1
Tôi sắp đưa ra vài hình chiếu, nhưng trước hết xin hãy để tôi chú thích về thời gian và địa điểm của chúng đã. Em trai tôi và tôi sinh ra ở St. Petersburg, thủ đô của Đế quốc Nga, cậu ấy là vào giữa tháng Ba năm 1900, còn tôi ra đời sớm hơn mười một tháng. Các bảo mẫu người Anh và Pháp mà chúng tôi có từ thời ấu thơ dần dà cũng được trợ giúp, và cuối cùng là thay thế hoàn toàn bằng các gia sư nói tiếng Nga, hầu hết họ đều là các cử nhân của trường đại học ở thủ đô. Kỷ nguyên gia sư này bắt đầu từ khoảng năm 1906 và kéo dài gần trọn một thập kỷ sau đó, từ năm 1911 thì trùng lặp với thời học phổ thông của chúng tôi. Các gia sư này lần lượt ở cùng chúng tôi – tại dinh thự ở St. Petersburg vào mùa đông, và phần còn lại trong năm thì hoặc ở điền trang cách thành phố tám mươi cây số, hoặc ở một khu nghỉ dưỡng tại nước ngoài nào đấy mà chúng tôi thường ghé thăm trong mùa thu. Ba năm là khoảng thời gian tối đa để tôi (tôi thường giỏi làm mấy việc này hơn cậu em trai) làm bất kỳ chàng trai trẻ gan dạ nào trong số đó kiệt sức.
Trong lúc chọn gia sư cho chúng tôi, có vẻ như cha tôi đã nảy ra một ý tưởng ngây thơ là mỗi lần lại tiếp cận với đại diện của một tầng lớp hoặc chủng tộc khác nhau, để cho chúng tôi tiếp xúc với mọi luồng gió đã quét qua Đế quốc Nga. Tôi không nghĩ việc đó hoàn toàn là kế hoạch cố ý của cha, nhưng khi nhìn lại tôi thấy khuôn mẫu này rõ ràng đến mức đáng ngờ, và hình ảnh các vị gia sư này xuất hiện trong chiếc đĩa phản quang của ký ức cũng như rất nhiều dương bản từ đèn chiếu1 vậy.
1 Dụng cụ quang học dùng để chiếu các hình ảnh phóng đại của hình in trên phim hay giấy lên màn ảnh
Vị thầy giáo làng đáng ngưỡng mộ và khó quên mà vào mùa hè năm 1905 đã dạy chúng tôi học đọc tiếng Nga thường chỉ tới mỗi buổi vài tiếng, do đó không thực sự thuộc về chuỗi sự kiện này. Tuy nhiên, ông đã giúp đỡ bằng cách gia nhập phần đầu và kết thúc của nó, vì ký ức cuối cùng của tôi về ông liên quan đến một kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn năm 1915 mà em trai và tôi trải qua cùng cha với ông Volgin – gia sư cuối cùng và cũng là người tệ nhất – cùng trượt tuyết ở vùng đồng quê phủ đầy tuyết quanh điền trang của chúng tôi bên dưới một bầu trời đặc sệt, gần như tím thẫm. Người bạn cũ của chúng tôi mời chúng tôi tới nơi ở của mình trong tòa nhà trường học mà băng đóng thành trụ ngoài hiên để dự một bữa mà thầy gọi là ăn nhẹ; thực ra nó là một bữa ăn nhiều món và được chuẩn bị bằng nhiều tình yêu thương. Tôi vẫn còn trông thấy khuôn mặt rạng rỡ của thầy và niềm vui được ngụy tạo đẹp đẽ của cha tôi để chào đón một món ăn (thỏ rừng nướng trong xốt kem chua) mà tôi biết là vốn ông rất ghét. Căn phòng bị sưởi quá đà. Đôi giày trượt tuyết đang tan băng của tôi không phải là loại chống nước như lẽ ra phải thế. Mắt tôi, vẫn còn đang nhức nhối vì lớp tuyết lóa mắt, không ngừng cố giải mã một thứ được gọi là bức chân dung “in nghệ thuật” của Tolstoy1 trên bức tường gần đó. Giống như cái đuôi của một chú chuột trên một trang nào đó của Alice ở Xứ sở thần tiên, nó hoàn toàn được ghép lại từ các chữ in. Cả câu chuyện hoàn chỉnh của Tolstoy (“Master and Man”2) đã bị dùng ra để tạo thành gương mặt râu ria của tác giả, mà vô tình ông chủ nhà của chúng tôi lại có nhiều nét tương đồng. Chúng tôi mới chuẩn bị tấn công chú thỏ bất hạnh kia thì cánh cửa mở tung và Hristofor, một anh người hầu mắt xanh, đội chiếc khăn trùm đầu của phụ nữ ào vào qua cửa hông, với một nụ cười ngốc nghếch và một cái rổ to đựng đồ ăn trưa, gói ghém đủ các món ăn và rượu mà bà nội kém lịch thiệp của tôi (người đang nghỉ đông tại Batovo) đã cho là cần thiết phải gửi tới, phòng khi các món nhà thầy giáo không hợp miệng. Trước khi chủ nhà của chúng tôi kịp bị tổn thương, cha tôi đã cho gửi lại toàn bộ cái rổ ấy mà không hề đụng đến, kèm một lời nhắn có lẽ đã làm bà cụ chỉ có ý tốt ấy lấy làm khó hiểu, như hầu hết những hành động của cha luôn làm bà khó hiểu tương tự. Trong chiếc váy lụa phồng và găng hở ngón dạng lưới, như một món đồ cổ thay vì một người đang sống, bà dành hầu hết cuộc đời mình trên chiếc ghế trường kỷ, tay phe phẩy chiếc quạt ngà voi. Một hộp boules de gomme3, hoặc một cốc sữa hạnh nhân luôn trong tầm tay của bà, cũng như một cái gương tay, vì bà dùng nó để dặm lại phấn bằng một miếng bông thoa lớn màu hồng, cứ khoảng mỗi giờ một lần, nốt ruồi nhỏ trên má bà trồi lên trên hết thảy đám phấn ấy, như một quả lý chua. Bất chấp bản chất yếu ớt trong hoạt động thường ngày của mình, bà vẫn tỏ ra là một người phụ nữ cực kỳ khó chịu và kiên quyết ngủ gần một cái cửa sổ mở toang suốt cả năm. Một sáng nọ, sau trận mưa tuyết suốt đêm, hầu gái của bà tìm thấy bà đang nằm dưới một lớp tuyết phủ lóng lánh, chúng đã đáp kín cả giường ngủ lẫn bà nội, mà không hề xâm phạm vào giấc ngủ ngon lành của bà.
1 Lev Nikolayevich Tolstoy: tiểu thuyết gia người Nga. Ông được yêu mến khắp thế giới và được coi là tiểu thuyết gia vĩ đại nhất trong tất cả các nhà tiểu thuyết gia.
