• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương bảy

1

Hồi những năm đầu của thế kỷ này, một đại lý du lịch trên Đại lộ Nevski trưng bày mô hình của một toa tàu nằm tuyến đa quốc gia bằng gỗ sồi nâu dài chín mươi phân. Về mặt mô phỏng hàng thật một cách tinh tế thì nó hoàn toàn vượt xa đoàn tàu chạy dây cót bằng thiếc sơn màu của tôi. Không may là nó không phải để bán. Người ta có thể nhận ra cả lớp đệm xanh lơ bên trong, đường viền da dập nổi trên các bức tường chia khoang, những tấm ốp bóng loáng, gương chìm, đèn đọc sách hình hoa tuy-líp, và cả các chi tiết làm người ta phát bực khác. Những cửa sổ rộng rãi được đan xen với các cửa hẹp hơn, một cánh hoặc hai cánh, và một số trong chúng lại làm bằng kính phủ mờ. Trong vài khoang ngủ, giường còn được dọn sẵn.

Đoàn tàu khi ấy có tên Nord-Express vĩ đại và sang trọng (nó đã không bao giờ quay lại như xưa sau Đại chiến thứ Nhất, khi màu nâu sang trọng của nó trở thành một màu xanh dương của sự giàu xổi), chỉ gồm toàn những toa quốc tế và chỉ chạy hai lần một tuần, kết nối St. Petersburg với Paris. Đáng lẽ tôi đã nói: đi thẳng tới Paris nếu các hành khách không bị buộc phải đổi từ một con tàu này sang một cái khác giống hệt đến mức phi thực tại biên giới Nga - Đức (Verzhbolovo – Eydtkuhnen), nơi khổ đường ray một mét năm mươi ba rộng rãi và lười biếng của Nga được thay thế bằng đường ray tiêu chuẩn một mét bốn mươi ba của châu Âu, và than đá thay thế cho những khúc củi gỗ bu lô.

Ở tận cùng trí nhớ, tôi nghĩ mình có thể lần giở lại ít nhất là năm chuyến đi như vậy tới Paris, với Riviera hay Biarritz là đích đến cuối cùng. Năm 1909, năm mà lúc này tôi chọn lọc ra, đoàn của chúng tôi gồm có mười một người cùng một chú chó lạp xưởng. Đeo găng tay và đội mũ du lịch, cha tôi ngồi đọc một cuốn sách trong khoang ngủ ông chia sẻ cùng gia sư của chúng tôi. Em trai tôi và tôi ở cách họ một buồng tắm. Mẹ tôi và hầu gái Natasha của bà ở buồng thông với buồng chúng tôi. Tiếp theo đến hai cô em gái tôi, bảo mẫu người Anh của họ, cô Lavington, và một y tá người Nga. Người bị lẻ trong đoàn chúng tôi, người hầu nam của cha tôi, Osip ở chung với một người lạ.

Về mặt lịch sử và nghệ thuật, năm ấy đã bắt đầu bằng một bức biếm họa chính trị trên tờ Punch: nữ thần Anh Quốc cúi mình bên trên nữ thần Ý Đại Lợi, mà mái đầu của nàng đã bị những viên gạch của thành Messina1 đổ lên – có lẽ đó là bức tranh tệ hại nhất mà bất kỳ trận động đất nào có thể gợi cảm hứng. Tháng Tư năm đó, Peary2 đã đến được Bắc Cực. Tháng Năm, Shalyapin3 đã hát ở Paris. Tháng Sáu, bực bội vì những tin đồn về những khinh khí cầu Zeppelin mới và tốt hơn, Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ đã nói với các phóng viên về kế hoạch cho một Hải quân trên không. Tháng Bảy, Blériot đã bay từ Calais1 tới Dover2 (với một đoạn đi vòng khi anh ta bị lạc mất phương hướng). Bấy giờ đã là cuối tháng Tám. Những cây linh sam và đầm lầy của miền Tây Bắc nước Nga vùn vụt qua, và ngày hôm sau thì chúng nhường chỗ cho rừng thông và thạch nam của nước Đức.

