1
Một buổi sáng mùa hè nọ, ở nước Nga thần thánh trong tuổi thơ tôi, hình ảnh đầu tiên lúc tôi thức dậy là một khe hở giữa hai bức rèm trắng bên trong. Nếu nó hé lộ một màu xanh nhàn nhạt ướt át thì tốt hơn hết ta không nên mở cửa một tí nào, để khỏi phải trông thấy một ngày hờn dỗi ngồi chờ bức ảnh của nó trong một vũng nước. Người ta sẽ cảm thấy đáng ghét đến mức nào, nếu từ một đường kẻ ánh sáng mờ nhòa ấy, họ đoán được một bầu trời nặng trịch, lớp cát sũng nước, đống hổ lốn dập nát của những bông hoa nâu đã gãy bên dưới bụi tử đinh hương – và cả chiếc lá mỏng dẹt, lạc lõng (ca thương vong đầu tiên của mùa này) gắn chặt vào chiếc ghế băng ướt sũng ngoài vườn nữa!
Nhưng nếu cái khe ấy là một đường dài lấp lánh như sương thì tôi sẽ vội vã bắt cánh cửa sổ dâng tặng kho báu của nó. Chỉ với một cú mở, căn phòng sẽ được chia cách thành ánh sáng và bóng râm. Tán lá cây bu lô rung rinh trong gió có tông màu xanh trong vắt của những quả nho, và tương phản với nó là màu nhung huyền của những cây linh sam trên nền xanh lam đặc biệt đậm nét, thứ màu mà mãi nhiều năm sau này tôi mới khám phá lại một lần nữa trên vùng núi non Colorado.
Từ tuổi lên bảy, mọi điều tôi cảm nhận được từ ánh mặt trời trong khung cửa hình chữ nhật ấy đều bị chi phối bởi một đam mê duy nhất. Nếu hình ảnh đầu tiên tôi bắt gặp buổi ban mai là mặt trời, ý nghĩ đầu tiên của tôi là về những chú bướm mà nó sẽ sản sinh ra. Bản thân sự kiện gốc cũng khá tầm thường. Trên cành kim ngân treo lúc lỉu bên trên phần lưng trạm trổ của chiếc ghế băng ngay đối diện với lối vào chính, thiên thần dẫn lối của tôi (với đôi cánh mô phỏng cánh của thiên thần Gabriel của Fra Angelico, chỉ thiếu vòng hào quang) đã chỉ cho tôi một vị khách hiếm thấy, một sinh vật có màu vàng nhạt tuyệt diệu với những đốm màu đen, viền màu xanh dương, và đốm mắt màu son bên trên mỗi cái đuôi đen viền vàng. Trong lúc khám phá bông hoa cụp vào trong mà nó đang bám vào, nó không ngừng đập những chiếc cánh tuyệt vời của mình, và khao khát có được chú bướm ấy là một trong những cảm xúc mãnh liệt nhất mà tôi từng có. Chú Ustin nhanh nhẹn, người quét dọn trong dinh thự nhà tôi ở thành phố, vì một lý do nực cười (đã được giải thích đâu đó) mà vô tình cũng có mặt ở nông thôn với chúng tôi trong mùa hè đó, bằng cách nào đó đã bắt được chú bướm trong mũ của tôi, sau đó nó được mang đi, kèm cả mũ và các thứ, tới một tủ quần áo, ở đó cô Mademoiselle kỳ vọng một cách ngây ngô là băng phiến sẽ giết nó sau một đêm. Tuy nhiên, sáng hôm sau khi cô mở tủ quần áo để lấy vài thứ ra, chú bướm đuôi nhạn của tôi bay thẳng vào mặt cô với một cú đập cánh khỏe mạnh, rồi lao ra cánh cửa sổ mở rộng, và chẳng bao lâu sau chỉ còn là một chấm nhỏ vàng óng chao liệng, luồn lách rồi lao về phía Đông, trên đầu những cây thân gỗ và lãnh nguyên, về phía Vologda, Viatka và Perm, rồi bay qua cả dãy Ural hoang vu tới Yakutsk và Verkhne Kolymsk, và từ Verkhne Kolymsk, nơi nó mất một chiếc đuôi, tới hòn đảo St. Lawrence xinh đẹp, và băng ngang Alaska tới Dawson, xuôi phương Nam dọc theo dãy Rocky Mountains - để rồi cuối cùng bị bắt kịp và tóm gọn, sau một cuộc đua bốn mươi năm, trên một bông hoa bồ công anh nhập cư dưới một cây dương đặc hữu gần Boulder. Trong một bức thư từ ông Brune gửi ông Rawlins, đề ngày 14 tháng Sáu năm 1735, trong bộ sưu tập Bodleian, ông tuyên bố rằng một ông Vernon nào đó đã chạy theo một chú bướm suốt mười bốn cây số trước khi bắt được chú ta (The Recreative Review or Eccentricities of Literature and Life1, tập 1, trang 144, London, 1821).
1 Bản tin giải trí hay Những hiện tượng kỳ lạ của Văn học và Cuộc sống
Không lâu sau vụ việc với tủ quần áo tôi tìm thấy một chú bướm đêm đặc sắc, bị bỏ lại trong góc một cánh cửa sổ của phòng tiền sảnh, và mẹ tôi đã tiễn chú đi bằng e-te. Những năm sau này, tôi dùng rất nhiều chất diệt sâu bọ, nhưng chỉ một tiếp xúc nhỏ nhất với món ban đầu ấy cũng luôn làm ngọn đuốc của quá khứ bùng lên và thu hút vẻ đẹp vụng về ấy. Một lần, khi đã trưởng thành, lúc tôi đang chịu tác dụng của e-te trong cuộc mổ ruột thừa, và với độ sống động của ảnh đề can, tôi trông thấy chính mình trong bộ quần áo thủy thủ đang trèo lên lưng một con bướm hoàng đế vừa chui ra khỏi kén dưới sự hướng dẫn của một phu nhân Trung Quốc mà tôi biết là mẹ mình. Tất cả đều ở đó, được tái hiện rạng rỡ trong giấc mơ của tôi, trong khi chính phủ tạng của tôi thì đang bị phanh ra: miếng bông hút ẩm lạnh như đá ấn vào cái đầu màu đá lemurian; những đợt co thắt dịu dần của cơ thể nó; những tiếng lách cách sướng tai do cây đinh ghim thâm nhập vào lớp vỏ cứng của thân giữa; cú chọc tỉ mỉ của đầu mũi đinh vào tấm bảng bày côn trùng lót bần; việc sắp xếp đối xứng cặp cánh dày, vằn vện bên dưới những mẩu giấy trong cố định gọn gàng.
2
Chắc hẳn hồi đó tôi lên tám, trong một lần vào nhà kho của điền trang, giữa vô vàn những thứ bụi bặm ở đó, tôi khám phá ra vài cuốn sách tuyệt vời được đưa về từ cái thời mẹ của mẹ tôi vẫn còn thích thú với khoa học tự nhiên và đã nhờ một giáo sư đại học nổi tiếng ngành động vật học (Shimkevich) giảng các bài riêng cho con gái bà. Một vài trong số này hoàn toàn là đồ cổ, chẳng hạn như bốn cuốn sách khổ hai to đùng bằng giấy nâu của Albertus Seba (Locupletissimi Rerum Naturalium Thesauri Accurata Descriptio…), in tại Amsterdam khoảng năm 1750. Trên những trang giấy sần sùi của chúng tôi tìm thấy các bản tranh khắc gỗ của loài bò sát, bướm và phôi thai. Hình ảnh bào thai của một bé gái người Ethiopy bị tràng hoa quấn cổ nằm trong bình thủy tinh thường làm tôi kinh ngạc một cách tởm lợm mỗi lần giở ngang qua; tôi cũng không quan tâm lắm đến con rắn nhiều đầu nhồi bông trên đĩa CII, với bảy cái đầu rùa mang răng sư tử trên bảy cần cổ rắn và cơ thể phồng to kỳ dị của nó, dọc hai bên thân là những nốt sần hình khuy áo và kết thúc là một cái đuôi bị xoắn.
Những cuốn sách khác tôi tìm thấy trên tầng gác mái ấy thì gần hơn với đề tài của tôi, lẫn giữa những tập mẫu cây đầy các loại hoa lâu đẩu, hoa nữ lang màu xanh lam, hoa cẩm chướng Jove, hoa huệ tây màu cam-đỏ và các loại hoa Davos khác. Tôi ôm chúng trong tay và mang xuống nhà cả một ôm lớn những tuyển tập hấp dẫn một cách tuyệt diệu: các bìa sưu tập côn trùng Surinam1 đáng yêu của Maria Sibylla Merian (1647 - 1717), cuốn Die Schmetterlinge cao quý của Esper (Erlangen, 1777), và cuốn Icones Historiques de Lépidoptères Nouveaux on Peu Connus2 (Paris, bắt đầu năm 1832). Thú vị hơn thế nữa là các tác phẩm thuộc nửa sau của thế kỷ đó – cuốn Natural History of British Butterflies and Moths3 của Newman, Die Gross-Schmetterlinge Europasi của Hofmann, Mémoires4 của Đại Công tước Nikolay Mihailovich về bộ cánh vảy châu Á (với những hình minh họa xinh đẹp không gì sánh được do Kavringin, Rybakov, Lang vẽ), tác phẩm kỳ vĩ của Scudder về Butterflies of New England5.
Ngẫm lại thì, mùa hè năm 1905 ấy dù vẫn còn khá sống động theo rất nhiều cách, nhưng lại chưa được thổi sinh khí chỉ bằng một cú vút cánh bay hay cụm bông màu sắc lượn lờ quanh con đường đi bộ cùng với thầy giáo làng của chúng tôi: chú bướm đuôi nhạn của tháng Sáu năm 1906 vẫn còn đang ở dạng sâu non trên một thân cây họ hoa tán ven đường; nhưng trong tháng đó tôi đã làm quen với khoảng một chục loại thường gặp, và Mademoiselle đã dùng cách gọi le chemin des papillons bruns6 để nhắc tới một con đường cụ thể trong rừng mà đoạn kết của nó là một đầm cỏ chứa đầy loài Fritillaries viền ngọc trai nhỏ (như cách chúng được gọi trong cuốn sổ tay nhỏ đầu tiên, không thể lãng quên và không phai mờ trong ký ức tôi, The Butterflies of the Bristish Isles1 của Richard South). Năm tiếp theo tôi bắt đầu nhận thức rằng rất nhiều loài bướm và ngài của chúng tôi không có khởi nguồn từ Anh Quốc hay Trung Âu, và những cuốn atlat hoàn thiện hơn giúp tôi xác định được chúng. Một trận ốm nặng (viêm phổi kèm sốt lên tới 41 độ) hồi đầu năm 1907 đã xóa sổ một cách bí ẩn năng khiếu khủng khiếp về số học từng làm tôi trở thành thần đồng trong vài tháng (ngày nay tôi không thể làm phép tính 13 nhân 17 mà không có bút chì và giấy; mặc dù tôi có thể cộng chúng, chỉ trong nháy mắt, số ba khớp với số bảy một cách gọn ghẽ); nhưng lũ bướm thì còn đọng lại. Mẹ tôi gom góp thành cả một thư viện và viện bảo tàng quanh giường tôi, và khao khát mô tả một loài bướm mới đã hoàn toàn thế chỗ cho mong muốn khám phá một số nguyên tố mới. Chuyến đi tới Biarritz tháng Tám năm 1907 đã thêm vào nhiều điều kỳ diệu mới (dù không rạng rỡ và nhiều bằng chuyến sau này năm 1909). Đến năm 1908 tôi đã nắm được tuyệt đối các loài bướm châu Âu như Hofmann đã biết. Năm 1910, tôi đã sống trong mơ suốt những tập đầu của bộ sách tranh đồ sộ Die Gross-Schmetterlinge der Erde của Seitz, đã mua một số loài hiếm gặp mới được mô tả, và ngấu nghiến đọc hết những ấn bản định kỳ ngành sâu bọ, đặc biệt là