2 Chủ và tớ
3 Kẹo cao su
Nếu bà có yêu mến ai, thì chỉ có duy nhất cô con gái út Nadezhda Vonlyarlyarski, vì lợi ích của cô, bà đã đột ngột bán Batovo năm 1916, trong một thỏa thuận không đem lại lợi lộc gì cho bất kỳ ai giữa thời buổi dậy sóng đen tối ấy trong lịch sử đế quốc. Bà than phiền với tất cả họ hàng của chúng tôi về những thế lực đen tối đã quyến rũ đứa con trai tài năng của bà đến chỗ khinh miệt một sự nghiệp “huy hoàng” dưới trướng Nga hoàng như các bậc cha anh của cha đã theo đuổi. Điều mà bà cảm thấy vô cùng khó hiểu là chuyện cha tôi, người mà bà biết là hoàn toàn tán thưởng mọi niềm vui từ sự giàu có tột bậc, lại có thể phá hoại chính niềm vui ấy bằng cách trở thành một người tự do, từ đó mà góp phần mang đến một cuộc cách mạng mà về lâu về dài, như bà đã dự đoán chính xác, sẽ khiến ông khánh kiệt.
2
Thầy dạy đọc của chúng tôi là con trai một người thợ mộc. Trong chuỗi hình chiếu từ đèn lồng phép thuật tiếp theo đây, bức ảnh đầu tiên cho thấy một chàng trai trẻ mà chúng tôi gọi là Ordo, người con trai sáng láng của một vị trợ tế trong Nhà thờ Công giáo Hy Lạp. Trong những cuộc đi bộ với em trai tôi và tôi vào mùa hè mát mẻ năm 1907, thầy ấy mặc một chiếc áo choàng kiểu Byron màu đen có móc khóa bạc hình chữ S. Ở sâu trong cánh rừng của Batovo, tại một điểm gần dòng suối nơi bị đồn thổi là có bóng ma của một kẻ bị treo cổ xuất hiện, Ordor sẽ diễn một màn tục tĩu và ngốc nghếch khiến em trai tôi và tôi phải la hét mỗi lần đi ngang qua đó. Cúi đầu xuống và lật phật cánh áo choàng theo một kiểu kỳ quặc, giống ma cà rồng, thầy sẽ chầm chậm nhảy vòng quanh một cây dương sầu thảm. Một buổi sáng ướt át kia, trong lúc thực hiện nghi lễ ấy, thầy đã đánh rơi hộp thuốc lá của mình, và khi giúp thầy tìm nó, tôi khám phá ra hai mẫu vật mới vừa ra ràng của loài ngài Amur, rất hiếm thấy trong vùng chúng tôi – những sinh vật đáng yêu, cánh mượt như nhung, màu xám ánh tím – trong cảnh phối ngẫu bình yên, đu bám mấy cặp chân phủ lông của chúng lên một nhánh cỏ ở gốc cây. Vào mùa thu của cùng năm đó, thầy Ordo đã đi cùng chúng tôi tới Biarritz, và vài ngày sau thì đột ngột ra đi, bỏ lại món quà mà chúng tôi đã tặng cho thầy trên gối, một con dao cạo râu an toàn hiệu Gillette, cùng một lời nhắn được đính kèm. Rất hiếm khi xảy ra tình huống tôi không biết chắc liệu một ký ức là của riêng tôi hay đã được kể lại cho tôi, nhưng trong trường hợp này đúng là tôi có do dự, đặc biệt là vì, mãi rất lâu sau này, mẹ tôi, trong những lúc tâm trạng hoài niệm của bà, thường nhắc một cách vui vẻ tới ngọn lửa mà bà đã vô tình khơi nên. Có vẻ như tôi vẫn còn nhớ một cánh cửa hé mở vào phòng khách, và trong đó, giữa sàn nhà, Ordor, thầy Ordo của chúng tôi, đang quỳ trên hai đầu gối và lắc lư hai bàn tay trước mặt bà mẹ trẻ, xinh đẹp, đờ ra vì sự xuất hiện bất ngờ của tôi. Việc có vẻ như tôi đã trông thấy, từ khóe mắt mình trong ký ức ấy, những chuyển động mấp mô của chiếc áo choàng lãng mạn quanh đôi vai run rẩy của Ordor, đã gợi ý rằng tôi đã chuyển phần nào điệu vũ trong rừng lúc trước tới căn phòng mờ tối ở căn hộ tại Biarritz (chính bên dưới những cửa sổ của căn hộ này, trong một khu vực không bị chăng dây thừng của quảng trường, một quả bóng bay khổng lồ màu mù tạt đã được Sigismond Lejoyeux, một phi hành gia địa phương, thổi căng).
Tiếp đến là một người Ukraine, một nhà toán học cởi mở với bộ ria mép màu đen và nụ cười tỏa sáng. Thầy trải qua một phần của mùa đông năm 1907 - 1908 với chúng tôi. Cả thầy cũng có những thành tựu, mà trong đó đặc biệt quyến rũ là mẹo làm đồng xu biến mất. Một đồng xu, đặt trên một tờ giấy, đặt lên trên nó là một chiếc cốc vại và vụt cái, nó biến mất. Hãy lấy một chiếc cốc thủy tinh bình thường. Dính lên miệng nó một mẩu giấy hình tròn vừa khít. Tờ giấy cần được kẻ vạch (hoặc vẽ hoa văn khác) – điều này sẽ làm tăng ảo ảnh. Đặt lên một tờ giấy được kẻ vạch tương tự một đồng xu nhỏ (một đồng hai mươi kopek là được). Mạnh tay úp cái cốc bên trên đồng xu, đảm bảo sao cho hai đường kẻ hay hoa văn khớp với nhau. Sự trùng khớp của các hoa văn chính là những điều kỳ diệu của tự nhiên. Những điều kỳ diệu ấy bắt đầu gây ấn tượng với tôi từ khi còn rất nhỏ. Vào một trong những ngày Chủ nhật được nghỉ của thầy ấy, nhà ảo thuật tội nghiệp gục ngã trên phố và bị cảnh sát tống vào một buồng giam lạnh lẽo cùng cả tá kẻ say xỉn khác. Thực ra, thầy bị một chứng bệnh về tim mà mấy năm sau đó đã trở thành nguyên nhân cái chết của thầy.
Bức ảnh tiếp theo trông như thể nó đã bị quay ngược trên màn ảnh. Nó cho thấy vị gia sư thứ ba của chúng tôi đang đứng bằng đầu. Đó là thầy Lett to lớn, khỏe không tưởng, người có thể đi bằng tay, nhấc những quả tạ khổng lồ, chơi đùa với những chiếc tạ tay, và chỉ trong nháy mắt có thể lấp đầy căn phòng bằng thứ mùi mồ hôi của cả một đơn vị đồn trú. Khi nào thầy thấy thích hợp để trừng trị tôi vì một lỗi cư xử nhẹ nào đó (chẳng hạn như tôi nhớ là làm một viên bi của trẻ con rơi từ tầng trên xuống mái đầu hấp dẫn, khó nhằn của thầy trong lúc thầy đi xuống nhà), là thầy sẽ chọn ngay một phương pháp mang tính giáo dục cực cao là gợi ý rằng thầy và tôi nên xỏ găng đấm bốc vào để đấu tay đôi. Sau đó thầy sẽ đấm thẳng vào mặt tôi bằng sự chính xác khiến tôi đau buốt. Mặc dù tôi thích cách này hơn là những bài phạt mà Mademoiselle sẽ nghĩ ra, chẳng hạn như bắt tôi chép lại hai trăm lần câu tục ngữ Qui aime bien, chatie bien1, tôi không nhớ ông thầy tốt lành ấy khi thầy rời đi sau một tháng bão tố lưu lại.