1 Một thành phố cảng ở vùng tây bắc Sicily, Ý.

2 Robert Peary – nhà thám hiểm người Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

3 Ca sĩ Opera người Nga

1 Thành phố cảng ở miền Bắc nước Pháp

2 Thị trấn cảng ở Đông Nam nước Anh

Trên một chiếc bàn gập xuống được, mẹ tôi và tôi chơi một môn bài tây có tên là durachki. Mặc dù trời vẫn còn sáng trưng, bộ bài của chúng tôi, một cái cốc và những chiếc khóa trên va li trên một cái bàn khác đã phản chiếu trên cửa sổ. Đi qua rừng cây và đồng ruộng, những hẻm núi bất chợt và giữa những túp lều vụt qua, hai tay bạc tâm trí đã thoát xác vẫn đều đặn chơi tiếp để săn những món cược lấp lánh vững vàng. Đó là một ván bài dài, rất dài: trong buổi sáng mùa đông xám xịt hôm nay, qua cửa sổ ngắm cảnh trong phòng khách sạn sáng trưng của tôi, tôi vẫn trông thấy rõ ràng những chiếc khóa bóng loáng kia, vẫn là chính những cái khóa của chiếc va li giờ đã bảy mươi tuổi đời, một nécessaire de voyage3 thành cao và nặng trịch làm từ da lợn, với hai chữ “H.N.” được thêu cầu kỳ bằng chỉ bạc dày dưới một mũ miện tương tự, chiếc va li được mua từ năm 1897 cho chuyến du lịch tân hôn của mẹ tôi tới Florence. Năm 1917 nó đã vận chuyển từ St. Petersburg tới Crimea và rồi tới London một vốc đồ trang sức. Quãng năm 1930, ở chỗ người cầm đồ, nó đã bị mất những ngăn chứa đắt tiền bằng pha lê và bạc, bỏ lại những hộc da trống không được làm giả khéo léo ở bên trong nắp va li. Nhưng tổn thất ấy đã được bù đắp đầy đủ trong suốt ba mươi năm nó du hành cùng tôi – từ Prague tới Paris, từ St. Nazaire tới New York, và qua tất cả những tấm gương ở hơn hai trăm phòng khách sạn và nhà thuê, tại bốn mươi sáu bang. Việc trong số những di sản Nga chúng tôi, kẻ sống sót cuối cùng hóa ra lại là chiếc va li du lịch vừa hợp lý lại vừa mang tính biểu trưng.

3 Món đồ cần thiết cho du hành

“Ne budet-li, ti ved’ ustal [Con còn chưa chơi đủ ư, con chưa mệt à?]” mẹ tôi sẽ hỏi, rồi bà lại mải miết suy tư trong lúc chậm rãi tráo bài. Cửa khoang tàu đang mở và tôi có thể trông ra cửa sổ hành lang, nơi những sợi dây – sáu sợi mảnh màu đen – cố hết sức để trèo lên cao, hướng lên bầu trời, bất chấp những cú sét từ cột dây điện báo, hết cột này tới cột kia; nhưng ngay khi cả sáu sợi dây sắp sửa đồng loạt vươn tới đỉnh cửa sổ trong lần leo cao thảm hại của chúng, một cú đánh đặc biệt hiểm độc đã dạt tất cả xuống, thấp hơn cả lúc trước, và chúng sẽ phải bắt đầu lại từ đầu.

Trong những chuyến du hành như vậy, khi đoàn tàu chuyển sang vận tốc thong dong nhưng mang đầy vẻ trang nghiêm và chỉ lướt qua các mặt tiền cửa hàng hay biển hiệu, trong lúc chúng tôi đi ngang qua một thị trấn lớn nào đó ở Đức, tôi thường cảm nhận được niềm háo hức gấp đôi mà các ga tàu cuối không thể nào mang lại được. Tôi trông thấy một thành phố, với những chiếc tàu điện trông như đồ chơi, những hàng cây đoan và tường gạch, chúng ghé vào trong buồng tàu, đàn đúm với đám gương và lấp đầy tới tận mép các cửa sổ của hành lang mạn tàu. Mối tiếp xúc không chính thức này giữa đoàn tàu và thành phố là một phần của niềm vui. Phần còn lại là đặt chính tôi vào vị trí của những người khách đi ngang qua, những người mà tôi đã tưởng tượng là cũng bị cảm động như tôi sẽ cảm động khi trông thấy các toa tàu dài, lãng mạn màu nâu vàng, với những sợi dây luồn chắp nối những tấm rèm đen như cặp cánh dơi và hàng chữ khắc bằng đồng sáng bóng trong ánh chiều tà, chậm rãi thương thảo với một chiếc cầu thép bắc ngang con phố tấp nập rồi rẽ ở dãy nhà cuối cùng, với toàn bộ cửa sổ của nó bỗng bừng sáng lên.