những cuốn bằng tiếng Anh và tiếng Nga. Những bước ngoặt lớn đang diễn ra trong sự phát triển của ngành hệ thống hóa sinh học. Kể từ giữa thế kỷ, ngành bướm học của châu Âu về cơ bản là một ngành đơn giản và ổn định, được người Đức điều hành trơn tru. Vị tu sĩ tối cao trong ngành, tiến sĩ Staudinger đồng thời cũng là người đứng đầu công ty buôn bán côn trùng lớn nhất. Kể cả bây giờ, nửa thế kỷ sau ngày ông mất, các nhà bướm học người Đức vẫn còn chưa hoàn toàn rũ bỏ được câu thần chú hớp hồn xuất phát từ quyền lực của ông. Ông vẫn còn sống khi ngôi trường của ông bắt đầu mất dần vị thế với tư cách là một tổ chức khoa học của thế giới. Trong khi ông cùng những người ủng hộ vẫn còn bám lấy cách đặt tên cụ thể và theo hệ thống chi loài được dùng từ lâu đời, và hài lòng với việc phân loại bướm dựa trên những đặc tính hiện hữu trước mắt thường, các tác giả người Anh đã đang giới thiệu những thay đổi về danh pháp vốn là kết quả của việc áp dụng nghiêm ngặt quy tắc ưu tiên và những thay đổi trong phân loại dựa trên việc nghiên cứu các cơ quan nội tạng trên kính hiển vi. Người Đức làm mọi cách để phớt lờ xu hướng mới và tiếp tục bấu víu khía cạnh giống với sưu tầm tem này của ngành khoa học sâu bọ. Cái ham muốn để cho “các nhà sưu tập bình dân không nhất thiết phải mổ xẻ” này cũng tương đương với cái cách các nhà xuất bản của những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bồn chồn cưng nựng “độc giả bình dân” – những người không nhất thiết phải nghĩ ngợi.
1 Một quốc gia ở Nam Mỹ
2 Những biểu tượng lịch sử của loài Lepidoptera nhỏ bé và mới mẻ
3 Lịch sử tự nhiên của các loài bướm và ngài Anh Quốc
4 Hồi kí
5 Các loài bướm của New England.
6 Con đường bươm bướm
1 Các loài bướm trên những hòn đảo Anh Quốc
Thời điểm này còn một sự thay đổi chung chung hơn, vô tình lại trùng khớp với mối quan tâm sôi nổi của tuổi mới lớn trong tôi với các loài bướm và ngài. Kiểu phân chia loài từ thời Victoria và Staudinger, khép kín và đồng nhất, với những “biến dị” nhỏ (của vùng núi, vùng cực, đảo, .v.v) được gán cho nó từ bên ngoài như những phần phụ ngẫu nhiên đã được thay thế bằng một kiểu phân chia loài mới, đa dạng và có thể thay đổi, bao gồm một cách có hệ thống những chủng loài theo địa lý và phân loài. Từ đó các khía cạnh mang tính cách mạng của trường hợp này được bộc lộ ra rõ ràng hơn, bằng những phương pháp phân loại linh hoạt hơn, và các mối liên kết sâu hơn giữa các loại bướm và những vấn đề cốt lõi của tự nhiên đã được các cuộc điều tra về sinh vật học cung cấp.
Những điều bí ẩn trong việc bắt chước có sức hấp dẫn đặc biệt với tôi. Hiện tượng lạ lùng này cho thấy một sự hoàn hảo về mặt nghệ thuật thường liên quan tới các tạo vật nhân tạo. Hãy xem việc giả vờ rỉ độc bằng những vệt chấm hình bong bóng trên một bên cánh (hoàn chỉnh tới tận độ khúc xạ giả) hay những cái u màu vàng bóng lưỡng trên con nhộng (“Xin đừng ăn tôi – Tôi đã bị ép chặt, nếm thử và bị từ chối”). Hãy xem mẹo lừa của một con sâu bướm lộn nhào (của bướm cua) lúc còn non trông y hệt một cục phân chim, nhưng sau khi rời kén, chúng phát triển các phần phụ cánh màng nhỏ bé và những đặc tính kỳ quặc, cho phép loài vật phi thường này diễn hai vai cùng một lúc (giống một chàng kịch sĩ trong chương trình nghệ thuật phương Đông trở thành một đôi đô vật đang xoắn xuýt lấy nhau vậy): vừa là chú sâu quằn quại, vừa là một con kiến to dường như đang tấn công nó. Khi một con bướm đêm bắt chước một chú ong bầu cả về hình dạng và màu sắc, nó đồng thời cũng đi lại và dịch chuyển những cái râu của nó theo kiểu cách của một chú ong chứ không phải bướm. Khi một con bướm phải làm cho mình giống chiếc lá, nó không chỉ diễn lại một cách đẹp đẽ mọi chi tiết của chiếc lá, mà cả những dấu vết nhái lại lỗ lá bị ấu trùng ăn cũng được hào phóng thêm vào. “Chọn lọc tự nhiên” theo thuyết của Darwin không thể giải thích sự trùng hợp kỳ diệu của việc bắt chước diện mạo và hành vi này, người ta cũng không thể viện tới thuyết “chiến đấu để sinh tồn” khi một cơ chế bảo vệ lại được đẩy lên một mức độ giả dạng tinh vi, hoa mĩ và xa hoa vượt xa quyền năng lĩnh hội của kẻ săn mồi như thế. Tôi đã khám phá trong thiên nhiên những niềm vui sướng phi vụ lợi mà tôi kiếm tìm trong nghệ thuật. Cả hai đều là một dạng của phép màu, đều là một trò chơi quyến rũ và lừa lọc tinh tế.
3
Tôi đã đi săn bướm trên khắp những xứ sở khác nhau, dưới nhiều dạng giả trang: một cậu bé đẹp trai trong chiếc quần bó gối và mũ thủy thủ; chàng trai thành thị biệt xứ gày gò với lủng củng túi vải và mũ bê-rê; một ông già béo ú đầu trần quần soóc. Hầu hết các tủ đựng đồ của tôi đều đã chịu chung số phận với ngôi nhà ở Vyra. Các tủ nằm trong dinh thự ở thành phố và một bộ phụ nhỏ tôi để lại ở bảo tàng Yalta chắc chắn cũng đã bị hủy hoại bởi lũ rệp thảm hay loài gây hại nào khác. Một bộ sưu tập bướm vùng Nam Âu mà tôi bắt đầu từ lúc ly hương đã biến mất ở Paris trong Đại chiến Thế giới thứ Hai. Toàn bộ vật phẩm của tôi từ năm 1940 đến 1960 (vài ngàn mẫu vật, bao gồm cả những loài quý hiếm) đều nằm tại Bảo tàng Động vật học So sánh, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ và Bảo tàng Ngành côn trùng học của trường Đại học Cornell, nơi chúng được an toàn hơn nhiều nếu phải ở lại Tomsk hay Atomsk. Những kỉ niệm hạnh phúc tuyệt vời, thực ra là khá tương đồng với thời thơ ấu của tôi ở nước Nga, có liên quan đến công việc nghiên cứu của tôi ở Bảo tàng MCZ, Cambridge, Massachusett (1941 - 1948). Không kém phần hạnh phúc hơn thế là rất nhiều chuyến đi thu thập đã diễn ra gần như mọi mùa hè, trong suốt hai mươi năm, trên hầu hết các tiểu bang của đất nước đã nhận nuôi tôi.
Ở Jackson Hole và Grand Canyon, trên những dốc núi bên trên Telluride, Colorado, và trên cánh đồng thông được ca tụng gần Albany, New York, vô vàn thế hệ những loài bướm mà tôi đã mô tả là loài mới, nhiều hơn cả số lần xuất bản sách, đang sinh sôi, và sẽ còn sinh sôi tiếp nữa. Một vài phát hiện của tôi đã được những người khác nghiên cứu trước; một vài loài được đặt theo tên tôi. Một trong số chúng, chú Pug của Nabokov (Eupithecia nabokovi1 McDunough) mà tôi bắt được trong một đêm năm 1943, trên một cửa sổ ngắm cảnh của nhà nghỉ Alta của James Laughlin ở Utah, về mặt triết lý hoàn toàn khớp vào chuỗi phát triển xoắn ốc đã bắt đầu trong khu rừng bên bờ Oredezh quãng năm 1910 ấy – hay có lẽ là còn sớm hơn nữa, trên dòng sông Nova Zemblan từ cách đó một thế kỷ rưỡi.
1 Một loài bướm đêm trong họ Geometridae
Quả thực tôi chỉ biết rất ít điều có thể giàu hơn và mãnh liệt hơn về mặt cảm xúc và sở thích, tham vọng hay thành tựu, so với niềm vui tới từ những khám phá trong ngành côn trùng. Ngay từ lúc ban đầu nó đã mang nhiều khía cạnh đan cài lẫn nhau. Một trong số chúng là khao khát sâu sắc nhất được ở một mình, bởi bất kỳ người bạn đồng hành nào, dù có lặng lẽ đến đâu, cũng can thiệp vào niềm vui cô đọng trong cái thú gàn này của tôi. Sự thỏa mãn từ nó không chấp nhận bất cứ nhượng bộ hay ngoại lệ nào. Ngay từ lúc tôi lên mười, các thầy và cô gia sư đều đã biết rằng buổi sáng là của riêng tôi, và cẩn thận tránh xa.
Nói đến chuyện này tôi lại nhớ lần ghé thăm của một người bạn đồng môn, một cậu bé tôi rất yêu quý và từng có nhiều niềm vui bên cậu. Cậu đến vào một đêm hè – năm 1913, tôi nghĩ vậy – từ một thị trấn cách chúng tôi khoảng ba mươi hai cây số. Cha cậu vừa mất ít lâu trong một tai nạn, gia cảnh lụn bại, và vì không thể mua nổi chiếc vé tàu hỏa, cậu bé đã đạp xe hết từng ấy dặm đường chỉ để dành vài ngày với tôi.
Vào buổi sáng sau hôm cậu đến, tôi đã làm mọi việc có thể để chuồn ra khỏi nhà cho cuộc leo núi buổi sáng, hòng không để cậu ấy biết tôi đã đi đâu. Bỏ qua bữa sáng, tôi vội vội vàng vàng thu thập lưới, hộp đựng, bình giết bướm và trốn qua cửa sổ. Khi đã vào rừng là tôi an toàn; nhưng tôi vẫn cứ đi mãi, hai bắp chân run rẩy, mắt thì đầy những giọt lệ nóng bỏng, toàn bộ con người tôi bừng bừng hổ thẹn và tự ghê tởm, vì tôi mường tượng ra người bạn tội nghiệp của mình, với khuôn mặt dài nhợt nhạt và chiếc nơ đen, thẫn thờ trong khu vườn nóng rẫy – vỗ về mấy chú chó đang lè lưỡi thở vì muốn có việc gì đó hay ho hơn để làm, và cố hết sức biện hộ cho sự vắng mặt của tôi với chính cậu.