1 Thương cho roi cho vọt
Tiếp đến là một người Ba Lan. Một sinh viên y khoa đẹp trai, với cặp mắt nâu ướt át và mái tóc bóng nhẫy, trông hơi giống diễn viên người Pháp Max Linder, một diễn viên hài điện ảnh nổi danh. Max trụ được từ năm 1908 tới 1910, và dành được lòng ngưỡng mộ của tôi vào một ngày đông ở St. Petersburg khi một sự náo động đột ngột cắt ngang cuốc đi bộ buổi sáng thường ngày của chúng tôi. Một đám Cossack khua gươm múa kiếm, với những khuôn mặt đần độn đang thúc những con ngựa nhảy chồm chồm, vênh váo và khụt khịt về phía đám đông náo nhiệt. Rất nhiều mũ và ít nhất ba chiếc giày cao su đang nằm trên tuyết. Trong một thoáng, có vẻ như một trong số chúng đang hướng về phía chúng tôi, và tôi thấy thầy Max đã rút hờ từ trong túi áo ngực ra một khẩu tự động nhỏ mà tôi lập tức cảm thấy thích thú – nhưng không may là chuyện ồn ào ấy lắng xuống. Có một, hai lần thầy đã đưa chúng tôi tới thăm anh trai thầy, một tu sĩ Công giáo La Mã lỗi lạc, gầy hốc hác. Hai bàn tay trắng bệch của ông ta lơ đãng huơ trên hai mái đầu Công giáo Hy Lạp nhỏ bé của chúng tôi, trong lúc Max và ông ta bàn bạc về chính trị hay các vấn đề gia đình bằng một dòng lũ tiếng Ba Lan toàn âm gió. Tôi mường tượng ra cha tôi trong một ngày mùa hè ở vùng quê, cùng tranh đua với thầy Max trong trò bắn súng – găm lỗ đạn lên tấm biển KHÔNG SĂN BẮN đã rỉ sét cắm ở rừng của chúng tôi. Thầy Max lịch thiệp này là một chàng trai sôi nổi, do đó tôi từng bị chưng hửng khi thầy phàn nàn về chứng đau nửa đầu và uể oải từ chối tham gia đá bóng cùng tôi quanh sân hay đi bơi ở sông. Giờ thì tôi đã biết là mùa hè năm đó thầy có mối tình vụng trộm với một người phụ nữ đã có chồng, mà điền trang nhà bà ta chỉ cách nhà tôi khoảng hơn chục cây số. Vào thì giờ rảnh rỗi trong ngày, thầy sẽ lẻn ra chỗ cũi chó để cho mấy chú chó canh nhà bị xích của chúng tôi ăn và chơi đùa cùng chúng. Chúng được thả ra vào khoảng 11 giờ đêm để đi tuần quanh nhà, và thầy sẽ phải đối đầu với chúng giữa đêm tối mịt mùng khi lẻn ra ngoài tới chỗ bụi rậm nơi một chiếc xe đạp với đầy đủ phụ kiện – chuông, bơm xe, bộ dụng cụ trong túi da màu nâu, thậm chí cả nẹp quần tây – đã được một đồng minh bí mật chuẩn bị cho thầy, chính là người hầu riêng người Ba Lan của cha tôi. Những con đường đầy ổ gà cùng đường mòn lồi lõm trong rừng sẽ đưa thầy Max sốt ruột tới điểm hẹn tình yêu, vốn là một cái lều đi săn – đúng truyền thống huy hoàng của các cuộc ngoại tình tao nhã. Làn sương giá buốt buổi sớm mai cùng bốn chú Great Dane với trí nhớ ngắn hạn sẽ chứng kiến thầy đạp xe trở về, và lúc 8 giờ sáng, một ngày mới lại bắt đầu. Tôi tự hỏi phải chăng thầy không có chút nhẹ nhõm nhất định khi rời bỏ khung cảnh của những buổi khám phá ban đêm ấy vào mùa thu cùng năm (1909), để tháp tùng chúng tôi trong chuyến đi tới Biarritz thứ hai. Với lòng sám hối và sùng đạo, thầy đã lấy vài ngày phép để đi thăm Lourdes cùng một cô gái Ai-len xinh đẹp và nhanh nhẹn, chính là bảo mẫu của Colette, bạn chơi cùng yêu thích của tôi tại plage. Max bỏ chúng tôi năm sau đó, vì một công việc tại phòng chụp X-quang của bệnh viện St. Petersburg, và sau này, khoảng thời gian giữa hai cuộc Đại chiến, theo tôi hiểu, thầy đã trở thành một ngôi sao ngành y ở Ba Lan.
Sau người Công giáo đến lượt người Tin lành – một người theo đạo Luther của nhánh Do Thái. Thầy sẽ xuất hiện ở đây dưới tên Lenski. Em trai tôi và tôi đi cùng thầy tới Đức, hồi cuối năm 1910, và sau khi chúng tôi quay lại vào tháng Một năm sau, và bắt đầu đi học ở St. Petersburg, Lenski ở lại trong khoảng ba năm để giúp chúng tôi làm bài tập về nhà. Chính trong khoảng thời gian thầy trị vì mà Mademoiselle, người đã ở với chúng tôi từ mùa đông năm 1905, rốt cuộc đã phải từ bỏ cuộc đấu tranh với những người Moskva xâm lược mà quay về Lausanne. Lenski sinh ra trong cảnh cơ hàn và thích nhớ lại rằng, trong khoảng thời gian từ lúc tốt nghiệp trường Gymnasium tại thị trấn quê nhà bên bờ Biển Đen đến lúc được nhận vào Đại học St. Petersburg, thầy đã tự kiếm sống bằng cách trang trí đá cuội lấy từ bờ biển đầy loại đá này với phong cảnh biển và bán chúng làm chặn giấy. Thầy có gương mặt thuôn dài hồng hào, lông mi ngắn, cặp mắt trần trụi kỳ lạ đằng sau chiếc kính kẹp mũi không gọng và cái đầu cạo nhẵn xanh rì. Chúng tôi ngay lập tức khám phá ra ba điều ở thầy: thầy là một thầy giáo tuyệt vời; thầy không có một chút hài hước nào; và ngược lại với các gia sư cũ của chúng tôi, thầy là kiểu người cần chúng tôi bảo vệ. Cảm giác an tâm thầy có bất kể khi nào cha mẹ tôi ở gần sẽ bị vỡ vụn ngay khi họ vắng mặt chỉ bằng vài lời hóm hỉnh của các bà cô của chúng tôi. Với họ, những bài luận gay gắt của cha tôi chống lại các cuộc hành quyết người Do Thái và những hành vi khác của chính quyền chẳng qua chỉ là một thứ tùy hứng của một quý tộc ương ngạnh, và tôi thường nghe lỏm thấy họ bàn tán với vẻ sợ sệt về nguồn gốc của thầy Lenski cùng “những thử nghiệm điên rồ” của cha tôi. Sau mỗi bận như thế, tôi sẽ tỏ ra cực kỳ thô lỗ với họ, rồi sau đấy lại bật khóc òa lên trong lúc trốn vào một buồng vệ sinh nào đó. Không hẳn vì tôi rất thích thầy Lenski. Có điều gì đó rất khó chịu trong giọng nói khô khốc của thầy, sự gọn gàng thái quá, cái cách thầy không ngừng lau kính bằng một cái giẻ đặc biệt hay dũa móng tay bằng một dụng cụ đặc biệt, cách nói chuyện đúng ngữ pháp một cách giả tạo và có lẽ, hơn tất cả, là thói quen buổi sáng kỳ diệu của thầy. Thầy sẽ hành quân (dường như bước thẳng từ giường ra, nhưng đã mang sẵn giày và mặc quần với hai cái dây đeo quần màu đỏ sau lưng, cùng một chiếc áo vest như lưới bao bọc lấy phần bụng phệ nhiều lông của thầy) tới bồn rửa mặt gần nhất và hạn chế lễ tẩy trần của mình tại đó chỉ với một lần nhúng kỹ khuôn mặt hồng, cái sọ xanh và cần cổ béo, tiếp theo là hành động xì mũi mạnh mẽ kiểu người Nga, sau đó nữa thầy lại hành quân, với cùng những bước chân có mục đích như vậy, nhưng giờ thì nước nhỏ tong tong còn mắt thì mù dở, quay lại với phòng ngủ của mình, nơi thầy cất ở chỗ bí mật bộ ba khăn tắm bất khả xâm phạm (tình cờ thầy lại là người có tính brezgliv quá mức, theo nghĩa không thể dịch được của tiếng Nga, tức là thầy sẽ rửa tay sau mỗi lần chạm vào tiền hay lan can).