Tuy nhiên vẫn có vài điểm trừ trong sự tổng hòa về thị giác này. Toa ăn với cửa sổ rộng, viễn cảnh những chai nước khoáng nhạt nhẽo, những chiếc khăn ăn gập hình chóp mũ, và những thanh sô cô la ngốc nghếch (vỏ bọc của chúng – Cailler, Kohler và các loại khác – chỉ bọc ngoài toàn gỗ chứ không hơn), đầu tiên sẽ được nhìn nhận như một ốc đảo mát lành bên ngoài cả dãy các hành lang xanh dương đến quay cuồng; nhưng trong khi chúng tôi bắt đầu dùng món tráng miệng, và một nghệ sĩ đu dây cầm cả một khay đầy đồ ăn trên tay sẽ càng lúc càng lùi lại bàn chúng tôi một cách đáng sợ hơn, để cho một nghệ sĩ khác đi qua với cả một khay đầy khác nữa, tôi không ngừng bắt gặp toa tàu bị bao bọc một cách bất cẩn, với toàn bộ các bồi bàn tròng trành và các thứ, giữa khung cảnh thiên nhiên, trong khi chính khung cảnh ấy lại trải qua hệ thống chuyển động phức tạp của riêng mình, mặt trăng ban ngày bướng bỉnh sánh bước cùng chiếc đĩa của ai đó, những trảng cỏ ở xa xa đang xòe ra như rẻ quạt, những cái cây gần đó lao tới lằn ray trên những đôi cánh vô hình, một đường ray song song bỗng đâu tự sát bằng một đường nhỏ cắt ngang, một hàng cỏ chớp mắt cú dâng lên và dâng lên mãi, đến khi cậu nhân chứng bé nhỏ của các loại vận tốc kết hợp này bị người ta buộc phải nuốt hết phần omelette aux confitures de fraises1 của mình.

1 Mứt dâu và trứng ốp lết.

Tuy nhiên, ban đêm mới là lúc Compagnie Internationale des Wagons-Lits et des Grand Express Europééns bừng sáng đúng với phép màu trong cái tên của nó. Từ giường ngủ của tôi bên dưới giường cậu em (Cậu ấy có ngủ không? Có còn ở đó thật không?), trong bóng tối mờ tỏ của buồng ngủ chúng tôi, tôi theo dõi sự vật, và các phần của những sự vật ấy, và những cái bóng, các phần của những chiếc bóng đang rụt rè di chuyển khắp nơi và không đi đến đâu cả. Các bộ phận bằng gỗ khe khẽ cọt kẹt và kêu răng rắc. Gần cánh cửa dẫn ra nhà xí, một tấm vải mờ treo trên móc và cao hơn nữa, cái núm tua rua của ngọn đèn đêm màu xanh, hình nửa mảnh vỏ sò đang lắc lư theo nhịp điệu. Rất khó để đặt song song những cách tiếp cận tĩnh này, sự vô hình bao trùm này, với tốc độ lao vội vã của trời đêm bên ngoài, mà tôi biết chắc chắn là đang lao đi vun vút, để lại những vệt lửa không nhận ra được hình dạng.

Tôi ru ngủ bản thân bằng cách đơn giản là đồng nhất mình với người lái tàu. Một cảm giác mơ màng khỏe khoắn xâm nhập vào huyết mạch tôi ngay khi tôi đã sắp đặt xong mọi thứ đâu vào đấy – những hành khách vô ưu trong các căn phòng của họ, thưởng thức chuyến đi mà tôi mang lại, hút thuốc, trao đổi những nụ cười hiểu biết, gật đầu, ngật ngưỡng ngủ; các bồi bàn, đầu bếp và bảo vệ tàu (mà tôi đã phải đặt ở đâu đó) bù khú trong phòng ăn; và chính tôi, mắt trợn trừng và mặt lấm lem, nhìn từ buồng lái vào đường ray trải dài hút mắt, vào những điểm màu hồng ngọc hay lục bảo trong bóng tối xa xăm. Và rồi, trong giấc ngủ, tôi sẽ trông thấy một thứ hoàn toàn khác – sàn cẩm thạch bằng thủy tinh đang cuộn lên bên dưới cây đại dương cầm hay một đầu máy đồ chơi nằm nghiêng với những cái bánh xe vẫn còn đang sùng sục chạy.