Hãy để tôi nhìn vào con quỷ của mình một cách khách quan. Ngoại trừ cha mẹ tôi, không ai thực sự hiểu nổi nỗi ám ảnh của tôi, và phải mãi sau này tôi mới gặp được một người đồng cảnh ngộ. Một trong những điều đầu tiên tôi học được là không được dựa vào người khác để làm dày thêm bộ sưu tập của mình. Một buổi chiều mùa hè nọ, năm 1911, Mademoiselle vào phòng tôi, sách trong tay, và bắt đầu nói cô muốn cho tôi biết Rousseau đã khôn ngoan phản đối động vật học như thế nào (để ủng hộ ngành thực vật), và đến lúc ấy thì quá trình của lực hút trái đất đã đi quá xa trong lúc cô hạ thân thể đồ sộ xuống một chiếc ghế bành, đến mức tôi không còn có thể ngăn lại bằng một tiếng hú đau thương: trên chiếc ghế ấy tôi vô tình đang để một cái hộp có nắp kính bày một hàng dài những chú bướm bắp cải trắng xinh đẹp. Phản ứng đầu tiên của cô xuất phát từ tính phù phiếm bị tổn thương: chắc chắn trọng lượng của cô không thể bị đổ lỗi cho việc làm hỏng thứ mà thực tế đã bị hỏng sẵn rồi; phản ứng thứ hai là an ủi tôi: Allons donc, ce ne sont que des papillons de potager1! – vốn chỉ càng làm tình hình tệ hại hơn. Một cặp bướm Sicily vừa mới mua từ Staudinger gần đây đã bị nghiền nát và bầm dập. Một mẫu Biarritz lớn đã hỏng hoàn toàn. Cả vài mẫu vật từ địa phương được lựa kỹ lưỡng nhất của tôi cũng đã nát bươm. Trong số này, một mẫu lạ có chút tương đồng với chủng Canari trong chi bướm này có thể được sửa chữa lại bằng vài giọt hồ dán; nhưng một con bướm lưỡng tính cực hiếm, bên trái là con đực, bên phải là con cái, mà bụng thì đã không thể tìm được, còn cánh thì rời hẳn ra, ta có thể gắn lại những chiếc cánh đã rời ra, nhưng lại không thể chứng minh rằng cả bốn cánh cùng thuộc về phần ngực không đầu đang nằm trên chiếc đinh vòng của nó được. Sáng hôm sau, với biểu hiện bí ẩn cực kỳ, cô Mademoiselle tội nghiệp lao đi St. Petersburg và tối hôm đó trở về mang theo cho tôi (“một thứ còn hay hơn mấy chú bướm bắp cải của em”) một con ngài Urania vô vị nằm trên bìa nhựa. “Em mới ôm tôi chặt làm sao, nhảy múa vui sướng làm sao!” - mười năm sau đó cô khăng khăng nói vậy trong quá trình sáng tạo ra một quá khứ hoàn toàn mới.
1 Thôi nào, chúng chỉ là lũ bướm trong vườn rau thôi mà
Vị bác sĩ ở làng của chúng tôi, người mà tôi đã gửi lại những con nhộng của một loài bướm đêm hiếm quý trước khi ra nước ngoài, đã viết thư kể cho tôi nghe là mọi thứ đều lột xác đẹp đẽ; nhưng trên thực tế một con chuột đã ăn mất mấy con nhộng quý giá kia, và khi tôi trở về, ông già lừa đảo đã đưa ra vài con bướm vỏ rùa thông thường mà tôi đồ rằng ông ta đã bắt vội trong vườn rồi nhồi vào cái hộp ấp nở làm chúng thành vật thay thế khả dĩ (hay đúng hơn ông ta đã nghĩ là khả dĩ). Giỏi hơn ông già là một cậu phụ việc trong bếp, đôi khi cậu mượn đồ nghề của tôi và hai tiếng sau quay lại với vẻ đắc thắng cùng một cái túi đầy các loài động vật không xương sống còn nóng hổi và vài thứ khác nữa. Hé cái miệng túi lưới mà cậu đã buộc lại bằng một sợi dây, cậu sẽ đổ ra chiến lợi phẩm hùng hậu của mình – một đàn châu chấu, ít cát, hai phần của một cây nấm mà cậu đã tằn tiện hái trên đường về nhà, lại thêm châu chấu, thêm cát, và một chú bướm trắng nhỏ bầm dập.
Trong các tác phẩm của những nhà thơ Nga lớn, tôi chỉ có thể phát hiện ra hai hình ảnh của loài bướm là thực sự có tính gợi cảm: lời gợi ý không chê vào đâu được của Bunin về một thứ chắc chắn là bướm vỏ rùa:
Dập dờn bay lượn
Sặc sỡ lụa là
Chú bướm chấp chới
Trên nền trời xanh…
và lời độc thoại của Fet trong “Con bướm”:
Tôi đến từ đâu và vội vã tới đâu
Xin chớ hỏi;
Này bông hoa duyên dáng tôi đã chọn
Và hít thở nơi đây.
Trong thơ ca Pháp ta bị choáng bởi những dòng thơ trứ danh của Musset (trong Le Saule1):
Le phalène doré dans sa course légère
Traverse les prés embaumés2
1 Cây liễu
2 Chú bướm vàng đua cùng ánh sáng
Băng ngang đồng cỏ ngát hương
Đây là bản mô tả chính xác cuộc chạy trốn trước hoàng hôn của những con đực trong họ bướm sâu đo mà ở Anh người ta gọi là Ngài Cam; và còn có cụm từ thích hợp một cách thú vị của Fargue (trong Les Quatres Journées3) mô tả một khu vườn và khi đêm xuống, se glace de bleu comme l’aile du grand Sylvain4. Và trong số hiếm hoi những hình ảnh thực sự về bướm trong thơ ca Anh, đoạn thơ yêu thích của tôi là của Browning:
On our other side is the straight-up rock;
And a path is kept ’twixt the gorge and it
By boulder-stones where lichens mock
The marks on a moth, and small ferns fit
Their teeth to the polished block
Dịch nghĩa:
Bên kia chúng tôi vách núi dựng đứng;
Kẹp con đường giữa đá tảng và vực sâu
Từ đá cuội phủ rêu xanh ken chặt
Hoa văn trên bướm và cành dương xỉ
Bấu chặt vào đá núi nhẵn trơn
(“By the Fire-side”5)
3 Một vở Opera do Alfred Bruneau soạn nhạc phần lời của Emile Zola
4 Màu xanh đóng băng như đôi cánh của Sylvain vĩ đại
5 Tạm dịch Bên lò sưởi
Tôi lấy làm kinh ngạc về việc những người bình thường ít để ý tới bướm đến thế nào. “Không có con nào” là lời đáp bình thản của người leo núi Thụy Sỹ chắc nịch với cuốn sách của Camus trong túi vải khi tôi cố tình hỏi anh ta, vì lợi ích người bạn đồng hành còn hoài nghi của tôi, là liệu anh có trông thấy bất kỳ chú bướm nào trong lúc đi xuống đường mòn này không, nơi mà một giây trước đó vợ tôi và tôi vừa được sung sướng đầm mình trong cả đàn bướm. Nhưng quả thật khi tôi gợi lại hình ảnh của một lối đi cụ thể được lưu lại trong ký ức từng li từng tí dù bắt gặp từ mùa hè trước năm 1906 đó, cũng tức là trước cái ngày đạt danh hiệu địa phương đầu tiên của tôi, và chưa bao giờ được thăm lại, tôi không tài nào mường tượng ra dù chỉ một cái cánh, một nhịp vỗ, một cú nháng qua xanh thẳm, một bông hoa vương cánh bướm nào, cứ như một lời nguyền quỷ quái đã bị ếm lên bờ biển Adriatic ấy khiến cho mọi con “lep” (như cách những người thích nói từ lóng trong chúng tôi gọi) đều trở nên vô hình. Đó cũng chính là cảm nhận của một nhà côn trùng học trong một ngày nào đó khi đang lê bước bên niềm hạnh phúc tột cùng, hay như một nhà thực vật học không mũ bảo hộ giữa một thảm thực vật gớm guốc trên một hành tinh song song, không bóng hình côn trùng nằm trong tầm mắt; và cũng giống như (trong một minh chứng lạ lùng của một sự việc kỳ lạ là cứ hễ khi nào có thể, cảnh trí trong thời thơ ấu của chúng ta sẽ được một nhà sản xuất nông cạn keo kiệt dùng làm sân khấu bày sẵn cho những giấc mơ tuổi trưởng thành) cái đỉnh đồi bên bờ biển trong một cơn ác mộng lặp đi lặp lại của tôi, trong đó tôi đã lén đưa vào một cái lưới gập lại được từ trạng thái còn thức của mình, dù xám xịt màu húng tây và nhãn hương, nhưng khó hiểu thay lại không có lấy một con bướm nào mà đáng lẽ ra chúng phải có đầy ở đó.
Tôi cũng phát hiện ra từ sớm rằng một nhà “bướm học” vùi mình trong công cuộc truy lùng thầm lặng thì thường gợi lên những phản ứng xa lạ nơi các sinh vật khác. Chuyện rất thường thấy là, khi có một buổi tiệc ngoài trời nào đấy được sắp xếp, và tôi tự giác cố đưa những dụng cụ khiêm tốn của mình vào chiếc xe khách1 bốc mùi hắc ín để không ai chú ý (hắc ín được chuẩn bị sẵn để xua lũ ruồi tránh xa ngựa kéo), hoặc chiếc mui trần Opel bốc mùi trà (bốn mươi năm trước ét-xăng2 có mùi như vậy), một ông anh họ hay bà dì nào đó của tôi sẽ thốt lên: “Cháu nhất định phải mang cái lưới ấy theo cùng à? Cháu không thể tận hưởng cuộc đời như một cậu bé bình thường được sao? Cháu không nghĩ là mình đang làm hỏng niềm vui của mọi người à?” Gần một tấm biển NACH BODENLAUBE, ở Bad Kissingen, Bavaria, ngay khi tôi sắp sửa đi cùng một chuyến cuốc bộ dài với cha tôi và Muromtsev vĩ đại (người mà bốn năm trước đó, năm 1906, đã trở thành Chủ tịch của Quốc hội Nga đầu tiên), ông liền quay mái đầu bạc như cước sang tôi, một thằng nhóc yếu đuối mười một tuổi, và nói bằng vẻ nghiêm nghị trứ danh: “Xin mời cứ đi cùng chúng ta, nhưng không đuổi theo bướm nhé, cậu bé. Nó làm hỏng nhịp điệu của chuyến đi.” Trên một lối mòn ở bên trên Biển Đen, thuộc bán đảo Crimea, trong những bụi hoa nở rộ như sáp, vào tháng Ba năm 1918, một người lính Bolshevik chân vòng kiềng đã cố bắt tôi vì tội ra hiệu (mà theo lời anh ta là với cây lưới của tôi) cho một chiếc tàu chiến Anh. Trong suốt mùa hè năm 1929, mỗi lần đi bộ qua một ngôi làng trong dãy Đông Pyrenees, và vô tình nhìn lại sau lưng, tôi lại thấy đằng sau mình là cả đám dân làng đông cứng trong vô số thái độ khác nhau bởi việc tôi đi ngang, cứ như tôi là Sodom còn họ là vợ của Lot1 vậy. Một thập kỷ sau, ở Maritime Alps, có lần tôi để ý thấy đám cỏ nhấp nhô trên con đường uốn lượn đằng sau mình do một tay cảnh sát địa phương béo phục phịch đang trườn theo tôi để xem có phải tôi không đi bẫy chim sẻ hót hay không. Nước Mỹ thậm chí còn thể hiện mối quan tâm không lành mạnh này với các hoạt động liên quan đến lưới của tôi hơn cả các quốc gia khác – có lẽ vì tôi đã vào tuổi tứ tuần khi tới đó sinh sống, và khi người đàn ông càng già thì càng có vẻ kỳ quặc với một cái lưới vợt bướm trong tay. Những người nông dân nghiêm nghị đã chỉ cho tôi thấy các tấm biển KHÔNG CÂU CÁ; từ những chiếc xe hơi đi ngang qua tôi trên đường cao tốc phát ra những tiếng hú hét chế nhạo; những chú chó ngái ngủ, dù chẳng thèm để tâm gì đến kẻ lang thang tồi tệ nhất, lại nghếch đầu lên và xồ ra chỗ tôi, nhe răng gầm gừ; mấy đứa bé chỉ trỏ tôi cho các bà mẹ bối rối của chúng; những người đi chu du thoáng tính thì lại hỏi tôi có phải tôi đang bắt bọ làm mồi câu không; và một buổi sáng kia, trên vùng đất trống được điểm sáng bởi những cây ngọc giá cao đang nở rộ, gần Santa Fe, một chú ngựa cái đen to lớn đã đi theo tôi suốt cả mấy cây số.