Thầy phàn nàn với mẹ tôi rằng Sergey và tôi là hai người nước ngoài bé nhỏ, kỳ quặc, công tử bột, snobi1, “thờ ơ một cách bệnh tật”, như cách dùng từ của thầy, với Goncharov, Grigorovich, Korolenko, Stanyukovich, Mamin-Sibiryak, và những nhà văn ngán ngẩm khác (so với các “nhà văn địa phương” người Mỹ) mà theo thầy, tác phẩm của những người này “thu hút mọi bé trai bình thường.” Trước sự khó chịu tột bậc của tôi, thầy đã khuyên cha mẹ tôi để cho hai con trai của ông bà – ba đứa con nhỏ hơn không thuộc địa hạt của thầy – sống một cuộc đời dân chủ hơn, điều đó có nghĩa là, lấy ví dụ, chuyển từ khách sạn Adlon ở Berlin sang một căn hộ rộng lớn nằm trong một dinh thự u ám, trên một con đường không có sức sống và đánh đổi những chuyến tàu tốc hành quốc tế đắp thảm với những chuyếnSchnellzugs1 vừa rung lắc vừa rít róng, có mặt sàn bẩn thỉu và ám khói xì gà. Ở các thành phố nước ngoài, cũng như ở St. Petersburg, thầy sẽ đứng chết lặng trước mặt các cửa hàng mà ngắm nghía những món đồ không hề làm chúng tôi bận tâm. Thầy sắp kết hôn, không có gì ngoài đồng lương của mình, và đang hoạch định ngôi nhà tương lai với sự khéo léo và chăm chút bậc nhất. Thi thoảng cũng có những cơn bốc đồng chen ngang vào ngân sách của thầy. Một ngày nọ, khi chú ý thấy một bà già xấu xí bẩn thỉu đang hau háu nhìn vào một chiếc mũ màu mận chín được trưng bày ở cửa hàng quần áo nữ, thầy đã mua nó cho bà ta – và mất khối thời gian để bà khỏi bám theo. Em trai tôi và tôi kiên nhẫn lắng nghe những giấc mộng ban ngày chi tiết của thầy trong lúc thầy phân tích từng góc một của căn hộ ấm cúng nhưng tiết kiệm mà thầy thầm vẽ trong đầu cho vợ và chính mình. Đôi khi trí tưởng tượng của thầy sẽ bay cao. Có lần trí tưởng tượng ấy hạ cánh xuống một chiếc đèn trần đắt đỏ ở Alexandre, một cửa hàng ở St. Peterburgs bày bán những món đồ cổ chán ngắt của giai cấp tư sản. Không muốn cửa hàng nghi ngờ thầy đã thèm khát món gì, Lenski nói sẽ đưa chúng tôi tới xem nó với điều kiện chúng tôi phải thề dùng đến sự tự kiềm chế và không thu hút những chú ý không cần thiết bằng cách nhìn chằm chằm vào cái gì. Với đủ kiểu rào trước đón sau, thầy đã mang chúng tôi đến đứng dưới con bạch tuộc bằng đồng trông khiếp đảm, và biểu hiện duy nhất cho thấy đây là món đồ được thèm muốn từ lâu chỉ là một tiếng thở dài run rẩy. Thầy cũng dùng cách chăm chút tương tự - rón rén và thì thào, hòng không đánh thức con quỷ số phận (mà có vẻ như thầy nghĩ nó có thù hằn riêng gì với mình) – khi giới thiệu chúng tôi với vị hôn thê của thầy, một cô gái trẻ duyên dáng, nhỏ nhắn với cặp mắt linh dương đầy e lệ và mùi hoa violet tươi bám vào voan che mặt màu đen của cô. Tôi nhớ, chúng tôi gặp cô gần một hiệu thuốc ở góc đường Potsdamerstrasse và Privatstrasse, một con đường đầy lá rụng, nơi dinh thự của chúng tôi tọa lạc, và thầy xin chúng tôi giữ bí mật với cha mẹ tôi sự hiện diện của cô dâu mới ở Berlin, con ma-nơ-canh cơ khí trong cửa sổ hiệu thuốc đang làm cử động cạo râu, và những chiếc xe điện chạy kin kít ngang qua, tuyết thì bắt đầu rơi.
1 Kẻ hợm hĩnh
1 Tàu nhanh
3
Giờ chúng ta đã sẵn sàng để tiến đến chủ đề chính của chương này. Vào thời điểm nào đó trong mùa đông tiếp theo, Lenski nghĩ ra một ý tưởng kinh khủng là chương trình giáo dục bằng đèn chiếu vào các ngày Chủ nhật cách tuần ở dinh thự tại St. Petersburg của chúng tôi. Bằng những công cụ này, thầy đề nghị minh họa (“một cách phong phú”, như thầy nói với một cái bặm môi của cặp môi mỏng dính) các tác phẩm hướng đạo trước một nhóm trẻ mà thầy âu yếm tin là những cậu bé và cô bé mới chập chững vào đời cùng chia sẻ một trải nghiệm đáng nhớ. Ngoài việc bổ sung vào kho kiến thức của chúng tôi, thầy nghĩ rằng việc ấy còn có thể giúp cho em trai và tôi được hòa nhập vào một nhóm người đa dạng nho nhỏ. Dùng chúng tôi là hạt nhân, thầy gom lại quanh cái trung tâm dằn dỗi này vài lớp nhân sự tuyển chọn nữa – vài anh chị em họ đồng tuổi của chúng tôi nếu lúc ấy vô tình có mặt, mấy cô cậu trẻ chúng tôi gặp mỗi mùa đông tại những bữa tiệc ít nhiều buồn chán, vài người bạn học của chúng tôi (họ có vẻ lặng lẽ khác thường – nhưng trời ơi, để ý từng ly từng tí), và con cái của những người làm. Được trao cho quyền tự do định đoạt từ người mẹ dịu dàng và lạc quan của tôi, thầy đã thuê hẳn một bộ dụng cụ phức tạp và một sinh viên có vẻ ngoài buồn chán để vận hành nó; như cách tôi nhìn nhận sự việc vào lúc này, ngoài những lý do khác, thầy Lenski với trái tim nồng hậu chỉ đang cố giúp cho một đồng chí túng quẫn của mình.