Sự thay đổi vận tốc của con tàu thi thoảng cắt ngang hiện thực trong giấc ngủ của tôi. Những ngọn đèn nhỏ sẽ lướt qua, từng cái một, trong lúc đi ngang để điều tra cùng một chỗ hở, rồi một quầng sáng sẽ đong đếm những cái bóng, chẳng mấy chốc đoàn tàu khựng lại với một tiếng hít vào sâu của phanh hơi Westinghouse1. Thứ gì đó (hóa ra là cặp kính của em trai tôi, như ngày hôm sau chúng tôi được biết) rơi từ trên cao xuống. Cảm giác vô cùng hào hứng khi ta lao xuống cuối giường mình, với một phần bộ quần áo ngủ vẫn đi theo, hòng cẩn trọng nới lỏng cái then của rèm che cửa sổ, thứ chỉ có thể kéo lên được một nửa do bị gờ của giường tầng trên chặn lại.

1 George Westinghouse (1846 - 1914): nhà sáng chế người Mỹ, đã phát minh ra hệ thống phanh bằng hơi cho tàu hỏa và là một trong những người tiên phong của ngành công nghiệp điện.

Như những mặt trăng xoay quanh Sao Thổ, những chú ngài nhạt màu bay vòng quanh một chiếc đèn cô độc. Một tờ báo rách lật phật trên ghế băng. Đâu đó trên tàu ta có thể nghe thấy những tiếng nói bị nghẹn lại, tiếng ho thoải mái của một người nào đấy. Không có gì đặc biệt thú vị ở phần ga tàu trước mặt tôi đây, ấy vậy mà tôi vẫn không thể tách mình khỏi nó cho đến khi nó tự rời đi theo ý mình.

Sáng hôm sau, những cánh đồng ẩm ướt với các cây liễu không ra hình dạng gì quanh bờ của một con mương hay một hàng cây dương ở xa xa, được dải sương trắng sữa giăng ngang, báo cho ta biết rằng đoàn tàu đã lăn bánh qua nước Bỉ. Nó đến Paris lúc 4 giờ sáng, và kể cả nếu chỉ nán lại có một đêm ngắn ngủi, tôi vẫn luôn có thời gian mua sắm một thứ gì đó – chẳng hạn như một chiếc Tháp Eiffel bằng đồng nhỏ, được phủ sơn bạc khá xù xì – trước khi chúng tôi lại lên tàu Sud-Express vào buổi trưa ngày hôm sau, trên đường tới Madrid, khoảng 10 giờ tối con tàu này sẽ thả chúng tôi xuống ga La Négresse của Biarritz, cách biên giới Tây Ban Nha vài cây số.

2

Biarritz vẫn còn lưu giữ lại được bản chất của nó cho tới tận ngày nay. Những bụi mâm xôi bụi bặm và terrains à vendre1 cỏ mọc um tùm chạy dọc hai bên con đường dẫn tới biệt thự của chúng tôi. Khách sạn Carlton hồi ấy vẫn còn đang được xây dựng. Thêm một bước nhảy thời gian ba mươi sáu năm nữa thì Thiếu tướng Samuel McCroskey mới ngụ tại phòng hoàng gia của Hotel du Palais, khách sạn nằm đúng vị trí của cung điện cũ, nơi mà người ta đã đồn rằng hồi những năm sáu mươi, ông đồng khôn ngoan khó tin Daniel Home đã bị bắt quả tang dùng chân trần (trong lúc mô phỏng một bàn tay ma quỷ) vuốt ve khuôn mặt thiện lành, đáng tin cậy của Hoàng hậu Eugénie2. Trên một lối đi dạo gần sòng bạc, một cô gái bán hoa lớn tuổi, với cặp chân mày đen thẫm và nụ cười tô son, nhanh nhẹn trượt một đài hoa cẩm chướng tròn trịa vào chỗ khuyết áo của một khách bộ hành đi ngang qua, mé cằm bên trái của người này hiện rõ nếp nhăn quý tộc khi ông ta liếc xéo cánh hoa bẽn lẽn vừa được cài vào.