1 Loại xe ngựa kéo có ghế dài (thường hở nắp) chở khách đi thăm quan
2 Cách gọi cũ của “xăng” (mượn từ tiếng Pháp “essence”)
1 Câu chuyện về sự hủy diệt thành Sodom trong Kinh Thánh (Sáng Thế ký). Vợ của Lot không nghe lời khuyên của Đức Chúa Trời nên khi bỏ chạy khỏi thành Sodom đã ngoái lại nhìn và biến thành tượng muối.
4
Sau khi đã rũ bỏ được hết những kẻ bám đuôi, tôi chọn lấy con đường đất đỏ gồ ghề chạy từ điền trang Vyra tới cánh đồng và khu rừng, những hoạt động và vẻ đẹp rực rỡ ban ngày dường như là một cơn rùng mình cảm thông quanh tôi.
Những chú bướm Arran Brown rất tươi mới, rất sậm màu, vốn chỉ nổi lên mỗi hai năm một lần (tiện thay, chuyện hồi tưởng lại rơi đúng vào quãng này), dập dờn giữa đám cây linh sam hay lộ những chấm đỏ và viền kẻ ca-rô của chúng trong lúc phơi nắng trên những cây dương xỉ ven đường. Nhảy bật trên cỏ, một chú Ringlet nhỏ tí xíu tên là Hero né cú chụp của tôi. Vài chú ngài cũng đang bay lượn – những kẻ si mê mặt trời lòe loẹt vẫn lượn lờ từ bông hoa này sang bông hoa khác như đám ruồi được sơn màu, hay những con đực mất ngủ đang kiếm tìm bạn tình còn đi trốn của chúng, chẳng hạn chú Oak Eggar màu rỉ sắt đang rầm rập băng ngang bụi dâu kia. Tôi để ý thấy (một trong những bí ẩn lớn của tuổi thơ tôi) một chiếc cánh màu xanh lục nhạt mềm mại bị mắc vào mạng nhện (đến lúc này thì tôi đã biết nó là gì: một phần thân thể con Emerald lớn). Một con sâu bướm to tướng của bướm đêm Goat Moth, chia khoang một cách phô trương, cái đầu dẹp lép, màu sắc tươi tắn và mập mạp bóng lưỡng, một sinh vật kỳ lạ “trần trụi như một con giun” nếu phải dùng cách so sánh trong tiếng Pháp, băng ngang đường đi của tôi trong cuộc tìm kiếm hoảng loạn một nơi để tạo kén (áp lực khủng khiếp của việc biến tướng, bầu không khí của một sự kiện hổ nhục ngay trước mặt bàn dân thiên hạ). Trên vỏ của một cây bu lô, cái cây cứng cáp gần cửa phụ của công viên, mùa xuân trước tôi đã tìm thấy một phiên bản giả màu tối của loài Carmelite ở Sievers (với độc giả thì nó chỉ là một con ngài xám khác mà thôi). Trong con lạch bên dưới cây cầu nhỏ, một chú Silvius Skipper vàng tươi đàn đúm với chú chuồn chuồn (với tôi chỉ là một con libellula xanh dương). Từ một bông hoa hai con Copper đực phóng vút lên cao, vừa bay vừa chiến đấu suốt cả quãng đường – rồi một lát sau có tiếng lao xuống vun vút khi một trong hai con trở về bông cây kế của mình. Ở đó có nhiều loài côn trùng thân thuộc, nhưng bất kỳ lúc nào cũng sẽ có một thứ hay ho hơn khiến tôi phải dừng chân với một lần hít vào thật nhanh. Tôi nhớ một ngày nọ, khi tôi đang ngập ngừng chụp cái vợt của mình xuống gần hơn và gần hơn nữa tới một chú Hairstreak khác lạ đang duyên dáng đậu trên nhành cây non, tôi có thể trông thấy rõ ràng chữ W trắng trên phần thân dưới màu nâu sô cô la của nó. Hai cánh nó đã khép lại, và cánh bên trong đang cọ vào nhau theo một cử động tròn gây tò mò – có lẽ là để tạo ra những nhịp âm vô tư lự của côn trùng với tần số quá cao so với tai người. Từ lâu tôi đã mong bắt được một con trong loài này, và khi đã đủ gần, tôi lao đến. Có thể bạn đã từng nghe tiếng rền rĩ của những tay quán quân quần vợt khi họ đánh trượt một cú dễ dàng. Có thể bạn đã trông thấy khuôn mặt của kỳ thủ nổi danh Wilhelm Edmundson khi ông ta thua mất con xe dưới tay một người chơi nghiệp dư và là bác sĩ nhi ở địa phương, trong ván cờ một đấu nhiều cùng lúc tại một quán cà phê Minsk, chỉ vì một chút bất cẩn ngớ ngẩn. Và bác sĩ Schach cuối cùng đã thắng cả ván. Nhưng ngày hôm đó, không ai (trừ chính bản thân tôi ngày ấy) có thể trông thấy tôi giũ mấy cành cây nhỏ trong cái lưới trống rỗng, và nhìn chằm chằm vào một cái lỗ trên tấm vải tarlatan1.
1 Loại vải mỏng hồ cứng, được dùng làm lớp lót bên trong trang phục.
5
Gần điểm giao cắt của hai lối đi cho xe ngựa (một bên được chăm chút cẩn thận, chạy theo hướng Bắc-Nam nằm giữa hai công viên “cũ” và “mới” của chúng tôi, còn cái kia thì tạp nhạp bùn đất, dẫn tới Batovo nếu bạn rẽ sang phía Tây) nơi cây dương mọc rậm rạp ở cả hai bờ của một chỗ đất lún, trong tuần thứ ba của tháng Sáu, tôi chắc chắn sẽ tìm được những chú bướm giáp xanh-đen to đẹp với sọc trắng phau, lượn lờ tung cánh thật thấp bên trên lớp đất sét đặc có màu đồng bộ với màu bụng dưới của chúng khi chúng đậu và gập cánh lại. Chúng là những con đực thích phân mà những người sưu tầm già thường gọi là Poplar Admirable, hay chính xác hơn chúng thuộc về phân loài Bucovinan. Với một chú bé chín tuổi không biết gì về giống loài này, tôi chú ý chuyện các loài ở phía Bắc nước Nga, khác với những gì Hoffman mô tả về loài Trung Âu nhiều đến thế nào, và hấp tấp viết thư cho Koznetsov, một trong những nhà côn trùng học vĩ đại nhất nước Nga, hay đúng hơn là nhất thế giới, trong mọi thời đại, và đặt tên phân loài mới của mình là “Limenitis populis rossica”. Cả một tháng dài đằng đẵng sau, ông hồi đáp bản mô tả và bức tranh màu nước vẽ “rossica Nabokov” của tôi chỉ bằng hai từ viết tháu trên mặt sau lá thư: “bucovinensis Hormuzaki”. Tôi mới căm ghét Hormuzaki làm sao! Và tôi mới đau đớn làm sao khi sau này, trong một tài liệu của Kuznetsov, tôi tìm được một đoạn ghi chú cộc cằn nhắc tới “mấy cậu học trò hay đặt tên cho các biến dị nhỏ của loài Poplar Nymph!” Tuy nhiên, không hề nản lòng trước cú ngã ngựa cá biệt, năm sau đó tôi đã lại “khám phá” ra một loài bướm đêm “mới”. Mùa hè đó, tôi cần mẫn thu thập trong những đêm không trăng, trên một trảng cỏ trong công viên bằng cách trải một tấm ga giường phủ lên cỏ, và những con đom đóm khó chịu trong đó, tôi chiếu ngọn đèn a-xê-ty-len lên trên (chính là ngọn đèn mà sáu năm sau sẽ tỏa sáng trên Tamara). Những con ngài sẽ lập lờ bay vào trong vòng tròn ánh sáng ấy từ bóng tối mịt mùng xung quanh tôi, và chính là theo cách ấy, bên trên tấm ga ma thuật ấy, tôi đã thu được một con Plusia xinh đẹp (giờ là Phytometra), mà chỉ nhìn thoáng qua thôi tôi đã biết nó khác biệt với đồng minh gần gũi nhất của nó ở những cánh trước màu tím hoa cà và nâu hạt dẻ (thay vì một màu nâu ánh vàng), chỉ dấu của loài bractea trên nó hẹp hơn, và nó không có vẻ gì là giống với bất kỳ cuốn sách nào của tôi cả. Tôi gửi bản mô tả và bức hình của nó cho Richard South, để xuất bản trong tạp chí The Entomologist. Ông ta cũng không biết nó, nhưng đã tử tế hết sức đi kiểm tra trong bộ sưu tập của Bảo tàng Anh Quốc – và phát hiện ra nó đã được Kretschmar mô tả từ lâu với tên Plusia excelsa. Tôi nhận tin buồn ấy, được viết bằng những lời cảm thông sâu sắc nhất (“… nên được chúc mừng vì đã thu thập được… một dòng Volga rất quý hiếm… một mẫu vật đáng ngưỡng mộ…”) với sự chịu đựng tuyệt đối; nhưng nhiều năm sau này, nhờ một sự tình cờ khá may mắn (tôi biết là tôi không nên chỉ ra những món hời này cho người ta biết), tôi đã gỡ điểm với người đầu tiên khám phá ra con ngài của tôi bằng cách lấy tên của chính ông ta đặt cho một người mù trong một cuốn tiểu thuyết.
Xin cũng để tôi gợi nhắc đến bướm diều hâu, những chiếc máy bay của tuổi thơ tôi! Màu sắc thảy sẽ lịm dần thật lâu trong những buổi tối tháng Sáu. Những bụi tử đinh hương nở rộ trước mặt, nơi tôi đứng tay lăm lăm cây vợt, tạo thành từng cụm bông xám trong ánh chạng vạng – những bóng ma của màu tím. Vầng trăng non ẩm ướt treo lơ lửng bên trên đám sương của đồng cỏ bên cạnh. Từ thời điểm đó tới nhiều năm sau này, tôi còn đứng ở nhiều khu vườn khác - ở Athens, Antibes, Atlanta – nhưng chưa bao giờ tôi chờ đợi trong một tâm thế khao khát như khi đứng trước những bụi tử đinh hương đang sẫm dần ấy. Và đột nhiên nó sẽ đến, tiếng rù rì thật thấp bay từ bông hoa này sang bông hoa nọ, vầng hào quang rung rinh quanh thân hình thuôn gọn của chú bướm chim ruồi đuôi xù màu xanh ô liu và hồng đang lơ lửng trong không khí bên trên một tràng hoa, nó nhúng cái lưỡi dài của mình vào đó. Con sâu bướm đen xinh đẹp của nó (rất giống một con rắn hổ mang nhỏ xíu lúc nó phồng to phần thân trước một mắt của mình) có thể được tìm thấy trên một cành liễu thảo mộc ướt khoảng hai tháng sau đó. Vì thế mà mỗi giờ và mùa đều có những niềm vui riêng. Rốt cuộc, vào những đêm thu lạnh giá, thậm chí là đóng băng, người ta có thể bọc đường cho ngài bằng cách quét lên các thân cây một hỗn hợp gồm mật đường, bia và rượu rum. Trong bóng tối mịt mùng, chiếc đèn lồng của một người có thể chiếu sáng những vết nứt bóng bẩy dính dấp trên thân cây và hai tới ba con ngài đang đậu ở đó mà liếm mật, những chiếc cánh bồn chồn của chúng he hé một nửa theo kiểu bướm, cặp cánh ở dưới phô bày lớp lụa đỏ thẫm tuyệt vời trên thân chúng, bên dưới phần thân chính màu xám địa y. “Catocala adultera1!”, tôi sẽ đắc thắng ré lên về hướng những cửa sổ sáng đèn của ngôi nhà trong lúc lập bập lao về nhà để cho cha xem những món tôi bắt được.