Tôi sẽ không bao giờ quên buổi đọc sách đầu tiên ấy. Lenski đã chọn một bài kể chuyện bằng thơ của Lermontov nói đến những cuộc phiêu lưu của một vị tu sĩ trẻ, người đã rời bỏ nơi tu đạo ở vùng Caucasus của mình để lang thang trên những ngọn núi. Như thường thấy ở thơ Lermontov, bài thơ kết hợp những tuyên ngôn tẻ nhạt với hiệu ứng ảo tượng tan chảy tuyệt vời. Bài thơ dài lê thê, và bảy trăm năm mươi dòng hơi đơn điệu của nó được Lenski rộng rãi dàn ra thành bốn trang (trang thứ năm đã bị tôi lúng túng làm rách trước buổi trình chiếu).
Những cân nhắc đến tai nạn về lửa đã khiến người ta phải chọn địa điểm cho buổi trình diễn là một phòng trẻ để trống, trong một góc phòng là một cái bình đun nước hình trụ đứng, sơn màu nâu ánh đồng, một bồn tắm chân vịt mà vì dịp này đã được phủ tấm chăn lên che cho đứng đắn. Những tấm rèm cửa sổ được kéo lại ngăn người ta nhìn xuống mảnh sân bên dưới, những chồng củi bằng gỗ cây bu lô và mấy bức tường vàng của phần nhà phụ u ám có chứa vài chuồng ngựa (một phần của nó đã được chuyển đổi thành gara chứa hai ô tô). Bất chấp việc đã bỏ đi cái tủ quần áo cổ lỗ sĩ và vài chiếc rương, căn phòng âm u ở phía sau nhà này, cùng với chiếc đèn chiếu được lắp đặt ở một đầu phòng và những dãy ghế dàn hàng ngang, những chiếc gối quỳ và ghế dài được sắp xếp cho một nhóm khán giả (bao gồm cả hôn thê của Lenski và ba, bốn cô bảo mẫu, chưa kể cả Mademoiselle và cô Greenwood của chúng tôi), trông có vẻ chật chội và nhồi nhét. Bên trái tôi là một trong những cô em họ bồn chồn nhất, một tiểu thư tóc vàng u ám tầm mười một tuổi gì đó, với mái tóc dài kiểu Alice ở Xứ sở thần tiên và làn da hồng hào, ngồi gần tôi tới mức tôi cảm nhận được cả chỗ xương hông mảnh khảnh của cô chạm vào hông tôi mỗi lần cô ngọ nguậy trên ghế ngồi, sờ mó mặt dây chuyền hay luồn bàn tay vào giữa mái tóc xịt nước hoa và gáy, hay gõ hai đầu gối vào nhau bên dưới lớp vải lụa sột soạt của chiếc váy lót màu vàng, màu của nó ánh lên qua lớp vải ren của chiếc váy dài. Bên phải tôi, tôi có con trai của người hầu nam Ba Lan của cha tôi, một thằng bé tuyệt đối bất động trong bộ áo thủy thủ. Nó mang dáng dấp giống Tiểu Hoàng tử1 đến đáng kinh ngạc, và còn trùng hợp đáng kinh ngạc hơn nữa là cậu bé cũng phải chịu cùng một chứng bệnh thảm khốc – máu khó đông – nên vài lần mỗi năm, một cỗ xe ngựa cung đình sẽ mang một vị y sĩ nổi tiếng tới nhà chúng tôi và chờ mãi, chờ mãi trong màn tuyết rơi chậm rãi, xiên xiên, và nếu ai đó chọn một bông lớn nhất trong những bông tuyết xám xịt kia để ngắm nhìn thật kĩ trong lúc nó rơi xuống (rơi qua cả khung cửa sổ lồi mà cậu ta ngó xuống từ đó), thì cậu ta có thể nhận thấy rõ là nó hơi thô, hình dạng không cân đối và còn cả chuyển động của nó trong lúc bay, khiến người ta cảm thấy đờ đẫn và chóng mặt, chóng mặt và đờ đẫn.
1 Từ gốc Tsarevich, danh hiệu dành để gọi con trai của các Sa hoàng Nga.
Đèn tắt phụt. Lenski bật những dòng mở màn:
The time – not many years ago;
The place – a point where meet and flow
In sisterly embrace the fair
Aragva and Kurah; right there
A monastery stood.
Dịch nghĩa:
Ngày đó – không quá xa xôi
Nơi đó – điểm gặp gỡ và chảy trôi
Giữa vòng tay hai dòng sông đôi xinh đẹp
Aragva và Kurah; ngay đó
Một tu viện đứng tự bao giờ.
Vậy là một tu viện, cùng hai dòng sông của nó, ngoan ngoãn hiện lên, trong trạng thái xanh nhờ tái mét (giá mà chỉ một lần quẹt có thể gạt sạch được nó!) trong khoảng hai trăm dòng, khi nó được thay bằng một thiếu nữ kiểu Georgia đội bình nước trên đầu. Khi người vận hành rút tấm ảnh ra, hình ảnh ấy lướt qua màn hình trong một cú giật nhẹ, sự khuếch đại của nó không chỉ ảnh hưởng đến khung cảnh đã được trình chiếu mà còn cả tốc độ rút đi của nó nữa. Ngoài ra thì chẳng có mấy ma thuật ở đây. Chúng tôi được cho xem những đỉnh núi bình thường thay vì những đỉnh núi lãng mạn của Lermontov, mà ông đã tả là
Rose in the glory of the dawn
Like smoking altars
Dịch nghĩa:
Vươn lên trên buổi bình minh huy hoàng
Như những bệ thờ tỏa khói,
Và trong lúc chàng tu sĩ trẻ đang kể lại với một cư sĩ đồng tu của mình câu chuyện chàng vật lộn với một con báo –
O, I was awesome to behold!
Myself a leopard, wild and bold,
His flaming rage, his yells were mine
Dịch nghĩa:
Ô, trông ta mới oai hùng làm sao!