1 Mảnh đất được rao bán

2 Vợ vua Napoleon III

Những chú bướm Oak Edgar sậm màu đang săn mồi trong các bụi cây không hoàn toàn giống với chỗ chúng tôi (dù sao thì chúng cũng không ăn trên thân cây sồi), và ở đây Speckled Woods không bu vào gỗ, mà là hàng rào và có những chấm màu nâu vàng chứ không phải một sắc vàng nhạt. Cleopatra, một giống Brimstone có vẻ ngoài nhiệt đới, màu vàng chanh và cam, đang uể oải lượn lờ khắp các khu vườn, đã được săn lùng từ những năm 1907 và vẫn còn mang lại niềm vui cho người bắt bướm.

Sau lưng đường plage1, những chiếc ghế bành và ghế đẩu ngắm cảnh đang nâng đỡ các vị phụ huynh của những đứa trẻ đội mũ rơm chơi dọc bờ cát. Người ta có thể trông thấy tôi đang quỳ trên hai đầu gối, cố châm lửa cho một chiếc lược vừa tìm thấy bằng một cái kính lúp. Đàn ông mặc những chiếc quần trắng mà với con mắt của thời đại này thì sẽ trông giống như chúng đã bị co lại trong lúc giặt một cách hài hước; vào cái mùa cụ thể ấy, phụ nữ mặc những chiếc áo khoác nhẹ với ve áo lụa, đội mũ sâu và rộng vành, những chiếc mạng trắng dệt dày, áo sơ mi có diềm xếp nếp ở trước ngực, ở cổ tay áo và cả trên những chiếc ô. Hơi gió mang muối làm mặn bờ môi. Bằng tốc độ thần sầu, một chú bướm Clouded Yellow lạc loài băng ngang plage xôn xao.

Những náo động và âm thanh thêm vào đến từ các quầy hàng chào bán cacachuètes2, những bông hoa violet tẩm đường, kem hạt hồ trăn với màu xanh lục thiên thần, những viên kẹo cao su và những mẩu hình thoi lớn của một món bánh khô, giòn, giống bánh quế từ trong một cái thùng màu đỏ. Với một vẻ đặc biệt mà không sự chồng chéo nào sau này có thể làm lu mờ, tôi trông thấy rõ người bán bánh quế giậm chân đi trên bãi cát mịn và sâu, với chiếc thùng tô nô nặng trịch cõng trên cái lưng cong. Khi được gọi, ông ta sẽ lẳng nó xuống khỏi vai mình bằng một cú giật sợi dây đeo, dộng nó xuống cát vào vị trí một Tháp nghiêng Pisa, lau mặt bằng ống tay áo, và tiếp theo là điều khiển một bảng gồm mũi tên chỉ vào các con số trên nắp thùng. Mũi tên kêu rào rạo và xoay vòng. Người ta nghĩ vận may sẽ sửa chữa kích thước của chiếc bánh quế có giá chỉ một xu1. Miếng bánh càng to thì tôi càng thấy tội cho ông ta.