1 Loài bướm đêm thuộc họ Erebidae
Bức ảnh này, được một khách du lịch người Mỹ sốt sắng chụp năm 1955, cho thấy dinh thự của gia đình Nabokov, mặt tiền bằng đá gra-nít màu hồng và các phần trang trí kiểu Ý khác, nằm ở St. Petersburg, ngày nay là Leningrad, số 47 phố Morskaya, nay là phố Hertzen. Aleksandr Ivanovich Hertzen (1812 - 1870) là một người theo chủ nghĩa tự do nổi tiếng (người gần như không thể hài lòng khi được một đất nước nằm dưới ách kiểm soát tưởng niệm như thế này), đồng thời là tác giả tài năng của cuốn Biloe I Dumi (có thể dịch là “Những chuyện dĩ vãng và suy ngẫm”), một trong những cuốn sách yêu thích của cha tôi. Phòng tôi nằm trên tầng ba, ngay bên trên cửa sổ lồi. Hàng cây đoan dọc hai bên đường ngày xưa không còn nữa. Những kẻ mới phất màu lục này đã che mất cửa sổ ở góc phía Đông trên tầng hai tòa nhà, chính là căn phòng nơi tôi được sinh ra. Sau khi bỏ quốc hữu hóa, ngôi nhà là nơi lưu trú của phái bộ Đan Mạch, và sau đó là một trường dạy kiến trúc. Chiếc sedan nhỏ đậu cạnh vỉa hè có thể thuộc về người chụp ảnh.