Chính ta, một chú báo, hoang dã và gan dạ,
Nộ khí kia, tiếng rống âm vang kia, đều thuộc về ta
Một âm thanh khe khẽ vang lên sau lưng tôi; nó có thể thuộc về chàng trai trẻ Rzhevuski, người cùng tham dự một số lớp khiêu vũ với tôi, hoặc Alec Nitte, người đã giành được sự chú ý ít nhiều vài năm sau đó như một hiện tượng ông đồng, hay một trong các anh em họ của tôi. Dần dà, khi giọng nói rào rạo của Lenski cứ tiếp tục không ngừng, tôi bắt đầu phát hiện ra, ngoại trừ vài người – chẳng hạn như Samuel Rosoff, một cậu bạn học rất nhạy cảm của tôi – các khán giả đều đang bí mật giễu cợt buổi trình chiếu, và sau này tôi sẽ phải hứng chịu vô số những lời nhận xét phỉ báng. Tôi run lên vì niềm thương cảm sâu sắc dành cho Lenski – cho những nếp nhăn nhẹ sau mái đầu cạo trọc, cho lòng can đảm, cho những cử động bồn chồn của chiếc que chỉ, bên trên nó, trong một kiểu mèo vờn chuột lạnh lùng, màu sắc đôi lúc cứ trượt đi mỗi khi thầy mang nó lại quá gần màn hình. Càng về cuối, diễn biến đơn điệu của buổi diễn càng trở nên không thể chịu nổi; người điều khiển máy lúng túng không thể tìm được tấm ảnh thứ tư vì đã làm nó lẫn vào các tấm dùng rồi, và trong khi Lenski kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối, một vài người trong đám khán giả đã bắt đầu cho hắt bóng bàn tay của họ từ bóng tối lên tấm màn chiếu trắng tinh đáng sợ. Chẳng bao lâu sau, một cậu nhóc vô lễ và khôn lỏi nào đó (cũng có thể là chính tôi – ông Hyde đáng sợ trong con người Jekyll của tôi chăng?) cuối cùng đã tạo được bóng bàn chân mình, và tất nhiên việc ấy đã khởi động một cuộc cạnh tranh huyên náo. Khi rốt cuộc tấm ảnh chiếu cuối cùng được tìm thấy và nhét lên màn hình, tôi được nhắc nhở về một chuyến du hành từ thời thơ ấu, trải qua đường hầm St Gothard vừa dài vừa tối. Tàu của chúng tôi đã lao vào nó giữa cơn sấm chớp, và trồi ra lúc cơn bão hoành hành mọi ngả, và rồi
Blue, green and orange, wonderstruck
With its own loveliness and luck,
Across a crag a rainbow fell
And captured there a poised gazelle
Dịch nghĩa:
Xanh thẫm, xanh lục và cam, đầy kinh ngạc
Với sự cô đơn và may mắn riêng mình,
Cầu vồng băng qua dốc đá cheo leo
Bắt đứng đó một chú gazen lừng lững.
Tôi nên nói thêm rằng trong suốt buổi trình diễn này và các buổi chiều Chủ nhật tiếp theo, mỗi lúc lại đông hơn và kinh khủng hơn, tôi bị ám ảnh bởi việc vài truyền thuyết trong gia tộc mình mà tôi đã biết bị nhắc đi nhắc lại. Hồi đầu những năm tám mươi, ông ngoại tôi, Ivan Rukavishnikov, do không tìm được trường tư nào theo đúng ý nguyện của ông cho các con trai mình, đã tạo ra trường học của riêng ông bằng cách thuê về hàng tá giáo sư giỏi nhất có thể và tập hợp một nhóm con trai trong vài học kỳ cho các bài học miễn phí diễn ra trong sảnh của dinh thự ở St. Petersburg của ông (số 10, Admiralty Quay). Khoản đầu tư ấy đã không thành công. Những người bạn có con trai mà ông muốn tạo điều kiện cho con mình giao du không phải lúc nào cũng chấp thuận, còn trong số những cậu trai ông thu hút được thì rất nhiều người lại tỏ ra yếu kém. Tôi đã nhào nặn một hình ảnh đặc biệt không hài lòng về ông, người thăm dò trường học vì mục đích ngoan cố của mình, cặp mắt buồn và lạ lùng của ông, quá quen thuộc với tôi từ trong các bức ảnh, đang tìm kiếm những cậu trai ưa nhìn nhất trong số các học sinh tinh anh nhất. Người ta đồn rằng ông đã thực sự trả tiền cho những bậc phụ huynh tham lam hòng lôi kéo tình bạn cho hai cậu con trai mình. Dù những buổi trình diễn đèn chiếu ngây thơ của vị gia sư không có liên quan gì đến hành động ngông cuồng của ông cụ Rukavishnikov khi xưa, sự liên hệ trong não tôi giữa hai sự kiện ấy vẫn không giúp ích chút nào để tôi chấp nhận nổi việc Lenski tự làm mình thành lố bịch và buồn tẻ, nên tôi đã rất hạnh phúc khi mẹ tôi nhượng bộ những lời cầu xin tha thiết của tôi và chấm dứt toàn bộ sự việc sau ba buổi biểu diễn nữa (“The Bronze Horseman1” của Pushkin; “Don Quixote2” và “Africa – the Land of Marvels3”).
1 Người cưỡi ngựa bằng đồng
2 Đôn Kihôtê
3 Châu Phi – miền đất của những điều kỳ diệu
Bây giờ khi nghĩ lại chuyện này, về những bức hình trông như những con sứa khi được chiếu lên tấm màn lanh ướt ấy (độ ẩm được cho là sẽ làm chúng đẩy màu rực rỡ hơn) trông lòe loẹt và phô trương tới mức nào, nhưng mặt khác, những tấm hình chiếu bằng kính như thế lại hé lộ nhiều thứ đáng yêu đến đâu, khi chỉ đơn giản được cầm giữa hai ngón tay và giơ ra trước ánh sáng – những mô hình thu nhỏ trong suốt, những xứ sở thần tiên bỏ túi, những thế giới nhỏ bé gọn gàng của các vệt màu chìm! Nhiều năm sau đó, một lần nữa tôi lại bắt gặp cùng một vẻ đẹp gọn ghẽ và câm lặng ấy ở dưới đáy trục thần kỳ của chiếc kính hiển vi. Trong một tấm ảnh chiếu bằng kính dành để chiếu lên màn hình, một phong cảnh đã bị giảm kích cỡ, và điều đó tiếp lửa cho trí tưởng tượng; dưới ống kính hiển vi, nội tạng của một loại côn trùng lại được phóng to lên dành cho cuộc nghiên cứu lạnh lùng. Dường như ở đó, trong các thang bậc kích thước của thế giới, đã có một điểm giao cắt tinh tế giữa trí tưởng tượng và kiến thức, một điểm mà ta đạt đến bằng cách thu nhỏ những thứ to lớn và phóng lớn những điều bé nhỏ, một việc làm mang bản chất nghệ thuật thực sự.