1 Bờ biển

2 Hạt

1 Từ gốc sou, đồng xu mệnh giá nhỏ nhất của tiền tệ Pháp trước đây.

Hoạt động tắm táp diễn ra trên một phần khác của bãi biển. Những người tắm biển chuyên nghiệp, dân xứ Basques vạm vỡ trong những bộ đồ bơi màu đen, có mặt ở đó để giúp đàn bà và em nhỏ thưởng thức nỗi kinh hoàng mang tên lướt sóng. Một baigneur2 như thế sẽ đặt khách hàng quay lưng lại con sóng đang ập đến và nắm tay giữ anh ta lại khi bức tường bọt trắng xóa, nước xanh thẫm dâng lên và xoay xỏa rút đi ào ào từ sau lưng, hất ngã người ta bằng một cú đập mạnh. Sau khoảng một tá những lần ngã chúi nhủi như vậy, anh baigneur, bóng lưỡng như chú hải cẩu, sẽ dẫn khách hàng đang thở hổn hển, run rẩy và khụt khịt mũi của mình lên bờ, trên bãi cát phẳng lì, nơi một người phụ nữ lớn tuổi khó quên với lớp râu xám trên cằm sẽ nhanh nhẹn chọn một chiếc áo choàng tắm trong số vài cái đang treo trên dây. Trong một buồng gỗ nhỏ an toàn, thêm một nhân viên nữa sẽ giúp vị khách lột bỏ bộ đồ bơi ướt sũng, dính đầy cát. Nó sẽ bị thả đánh bộp xuống sàn gỗ, và vị khách sẽ run rẩy bước ra khỏi nó, đạp chân lên những sọc dọc màu xanh khuếch tán của nó. Buồng gỗ có mùi thông. Cậu nhân viên, một người bị gù lưng với những nếp nhăn vui vẻ, mang đến một chậu nước nóng bốc khói để vị khách thả hai bàn chân vào. Từ cậu ta, tôi sẽ học được, và bảo quản trong khung kính của ký ức suốt từ ấy đến nay, từ “bướm” trong tiếng Basque là misericoletea – hay ít nhất đọc lên nó như vậy (trong số bảy từ tôi tìm được trong các loại từ điển thì cách đọc gần nhất giống vớimicheletea).

2 Người tắm biển

3

Trên phần plage nâu hơn và ướt át hơn, cái phần mà những ngọn triều thấp dâng lên loại bùn tốt nhất cho các tòa lâu đài, tôi tìm thấy chính mình đang đào xới, vào một ngày kia, trong lúc vai kề vai với một cô bé người Pháp tên là Colette.

Cô bé lên mười vào tháng Mười một, còn tôi đã lên mười từ tháng Tư. Sự chú ý của chúng tôi bị kéo vào một mẩu vỏ sò sứt mẻ màu tím mà cô bé bước lên bằng gót chân trần của một bàn chân nhỏ có ngón dài. Không, tôi không phải người Anh. Cặp mắt xanh lục của cô dường như lấm chấm những vệt tàn nhang quá dư thừa phủ khắp khuôn mặt mang đường nét sắc sảo. Cô bé mặc một thứ mà ngày nay hẳn được gọi là bộ đồ đi chơi, gồm một chiếc áo len màu xanh dương với hai tay áo xắn lên và chiếc quần xanh bằng len móc. Lúc đầu tôi tưởng cô bé là con trai và lấy làm khó hiểu với chuỗi vòng trên cổ tay thon, cùng những lọn tóc nâu xoắn như cái mở nút chai, đung đưa từ bên dưới chiếc mũ thủy thủ của cô.

Cô bé nói liến thoắng và líu ríu như chim, hòa trộn giữa tiếng Anh và tiếng Pháp - Paris của các cô bảo mẫu. Hai năm trước, cũng trên plage này, tôi đã rất gắn bó với Zina, cô con gái nhỏ đáng yêu, rám nắng và tính tình nóng nảy của một người theo liệu pháp thiên nhiên từ Serbia – tôi nhớ lại (một cách ngớ ngẩn, vì cả cô bé và tôi mới tám tuổi đầu vào lúc ấy) cô bé có một grain de beauté1 trên làn da màu mơ ngay bên dưới trái tim, và có cả một bộ sưu tập kinh tởm các loại bô để trong phòng, cả đầy tràn và đầy một nửa, một cái còn có cả bong bóng nổi trên mặt, trên sàn hành lang ngôi nhà trọ của gia đình cô, nơi tôi ghé thăm vào một buổi sáng sớm kia để được cô đưa cho cầm một chú ngài chim ruồi đã chết do con mèo tìm thấy, trong lúc cô bé đang được mặc quần áo cho. Nhưng khi gặp Colette tôi biết ngay rằng đây mới là hàng thật. Với tôi, dường như Colette lạ lẫm hơn tất cả các bạn chơi ngẫu nhiên khác của tôi ở Biarritz! Vì lý do nào đó, tôi có cảm giác cô không được hạnh phúc bằng tôi, không được yêu thương bằng. Một vết bầm tím trên cánh tay khẳng khiu, mong manh của cô bé làm gợi lên những phỏng đoán kinh khủng. “Nó nhéo đau y như mẹ tớ.” Cô bé bảo khi nói về một con cua. Tôi sáng tạo ra vô vàn mưu kế để cứu thoát cô bé khỏi cha mẹ cô, những “des bourgeois de Paris2” như tôi từng nghe ai đó kể với mẹ mình với một cái nhún vai nhẹ. Tôi diễn dịch động tác khinh mạn ấy theo cách của riêng mình, vì tôi biết rằng hai người kia đã đi suốt từ Paris tới đây trên chiếc limousine màu xanh và vàng của họ (vào thời đó là cả một chuyến phiêu lưu thời thượng), nhưng chỉ đơn giản gửi Colette cùng chú chó và gia sư của cô bé lên một toa tàu hỏa thông thường. Chú chó là một con cái dòng sục cáo lông xoăn, đeo mấy cái chuông trên đai cổ và có một cái đuôi ngoe nguẩy suốt. Chỉ vì tràn đầy năng lượng thuần túy, cô nàng chó sẽ liếm láp nước muối trong cái xô đồ chơi của Colette. Tôi nhớ cánh buồm, mặt trời lặn và ngọn hải đăng được vẽ trên cái xô ấy, nhưng lại không nhớ nổi tên con chó, và điều đó làm tôi phiền lòng.