Dmitri Nikolaevich Nabokov, ông nội của tác giả (1827-1904), Bộ trưởng Bộ Tư pháp (1878 - 1885).

Bà nội của tác giả, Nữ Nam tước Maria von Korff (1842 - 1926), chụp từ những năm cuối thập niên 1850.

Bà ngoại của tác giả, Olga Nikolaevna Rukavishnikov, nhũ danh Kozlov (1845 - 1901), chụp tại St. Petersburg, khoảng năm 1885.

Cha của tác giả, Vladimir Dmitrievich Nabokov (1870 - 1922), hồi còn là một học sinh, khoảng năm 1885, chụp cùng ba anh em trai của ông (từ trái sang phải) Dmitri, Konstantin và Sergey). Cha tôi sắp sửa tốt nghiệp trường cấp ba Gymnasium1 và vào đại học ở một độ tuổi trẻ đáng kinh ngạc. Chú Konstantin, mới mười một hay mười hai, vẫn còn đang được dạy học tại nhà. Chú Dmitri và Sergey là pravoved, nghĩa là học giả của trường Luật học Hoàng gia trứ danh.
1 Trường phổ thông dành cho học sinh giỏi

Em trai Sergey và tôi, lần lượt lên một và lên hai (và trông giống như chỉ là cùng một đứa bé, có và không có tóc giả), chụp hồi tháng Mười hai năm 1901 ở Biarritz. Tôi đoán là chúng tôi đã tới đó từ Pau, nơi chúng tôi sống vào mùa đông năm đó. Một mái nhà ướt sũng, bóng loáng – đó là tất cả những gì tôi còn nhớ từ chuyến đi đầu tiên tới miền Nam nước Pháp ấy. Sau nó là những chuyến đi khác, hai lần tới Biarritz (mùa thu 1907 và 1909), và hai lần tới Riviera (cuối thu năm 1903 và đầu hạ 1904).

Cha tôi, ba mươi lăm tuổi, và tôi lúc lên bảy, chụp tại St. Petersburg, năm 1906.

Cha và mẹ tác giả, Elena Ivanovna Nabokov, nhũ danh Rukavishnikov (1876 - 1939), chụp năm 1900, trong vườn điền trang Vyra, tài sản của họ ở St.Petersburg.

Mẹ tôi và anh trai bà, Vasiliy Ivanovich Rukavishnikov (1874 - 1916), trên ban công tòa lâu đài của bác ở Pau, Basses Pyrenees, tháng Mười năm 1913.

Một bức ảnh gia đình chụp trong vườn nhà chúng tôi ở Vyra do một nhiếp ảnh gia từ St. Petersburg chụp vào tháng Tám năm 1908, giữa khoảng thời gian cha tôi vừa được ra tù và lúc ông khởi hành vào ngày hôm sau, cùng với mẹ tôi, tới Stresa. Thứ hình tròn gắn trên thân cây là một bia tập bắn cung. Mẹ tôi đã đặt chú Trainy sợ chụp ảnh lên chiếc bàn sắt hình tròn có nhắc tới trong đoạn về nấm ở Chương 2. Bà nội tôi đang bế hai em gái nhỏ của tôi trong một cái ôm kiểu cách nhưng chênh vênh, ngoài đời thực bà không bao giờ ôm họ: Olga trên đầu gối bà, Elena tựa vào vai. Chiều sâu tối tăm ở phần cũ kĩ nhất trong công viên nhà chúng tôi cung cấp phông nền cho bức ảnh. Vị phu nhân trong trang phục đen là dì của mẹ tôi, Praskovia Nikolaevna Tarnovski, nhũ danh Kozlov (1848 - 1910), người phụ trách trông chừng chúng tôi và các gia sư của chúng tôi trong lúc cha mẹ đi đến Ý. Em trai tôi Sergey khoác khuỷu tay bà, còn tay kia của bà thì đang đỡ tôi. Tôi ngồi ghé trên tay ghế băng, căm ghét cả cổ áo tôi lẫn Stresa.

