn giận dữ; và sau đó lời thú nhận về một lỗi lầm tương tự từ thời thơ ấu của ông đã trở thành phần thưởng cho tôi vì không giấu giếm sự thật.

Tôi nhớ một chiều mùa hè kia (từ hồi ấy đã có vẻ như rất lâu rồi mặc dù thật ra chỉ mới bốn năm năm trôi qua) khi ông lao vào phòng tôi, chộp lấy cái vợt lưới của tôi, lao vội xuống bậc cầu thang hàng hiên – và chẳng bao lâu sau ông đã quay lại, ngón cái và ngón trỏ kẹp một con bướm cái hiếm gặp và tuyệt đẹp của giống Poplar Admirable của Nga mà ông đã trông thấy lúc nó đang tắm nắng trên chiếc lá cây dương ngoài ban công phòng làm việc của mình. Tôi nhớ những chuyến đạp xe đường dài dọc quốc lộ Luga phẳng phiu và cách rất hiệu quả mà ông dùng để trèo lên chiếc Dux yên cao của mình – với bắp chân khỏe mạnh, quần ống túm, áo khoác dạ tuýt, mũ ca rô. Chiếc xe đã được người hầu riêng mang tới chỗ hiên cho ông như kiểu nó là một chú ngựa nhỏ. Trong lúc nghiên cứu độ bóng của nó, cha tôi sẽ lôi cặp găng tay da lộn ra và kiểm tra ngay trước cặp mắt lo lắng của Osip xem liệu hai lốp đã căng đúng mức chưa. Rồi ông sẽ nắm lấy ghi-đông xe, đặt bàn chân trái lên bàn đạp bằng kim loại thò ra ở đuôi khung xe, dùng chân phải đẩy người lên ở bên kia bánh sau, và sau ba hay bốn lần đẩy mồi như thế (chiếc xe đạp giờ đã sẵn sàng chuyển động), ông nhẹ nhàng chuyển chân phải vào vị trí pê-đan, nhấc chân trái lên và ngồi vững vàng trên yên.

Cuối cùng tôi đã về đến nhà, và ngay khi bước vào tiền sảnh tôi đã nghe thấy những giọng nói lớn, vui tươi. Thời điểm trùng khớp như trong những sắp đặt trong mơ, chú tôi - ngài Đô đốc đang đi xuống cầu thang. Từ chiếu nghỉ trải thảm đỏ bên trên, nơi có bức tượng cẩm thạch của người phụ nữ Hy Lạp không tay trông chừng chiếc bát đá malachite đựng danh thiếp của khách, cha mẹ tôi vẫn đang nói chuyện với chú, và khi ông bước hẳn xuống bậc thang, ông nhìn lên với một tiếng cười và dùng chiếc găng đang cầm trong tay vỗ vào hàng chấn song bao lơn. Tôi lập tức biết rằng đã không có vụ đấu tay đôi nào cả, lời thách đấu được đáp lại bằng một lời xin lỗi, rằng mọi chuyện đều đã ổn. Tôi chạy ngang chỗ chú và tới được chiếu nghỉ. Tôi lại trông thấy khuôn mặt thanh thản mọi ngày của mẹ, nhưng tôi không nhìn lên mặt cha. Và đó là khi việc ấy xảy ra: trái tim tôi phồng lên trong lồng ngực như làn sóng biển đã mang chiếc Buyniy dâng lên bên cạnh con tàu Suvorov đang bốc cháy, và tôi không có chiếc khăn tay nào, mười năm trôi qua trước khi vào một đêm năm 1922, trong một bài giảng công khai ở Berlin, khi cha tôi che chắn cho người thuyết trình (ông bạn cũ Milukov) trước những loạt đạn của hai tên phát-xít Nga, tuy ông đã anh dũng hạ được một trong hai kẻ ám sát nhưng lại bị tên còn lại sát hại. Nhưng không có bóng tối nào từ sự kiện trong tương lai ấy phủ lên những bậc thang sáng sủa trong ngôi nhà ở St. Petersburg của chúng tôi hôm ấy; bàn tay to lớn mát lạnh đặt trên đầu tôi đã không run rẩy, và mấy đường đi trong một thế cờ cực khó vẫn còn chưa bị trộn lẫn trên bàn cờ.