1 Nốt ruồi

2 Nhà tư sản thành Paris

Trong suốt hai tháng chúng tôi lưu lại Biarritz, niềm đam mê của tôi dành cho Colette thậm chí còn vượt cả niềm ham thích với Cleopatra. Vì cha mẹ tôi không quan tâm đến việc gặp cô bé, tôi chỉ gặp được cô trên bờ biển; nhưng tôi nghĩ về cô không ngừng nghỉ. Nếu tôi để ý thấy cô bé đang khóc, tôi sẽ cảm thấy một niềm đau bất lực làm lệ dâng đầy khóe mắt mình. Tôi không nỡ hủy diệt những con muỗi đã để lại vết đốt trên cần cổ mảnh mai của cô, nhưng lại có thể, và đã, có một trận quyết chiến thắng lợi với một thằng nhóc tóc đỏ dám thô lỗ với cô. Cô bé thường dành cho tôi cả một nắm tay đầy ắp kẹo cứng. Một ngày nọ, lúc chúng tôi đang cùng cúi đầu nhìn xuống một con sao biển, và sợi lắc tay của Colette cọ vào tai tôi, đột nhiên cô bé quay sang và hôn vào má tôi. Cảm xúc trong tôi lớn đến nỗi tất cả những gì tôi nghĩ ra để nói được là, “Con khỉ nhỏ này.”

Tôi có một đồng vàng mà tôi trù tính là sẽ đủ chi trả cho cuộc đào tẩu của chúng tôi. Tôi đã muốn đưa cô đi đâu? Tây Ban Nha? Mỹ? Những ngọn núi bên trên Pau ư? “Là-bas, là-bas, dans la montagne1.” như tôi đã từng nghe Carmen hát trong vở nhạc kịch. Một đêm lạ lùng nọ, tôi nằm thức, lắng nghe tiếng thình thình lặp đi lặp lại của đại dương và hoạch định cuộc bỏ trốn của chúng tôi. Biển dường như đã dâng lên và dò dẫm trong bóng tối, rồi lại nặng nề úp mặt xuống.

Về cuộc bỏ chạy thật sự của chúng tôi, tôi không có gì để báo cáo. Ký ức của tôi chỉ lưu lại một thoáng hình ảnh cô bé ngoan ngoãn đi đôi giày vải đế cói vào, bên mé hứng gió của chiếc lều bị thổi lật phật, trong lúc tôi nhồi một cái lưới bắt bướm đã gập lại vào chiếc túi giấy màu nâu. Thoáng tiếp theo là cảnh chúng tôi lẩn tránh việc bị truy đuổi bằng cách lẻn vào một cinéma2 tối như hũ nút gần casino (tất nhiên, nơi đó tuyệt đối nằm ngoài giới hạn của chúng tôi). Trong đó, chúng tôi ngồi nắm tay nhau bên cạnh chú chó, thi thoảng nó lại khẽ lúc lắc đầu trên đùi Colette, và chúng tôi được xem một trận đấu bò tót giật cục, nhiễu sóng nhưng cực kỳ thú vị ở San Sebastián. Hình ảnh cuối tôi còn giữ được là cảnh chính mình bị Linderovski dẫn trên lối đi dạo. Cặp chân dài của anh ta di chuyển bằng nhịp điệu chắc nịch dự đoán điềm gở, và tôi có thể trông thấy thớ thịt trên cái cằm nghiêm nghị của anh đang giật giật dưới lớp da căng cứng. Cậu em trai bốn mắt của tôi, ở tuổi lên chín, mà anh ta vô tình lại đang dẫn bằng tay bên kia cứ liên tục nhoi lên phía trước để nhìn lén về phía tôi với vẻ tò mò ngưỡng mộ, như một con cú nhỏ.