Mẹ tôi ở tuổi ba mươi tư, một bức chân dung màu pastel (60cm x 40cm) do Leon Bakst vẽ năm 1910, trong phòng nhạc của dinh thự ở St. Petersburg. Bản sao trên giấy in ở đây cũng được thực hiện cùng năm đó, dưới sự giám sát của ông. Ông đã dụng sức cực kỳ với đường viền môi bất định của mẹ tôi, đôi khi phải dành cả buổi ngồi vẽ chỉ một chi tiết. Kết quả là một sự giống nhau đến kinh ngạc và thể hiện một giai đoạn thú vị trong quá trình phát triển phong cách nghệ thuật của ông. Cha mẹ tôi cũng sở hữu vài bức kí họa bằng màu nước dành cho vở ba lê Scheherazade. Khoảng hai mươi lăm năm sau, ở Paris, Alexandre Bénois kể với tôi rằng không lâu sau Cách mạng Xô Viết, ông đã cho người đưa toàn bộ tác phẩm của Bakst, cũng như của chính ông, chẳng hạn như bức “Rainy Day in Brittany” (Ngày mưa ở Brittany), từ nhà chúng tôi tới Viện bảo tàng Alexander III (giờ là Viện bảo tàng quốc gia).

Tác giả năm 1915, tại St. Petersburg.

Tác giả ở tuổi mười chín cùng các em trai và em gái, ở Yalta, tháng Mười một năm 1918. Kirill lên bảy; Sergey (rất tiếc đã bị mất nét do những hư hỏng trong bức ảnh), đeo chiếc kính kẹp mũi không gọng và mặc đồng phục của trường Yalta Gymnasium, mười tám tuổi; Olga mười lăm; Elena (ôm chặt Box II) mới mười hai.

Tác giả ở Cambridge, mùa xuân năm 1920. Không có gì là bất thường khi một người Nga, trong lúc dần khám phá những thú vui ở Cam, đầu tiên lại thích đi thuyền mái chèo hơn là chiếc ca nô hoặc thuyền đáy bằng thích hợp hơn sau này.

Một bức ảnh hộ chiếu Nansen1 chụp ở Paris vào tháng Tư năm 1940 của vợ tác giả, Véra, và con trai Dmitri, năm tuổi. Vài tuần sau, tháng Năm năm đó, chương cuối cùng trong giai đoạn ở châu Âu của chúng tôi đã kết thúc, cũng như nó đã kết thúc trong cuốn sách này.
1 Hộ chiếu Nansen lúc đầu và chính thức được coi là loại hộ chiếu cho những nguời phi quốc gia, được cộng đồng quốc tế công nhận là thư tịch để đi lại từ năm 1922 đến 1938, được Hội Quốc Liên (tiền thân của Liên Hiệp Quốc) phát hành lần đầu tiên cho dân tị nạn.

Vợ tôi đã chụp bức ảnh này trong lúc tôi không hề biết, cũng không tạo dáng, đang khi sáng tác một cuốn tiểu thuyết trong căn phòng khách sạn của chúng tôi. Tên khách sạn là Établissement Thermal ở Le Boulou, Đông Pyrenees. Ngày tháng (có thể thấy rõ trên tấm lịch đã lọt vào khung hình) là ngày 27 tháng Hai năm 1929. Cuốn tiểu thuyết ấy, Zashchita Luzhina (Phòng thủ Luzhin), liên quan đến một nước phòng thủ do một kỳ thủ điên loạn sáng tạo nên. Hãy chú ý đến họa tiết của khăn trải bàn. Người ta có thể nhận ra bao thuốc Gauloise đã vơi một nửa nằm giữa lọ mực và một cái gạt tàn đầy phè. Các bức ảnh gia đình được dựng dựa vào bốn tập của cuốn từ điển tiếng Nga của Dahl. Đoạn cuối phình ra của chiếc quản bút màu nâu đậm của tôi (một dụng cụ bằng gỗ sồi non được yêu thích mà tôi đã dùng trong suốt hai mươi năm hoạt động văn chương của mình tại châu Âu, và có thể vẫn tìm thấy được ở một trong mấy cái rương cất tại nhà Hiệu trưởng, Ithaca, N.Y.) đã bị gặm đáng kể. Tay dùng bút của tôi che lấp một phần chồng bảng sắp đặt mẫu vật. Các chú ngài mùa xuân sẽ lượn vào phòng qua cửa sổ để mở trong những đêm u ám và đậu trên bức tường sáng màu bên tay trái tôi. Bằng cách này, chúng tôi đã thu thập được một số loài Pug quý hiếm trong điều kiện hoàn hảo và choãi chúng ra ngay lập tức (giờ chúng đang ở một viện bảo tàng của Mỹ). Hiếm khi nào chỉ một bức ảnh chụp ngẫu nhiên lại có thể tóm lược cuộc sống chính xác đến thế.
Rất nhiều năm về trước ở St. Petersburg, tôi nhớ là đã thấy buồn cười trước tập thơ thu thập được của một người lơ xe điện, và đặc biệt là trước bức ảnh chụp anh ta, trong bộ đồng phục, ủng dày cộp, với một đôi giày cao su mới trên sàn ngay cạnh anh ta cùng những tấm huy chương chiến tranh của cha anh trên chiếc bảng điều khiển của thợ chụp ảnh, gần đó anh chàng tác giả đứng nghiêm ngắn. Thật là một anh lơ xe thông thái, một thợ chụp ảnh nhìn xa trông rộng.

Một bức chụp nhanh do vợ tôi chụp con trai Dmitri ba tuổi (sinh ngày 10 tháng Năm năm 1934) đang đứng cạnh tôi trước mặt ngôi nhà thuê, Les Hespèrides, ở Mentone, hồi đầu tháng Mười hai năm 1937. Hai mươi hai năm sau chúng tôi đã đi tìm nó. Không có gì thay đổi, chỉ trừ đơn vị quản lý và đồ gỗ trên hiên. Tất nhiên, niềm vui tự nhiên luôn luôn hiện diện ở đó trong việc lần hồi ngược thời gian: tuy nhiên, ngoài chuyện đó ra, tôi không có cảm xúc vui sướng đặc biệt nào khi thăm lại những chốn cũ thời ly hương ở những đất nước tình cờ đi qua ấy. Tôi nhớ nạn muỗi mùa đông đặc biệt kinh khủng. Tôi chỉ vừa mới tắt đèn trong phòng thì chúng sẽ đến, thứ tiếng rù rì mà âm điệu chậm rãi, dai dẳng và cảnh giác của nó tương phản kỳ lạ với tốc độ điên cuồng thực sự mà loài côn trùng ma quỷ này bay vòng vòng. Một người chờ đợi cú chích trong bóng tối, thò một cánh tay cảnh giác từ bên dưới chăn ra – và ra sức tát vào tai mình, khi bên tai ấy đột nhiên ong ong lẫn với tiếng của con muỗi bay xa dần. Nhưng rồi, ngay sáng hôm sau, anh ta háo hức đến thế nào khi chộp lấy cái vợt bướm để xác định kẻ nhũng nhiễu đã no nê của mình – một vệt đen nhỏ trên trần nhà màu trắng!