4
Khi cân nhắc đến chuyện Lenski có vẻ tháo vát đến đâu, có thể giải thích cặn kẽ bất kỳ điều gì liên quan đến chuyện học hành của chúng tôi ở trường đến đâu, thì các vấp váp tại trường đại học của thầy trở thành một điều đáng ngạc nhiên. Dần dần chúng tôi cũng hiểu rằng nguyên do của nó chính là việc thầy hoàn toàn thiếu khả năng xử lý các vấn đề tài chính và chính trị mà thầy ngang bướng đâm đầu vào. Tôi nhớ có lần thầy đã bồn chồn biết mấy khi phải làm một trong những bài thi cuối kỳ quan trọng nhất. Tôi cũng lo lắng y như thầy, và ngay đêm hôm trước sự kiện ấy, tôi không tài nào kháng cự lại việc nghe lỏm ở cửa căn phòng nơi cha tôi, trước lời khẩn cầu của Lenski, đã tập dượt trước với riêng thầy để thử kiến thức của thầy về Các quy tắc của Nền kinh tế chính trị của Charles Gide. Dùng ngón cái lật các trang sách, cha tôi sẽ đặt câu hỏi, chẳng hạn: “Căn nguyên của giá trị là gì?”, hay “Sự khác biệt giữa tín phiếu và tiền giấy là gì?”, và Lenski sẽ hào hứng hắng giọng – rồi im lặng hoàn toàn, cứ như thầy đã hết hơi. Một lúc sau, thậm chí thầy còn không đằng hắng nổi theo cái kiểu khe khẽ của mình, và sự im lặng từng hồi chỉ được cắt ngang bởi tiếng gõ tay của cha tôi trên bàn, trừ một lần duy nhất, trong lúc vuột miệng trách móc một cách hối hả và đầy hy vọng, kẻ thụ hình đột nhiên kêu lên: “Câu hỏi này không có trong sách, thưa ngài!” – nhưng tất nhiên là nó có. Rốt cuộc cha tôi phải thở dài, đóng sách lại, nhẹ nhàng nhưng dứt khoát nhận xét, “Golubchik [Anh bạn của tôi], cậu không thể không trượt – đơn giản là cậu chẳng biết gì cả.” “Tôi không đồng tình với ngài điều đó,” Lenski cãi lại, không phải là không có chút tự ái. Ngồi cứng đơ như thể vừa bị nhồi bông, thầy được đưa tới trường đại học trong xe ô tô của chúng tôi, ở lại đó tới tận tối mịt, quay về trong một chiếc xe trượt tuyết, rũ ra một đống, giữa cơn bão tuyết, và trèo lên phòng mình trong sự im lặng đầy thất vọng.
Gần đến thời gian cuối ở với chúng tôi, thầy kết hôn và đi hưởng tuần trăng mật ở Caucasus, tới những ngọn núi của Lermontov, rồi quay về với chúng tôi thêm một mùa đông nữa. Trong lúc thầy đi vắng, mùa hè năm 1913, một gia sư người Thụy Sỹ, Monsieur Noyer, đã thay thế. Thầy có khổ người đậm đà, với một cặp ria cắt gọn ghẽ, thầy đọc cho chúng tôi Cyrano de Bergerac1 của Rostand, chăm chút từng dòng thoại một một cách gợi cảm nhất và đổi giọng từ sáo sang kèn, tùy thuộc thầy đang diễn nhân vật nào. Lúc đánh quần vợt, khi là người giao bóng, thầy sẽ đứng trụ ở đường biên dưới, với cặp chân to bản trong chiếc quần vải trúc bâu nhăn nhúm, hai chân choãi rộng, và thầy sẽ đột ngột nhún đầu gối xuống khi quật bóng một cú tàn bạo, nhưng cực kỳ vô hiệu.
1 Một vở kịch Pháp ra đời năm 1897
Lúc thầy Lenski rời khỏi chúng tôi mãi mãi vào mùa xuân năm 1914, chúng tôi lại có một thanh niên khác từ một tỉnh ở vùng Volga. Thầy là người dễ mến với gia thế tốt, một tay chơi quần vợt loại khá, một kỵ sĩ bậc thầy; thầy đã hết sức vui sướng được dựa vào những thành tựu này, bởi ở vào cái tuổi đã cứng cáp, cả em trai tôi và tôi đều không cần nhiều đến những trợ giúp trong giáo dục mà chàng trai trẻ có thể mang lại, như người bảo hộ đầy lạc quan của thầy đã hứa hẹn với cha mẹ tôi. Trong buổi trò chuyện đầu tiên của chúng tôi, thầy đã thản nhiên thông báo cho tôi biết Dickens đã viết cuốn Túp lều của Bác Tom, việc này dẫn đến khoản cá cược vội vã của tôi, và tôi thắng bộ quả đấm sắt của thầy. Sau đấy thầy cẩn trọng không nhắc tới bất kỳ nhân vật hay đề tài văn học nào trước mặt tôi. Thầy rất nghèo và có một mùi lạ lùng, ẩm mốc như ê-te không hẳn là khó chịu bốc lên từ bộ đồng phục trường đại học đã bạc của thầy. Thầy có cử chỉ đẹp đẽ, tâm tính ôn hòa và tuồng chữ viết tay không tài nào quên được, toàn gai góc và nét sổ cứng (tuồng chữ này tôi chỉ gặp duy nhất trong những lá thư từ người điên mà thỉnh thoảng tôi nhận được từ năm Thiên Chúa thứ 1958), và một nguồn vô tận những câu chuyện tục (mà thầy sub rosa1 nhồi cho tôi bằng giọng mơ màng, mượt mà của mình, không hề dùng đến một câu nói bậy bạ nào) về các bạn hữu và poules2 của thầy, và cả về vô số người quen của chúng tôi. Một người trong số đó, một phụ nữ thời thượng gần gấp đôi tuổi thầy, chẳng bao lâu sau thầy đã phải kết hôn chỉ để rũ bỏ người đó – bằng cách tống bà vào một trại lao động nơi bà đã bỏ mạng. Càng nghĩ về người đàn ông này, tôi càng thêm tin tưởng rằng ông ta đã hoàn toàn điên rồ.