1 Ở đó, ở đó, trên đỉnh núi

2 Rạp chiếu phim

Trong những món lưu niệm vặt vãnh mà chúng tôi mua được ở Biarritz trước khi đi, món tôi yêu thích là một chú bò nhỏ bằng đá đen, và một thứ giờ đây dường như đã thành biểu tượng chứ không phải chiếc vỏ sò mang tiếng sóng – một cái quản bút với những chấm nhỏ xíu bằng pha lê ở phần có họa tiết trang trí của nó. Nếu ai đó giữ nó ở thật gần một bên mắt, nhắm mắt còn lại và khi anh ta đã bỏ qua được rào ánh sáng chỗ lông mi của chính mình, anh ta có thể trông thấy một khung cảnh kỳ diệu như trong nghệ thuật nhiếp ảnh của vịnh và đường viền các rặng núi kết thúc ở chỗ ngọn hải đăng.

Và giờ một sự kiện vui thú sẽ xảy ra. Quá trình tái tạo lại chiếc quản bút và hình vẽ thu nhỏ bên trong cái lỗ của nó đã kích thích ký ức của tôi tới tận cùng. Một lần nữa tôi cố nhớ lại tên con chó của Colette – và đây rồi, dọc theo những bãi cát hẻo lánh kia, bên trên lớp cát lấp lánh buổi tối trong quá khứ, nơi từng dấu chân được nước biển buổi hoàng hôn chậm rãi lấp kín, tiếng vọng và rung ấy đã tới, đã tới: Floss, Floss, Floss!

Colette đã trở lại Paris vào lúc chúng tôi dừng tại đó một ngày trước khi tiếp tục hành trình về nhà; và ở đó, trong một công viên hươu dưới bầu trời xanh lạnh lẽo, tôi trông thấy cô bé lần cuối cùng (bởi sự sắp xếp giữa các gia sư của chúng tôi, tôi tin là vậy). Cô bé mang theo một cái vòng và chiếc gậy ngắn để dùng điều khiển vòng, và mọi thứ ở cô đều cực kỳ chỉn chu và hợp thời, theo kiểu tenue-de-ville-pour-fillettes1 của người Paris vào mùa thu. Cô bé lấy từ chỗ bảo mẫu của mình và đặt vào bàn tay em trai tôi một món quà tạm biệt, một hộp hạt hạnh nhân bọc đường mà tôi biết ý là chỉ dành riêng cho tôi; và ngay lập tức cô ra đi, gõ và đưa cái vòng lấp lánh của mình đi qua chỗ sáng và chỗ râm, vòng quanh một đài phun nước vương đầy lá khô, gần nơi tôi đang đứng. Những chiếc lá trộn lẫn với màu da trên giày và găng tay cô bé trong ký ức của tôi, và tôi nhớ được rằng vài chi tiết trên bộ y phục đó (có lẽ là một cái ruy băng trên chiếc mũ kiểu Scot, hay hoa văn trên tất dài), vào thời điểm đó, đã nhắc tôi nhớ tới xoáy cầu vồng trên một viên bi nhiều màu. Dường như tôi vẫn còn giữ mãi cái dải màu ngũ sắc ấy, không biết chính xác phải khớp nó vào đâu, trong lúc cô đã chạy cùng cái vòng của mình càng lúc càng nhanh hơn xung quanh tôi, và cuối cùng hòa tan vào những cái bóng mỏng mảnh bị hắt lên con đường lát sỏi từ những vòng cung đan nhau trên hàng rào thấp của nó.

1 Ăn vận cho bé gái