1 Bí mật
2 Bạn gái
Tôi đã không hoàn toàn mất liên lạc với thầy Lenski. Bằng một khoản vay từ bố vợ, từ lúc còn ở cùng chúng tôi, thầy đã khởi nghiệp với vài việc kinh doanh thú vị liên quan đến mua bán và khám phá nhiều phát minh khác nhau. Thật không tốt đẹp hay công bằng gì nếu nói rằng thầy đã tự nhận chúng là của chính mình; nhưng thầy đã nhận lấy chúng và nói về chúng với một tình cảm ấm áp và âu yếm, hé lộ một thứ gì đó gần như bản năng làm cha – một thái độ thiên về tình cảm của thầy, mà không cần có chút hỗ trợ nào từ thực tế, và cũng không trông thấy sai sót nào trong tầm nhìn. Một ngày kia, thầy tự hào mời tất cả chúng tôi thử bằng ô tô một loại vỉa hè mới mà thầy phụ trách, được làm nên từ (theo những gì tôi còn nhớ được từ ký ức xa xôi ấy trong khoảng tối của thời gian) một cách đan sợi thép kỳ lạ. Kết quả là lốp xe bị xịt. Tuy nhiên, thầy đã được an ủi bằng việc mua thêm một món hấp dẫn khác: bản thiết kế của thứ mà thầy gọi là “máy bay điện”, trông thì giống một chiếc Blériot cũ nhưng có - ở đây tôi lại trích nguyên văn lời thầy – một động cơ “chạy điện”. Nó chỉ cất cánh trong những giấc mơ của thầy – và của tôi. Trong chiến tranh, thầy khởi xướng một loại thức ăn kỳ diệu cho ngựa dưới dạng những miếng bánh phẳng giống bánh khoai tây (chính thầy cũng nhấm nháp món này và còn mời bạn bè), nhưng hầu hết bọn ngựa chỉ thích món yến mạch. Thầy còn buôn bán thêm một cơ số bằng sáng chế khác, tất cả đều điên rồ, và khi thầy đã lâm cảnh nợ nần chồng chất thì lại được thừa hưởng một gia tài nhỏ sau cái chết của ông bố vợ. Chuyện này hẳn là từ hồi đầu năm 1918, bởi vì tôi nhớ thầy từng viết thư cho chúng tôi (chúng tôi đang bị kẹt lại ở vùng Yalta) đề nghị hỗ trợ tiền bạc và mọi kiểu hỗ trợ khác. Món tiền thừa kế được thầy nhanh chóng đầu tư vào một công viên giải trí ở bờ Đông Crimea, và chịu bao rắc rối để đem về một dàn nhạc giao hưởng tốt, xây sân trượt băng bằng loại gỗ đặc biệt, dựng các đài phun nước và thác nước chiếu đèn xanh đỏ. Năm 1919, những người Bolshevik tới và tắt đèn, thầy Lenski thì chạy sang Pháp; lần cuối tôi nghe về thầy là hồi những năm hai mươi, khi người ta nói rằng thầy chỉ kiếm sống bấp bênh ở Riviera bằng cách vẽ tranh trên vỏ sò và đá. Tôi không biết – và thà là không tưởng tượng ra – điều gì đã xảy đến với thầy trong cuộc xâm lược của Phát xít Đức vào Pháp. Bất chấp vài điểm kì quặc, thầy thực sự, thực sự là một người tốt thuần túy, người mang những giá trị riêng cũng nghiêm khắc như ngữ pháp của thầy, và bài diktanti1 mạnh mẽ mà tôi vẫn còn vui sướng nhớ lại: kolokololiteyshchiki perekolotili vikarabkavsshihsya vihuholey, “thợ đúc chuông nhà thờ giết những chú chuột chũi thò ra thụt vào”. Rất nhiều năm sau đó, ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên New York, tôi vô tình trích đọc dòng líu lưỡi ấy với một nhà động vật học, người đã hỏi tôi rằng liệu tiếng Nga có khó khăn như mọi người vẫn nói hay không. Chúng tôi gặp lại vài tháng sau đó và ông ấy nói: “Anh biết đấy, tôi đã ngẫm nghĩ rất nhiều về mấy con chuột chũi Moskva ấy: tại sao người ta lại bảo chúng thò ra thụt vào? Trước đó chúng đang ngủ đông hay trốn gì hay sao?"
1 Bài chính tả
5
Trong lúc nghĩ đến dòng gia sư người nọ nối người kia của tôi, tôi không mấy quan tâm tới những mối bất hòa kỳ lạ mà họ đã đưa vào quãng đời non trẻ của tôi so với bản chất ổn định và sự hoàn thiện của cuộc đời ấy. Tôi vui mừng chứng kiến thành tựu đỉnh cao của ký ức, đó là quyền năng thần kỳ để nó tạo ra những sự hòa hợp bẩm sinh trong lúc thu thập những sắc điệu ngập ngừng và tản mát của quá khứ dưới nếp gấp của mình. Tôi thích tưởng tượng ra, trong vẻ hoàn thiện và chuyển vần của những thanh âm huyên náo ấy, trong lúc hồi tưởng lại, điều gì đó có tính vĩnh cửu như chiếc bàn dài trong những buổi tiệc sinh nhật vào mùa hè hay lễ đặt tên thánh vẫn được dùng để đặt món sô cô la buổi chiều bên ngoài sân, trên lối đi phủ bóng dương, cây chanh và cây phong trên đường chúng thoát ra ngoài không gian phủ cát mịn của khu vườn đích thực ngăn cách công viên và dinh thự. Tôi trông thấy tấm khăn trải bàn và khuôn mặt của những người ngồi đó cùng chia sẻ sự vận động của ánh sáng và bóng râm bên dưới tán lá lay động đẹp tuyệt, không nghi ngờ gì về chuyện nó đã được tô đậm nét hơn bởi cùng một vùng hoài niệm thụ động, bởi việc trở đi trở lại vẫn khiến tôi luôn tiếp cận bàn tiệc ấy từ bên ngoài, từ vùng sâu hơn của công viên chứ không phải từ nhà – như thể tâm trí tôi, hòng được quay về chốn cũ, đã phải làm vậy bằng những bước chân lặng lẽ của kẻ hoang tàng, lả đi vì háo hức. Qua những lăng kính rụt rè, tôi phân biệt đường nét của họ hàng và người thân, những cặp môi câm đang bình yên mấp máy trong bài phát biểu đã bị lãng quên. Tôi trông thấy hơi ấm bốc lên từ sô cô la và những đĩa bánh tart nam việt quất, tôi để ý thấy một đám quả cánh nhỏ xoay tít đang nhè nhẹ đáp xuống khăn trải bàn, và nằm chắn ngang bàn, cánh tay trần của một cô thiếu nữ đang biếng nhác vươn ra mãi hết chiều dài tay, với những mạch máu xanh ngửa lên đón ánh nắng lấp lánh, lòng bàn tay ngửa lên chờ đợi một thứ gì – có lẽ là chiếc kẹp hạt dẻ. Ở chỗ mà vị gia sư hiện tại của tôi đang ngồi, hình ảnh thay đổi liên tục, một chuỗi những khuôn mặt hiện ra rồi mờ nhạt đi; nhịp suy nghĩ của tôi hòa lẫn với nhịp rung của bóng lá, biến Ordo thành Max và Max thành Lenski rồi Lenski lại biến thành vị thầy giáo làng, và toàn bộ chuỗi biến hình run rẩy ấy được lặp lại lần nữa. Và rồi, đột nhiên, ngay khi màu sắc và các đường viền kia rốt cuộc cũng ổn định với nhiệm vụ khác nhau của chúng – những nhiệm vụ thật buồn cười, phù phiếm – nút điều khiển nào đó được chạm vào và dòng lũ âm thanh bừng sống dậy: người ta nói chuyện với nhau, quả óc chó vỡ ra, tiếng kịch vang lên khi kẹp hạt dẻ được chuyền tay một cách vô ý, ba chục trái tim người nhấn chìm nhịp tim tôi bằng nhịp đập đều đặn của chúng; tiếng xào xạc, rì rào của hàng ngàn cái cây, dàn hợp xướng địa phương của những chú chim mùa hè ồn ào, và bên kia dòng sông, đằng sau những cái cây đang hòa nhịp ấy, là tiếng hú hét nhiệt thành và bối rối của các nàng thôn nữ trẻ đang tắm, giống như màn vỗ tay cuồng nhiệt sau hậu trường.