Loài bướm nhỏ, màu xanh nhạt ở trên và ánh xám ở dưới, với hai loại mẫu vật của nó (mẫu định danh con đực ở bên trái, cả trên và dưới, một cánh sau đã hơi rách; và mẫu phụ con đực nằm bên phải, cả trên và dưới), được bảo quản tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ và lần đầu tiên được minh họa bằng ảnh chụp cũng của tổ chức này, là Plebejus (Lysandra) cormion Nabokov. Tên đầu tiên là của ngành, tên thứ hai là phân ngành, tên thứ ba cho loài và tên thứ tư là của tác giả bản mô tả chính thức đầu tiên mà tôi đã cho xuất bản tháng Chín năm 1941 (Journal of the New York Entomological Society1, số 49, trang 265), sau đó minh họa cơ quan sinh dục của mẫu phụ (ngày 26 tháng Mười năm 1945, Psyche, số 51, phần I). Như tôi đã chỉ ra, có thể loài bướm của tôi có gốc gác từ sự lai giống giữa Plebejus (Lysandra) coridon Poda (theo nghĩa rộng) và Plebejus (Meleageria) daphnis Schiffermuller. Các sinh vật sống ít ý thức hơn về sự khác biệt về loài hay phân loài so với các nhà phân loại học. Tôi đã lấy hai con đực để minh họa, và trông thấy ít nhất hai con nữa (nhưng không thấy con cái) vào ngày 20 (mẫu phụ) và 22 (mẫu định danh) tháng Bảy năm 1938, ở độ cao khoảng 1.200 mét gần làng Moulinet, Alpes Maritimes. Có thể nó không xếp hạng đủ cao để xứng có một cái tên, nhưng dù nó có là gì – một loài mới đang thành hình, một con lai tuyệt đẹp, hay một sự phối ngẫu chéo tình cờ - nó vẫn là một sinh vật hiếm hoi tuyệt vời và vui sướng.
1 Tạp chí của Hiệp hội Côn trùng học New York
6
Công viên “kiểu Anh” ngăn cách nhà chúng tôi với cánh đồng là một không gian rộng rãi và cầu kỳ với những lối đi kiểu mê cung, ghế băng Turgenevian, cùng những cây sồi nhập khẩu trong đám linh sam và bu lô đặc hữu. Cuộc vật lộn diễn ra từ thời ông nội tôi để giữ cho công viên không quay trở về trạng thái hoang dã luôn luôn thiếu thành công toàn vẹn. Không có người thợ làm vườn nào quen nổi với những những gò đất đen ngoằn ngoèo do bàn tay hồng của tụi chuột chũi đẩy lên trên lớp cát gọn gàng của đường đi dạo chính. Cỏ dại và nấm, và những cái rễ cây như dây leo không ngừng đan quyện vào nhau trên mặt đất lốm đốm nắng. Gấu đã bị loại bỏ từ hồi những năm tám mươi, nhưng thi thoảng lại có chú nai sừng tấm thăm viếng các mảnh đất. Trên một tảng đá nhẵn đẹp như tranh, một cây thanh lương nhỏ và cây dương nhỏ đã trèo lên, đan tay vào nhau như hai đứa trẻ vụng về, e thẹn. Những kẻ xâm nhập lén lút hơn khác – người đi chơi bị lạc hay những dân làng vui vẻ - sẽ làm người phụ trách đội săn tóc hoa râm của chúng tôi, Ivan, phát điên lên bằng cách khắc những từ tục tĩu lên ghế băng và cổng. Tiến trình phân rã này vẫn còn tiếp tục, theo một nghĩa khác, vì thời nay, khi tôi cố sức lần trong ký ức theo con đường uốn lượn từ điểm này đến điểm kia, tôi lo lắng nhận ra có rất nhiều khoảng trống, do bởi sự ngây thơ hay thờ ơ, rất giống với những khoảng trống mập mờ về địa hình mà các nhà vẽ bản đồ thời xưa thường gọi là “những người đẹp say ngủ”.
Bên kia công viên là các cánh đồng, với một dải màu dập dờn không dứt của cánh bướm bên trên dải màu của những bông hoa – cúc, chuông xanh, cỏ lưỡi mèo và những loài hoa khác – lúc này chúng đang nhanh chóng lướt qua tôi trong một kiểu ảo tượng màu sắc rất giống với những trảng đất trống đáng yêu, xanh mượt, không bao giờ được khám phá mà ai đó vẫn nhìn thấy từ khoang ăn trên một hành trình xuyên lục địa. Ở nơi kết thúc của thế giới viễn tưởng xanh rờn ấy, khu rừng vươn lên như một bức tường. Tại đó tôi sẽ băng rừng, ngắm từng thân cây (phần ma thuật, lặng thầm của một cái cây) để tìm vài con ngài cụ thể, được gọi là Pug Anh Quốc – những sinh vật nhỏ tinh xảo mà ban ngày bám vào bề mặt nứt nẻ của thân cây, với cặp cánh dẹt và vùng bụng quay lên của chúng hòa lẫn hoàn toàn. Tại đó, dưới đáy của đại dương xanh lục trong ánh nắng xiên, tôi từ từ xoay xung quanh những thân cây vĩ đại. Với tôi, trên đời này sẽ không có gì ngọt ngào hơn là được thêm vào, chỉ bằng chút vận may, một loài mới đáng kể nào đó trong danh sách dài những con Pug đã được người khác đặt tên. Và trí tưởng tượng lộn xộn ấy của tôi đã rõ ràng đã phủ phục xuống, một cách gần như ghê tởm, trước khao khát (nhưng ngược lại, lúc nào nó cũng lạnh lùng sắp đặt sự kiện mơ hồ nhất trong định mệnh của tôi bằng những mưu ma chước quỷ đằng sau hậu trường), nó không ngừng nhồi cho tôi những ví dụ ảo tưởng từ các dòng chữ nhỏ: “… mẫu vật duy nhất từng được biết đến…”, “…mẫu vật duy nhất được biết đến của loài Eupithecia petropolitanata được một cậu học trò người Nga thu được…”, “…bởi một nhà sưu tập trẻ người Nga…”, “…bởi chính tôi trong Chính quyền St. Petersburg, Quận Tsarkoe Selo, năm 1910… 1911… 1913…” Và rồi, ba mươi năm sau đó, cái đêm đen tối được chúc phúc ấy ở dãy núi Wasatch1.
Hồi đầu – khi tôi mới lên tám, lên chín – hiếm khi tôi lang thang đi xa hơn những cánh đồng và rừng cây nằm giữa Vyra và Batovo. Sau này, khi nhắm đến một địa điểm cụ thể ở cách nhà khoảng chín cây số hay hơn, tôi sẽ dùng một chiếc xe đạp để tới đó cùng chiếc vợt được buộc vào khung xe; nhưng không có nhiều con đường trong rừng thích hợp cho hai bánh xe; tất nhiên cũng có thể cưỡi trên lưng ngựa, nhưng vì loài ruồi ngựa2 ghê gớm của Nga mà chúng tôi không thể để một con người đứng chơ vơ giữa rừng trong bất kể thời gian nào: ngày nọ chú ngựa hồng dũng mãnh của tôi đã suýt trèo lên cái cây nó đã bị buộc vào để lẩn trốn chúng; những anh bạn to lớn với cặp mắt ướt rượt như lụa và thân hình của hổ, và cả những con non nhỏ màu xám với những cái vòi thậm chí còn đau buốt hơn, nhưng chậm chạp hơn nhiều, đuổi vài ba con vật háu đói dính dấp này bằng một cú nghiến của bàn tay mang găng trong lúc chúng gắn chặt lấy cổ chú ngựa của tôi, đã mang lại cho tôi niềm nhẹ nhõm thấu cảm tuyệt vời (những người nghiên cứu về ruồi có thể không trân trọng việc này cho lắm). Dù sao, trong những chuyến đi săn bướm, tôi luôn thích leo núi hơn bất kỳ dạng vận chuyển nào (rõ ràng chỉ trừ có một vé ngồi trên chiếc tàu lượn thong dong bay trên thảm cây và đá của một vùng núi chưa từng được khai phá, hay lơ lửng ngay trên tầng mái hoa lá của một khu rừng nhiệt đới); vì khi bạn đi bộ, đặc biệt là trong một khu vực mà bạn đã nghiên cứu kỹ lưỡng, có một niềm khoan khoái tinh tế trong việc rời khỏi lộ trình của ta để ghé thăm đây đó ven đường, trảng cỏ này, thung lũng nọ, sự kết hợp kiểu này hay kiểu khác của đất và thực vật – để ngồi thụp xuống, nếu có, trước một chú bướm thân quen trong môi trường sinh trưởng cụ thể của nó, hòng xem xem chú có nổi lên không, và nếu có thì chú đang sống ra sao.
1 Núi Wasatch là một dãy núi ở miền tây Hoa Kỳ, trải dài 257 kilômét từ biên giới Utah-Idaho ở phía nam Utah.
2 Một loài côn trùng nằm trong họ Tabanidae, con cái chuyên hút máu động vật làm thức ăn
Đến một ngày tháng Bảy – tôi đoán quãng năm 1910 – tôi bỗng bị thôi thúc khám phá vùng đầm lầy khổng lồ bên kia sông Oredezh. Sau khi đi men bờ sông được khoảng năm, sáu cây số, tôi tìm được một cây cầu đi bộ ọp ẹp.
Trong lúc băng qua cầu, tôi có thể trông thấy những túp lều tranh của một thôn làng bên tay trái, những cây táo, những dãy củi thông màu hung đỏ nằm bên bờ sông xanh, và những mảng màu sáng sủa trên mặt đất chỗ mấy cô gái nhà tá điền thả quần áo xuống; các cô đang trần như nhộng trong làn nước nông, vừa nô đùa vừa hú hét, không mảy may chú ý gì đến tôi, cứ như tôi chỉ là một vật chuyên chở phi vật thể của những ký ức thời hiện tại.
Ở bên kia sông, một đám dày đặc những chú bướm đực xanh nhạt, nhỏ bé đang đậu trên lớp bùn dày đã bị dẫm nát cùng đám phân bò mà tôi phải lội qua thảy đều bay lên không trung lấp lánh ánh vàng, rồi đậu lại lần nữa ngay khi tôi vừa đi qua.
Sau khi luồn lách qua một khu rừng thông và bụi tống quán sủi, tôi đã tới được đầm lầy. Ngay khi tai tôi bắt được tiếng rì rầm của sâu bọ quanh mình, những tiếng kêu từ yết hầu của một chú chim dẽ giun trên đầu, cùng tiếng ùn ụt của đầm lầy dưới chân, tôi đã biết mình sẽ tìm thấy ở đây những chú bướm vùng cực khá đặc biệt, mà ảnh chụp nó, hay, tốt hơn nữa là những bản mô tả không đính kèm hình minh họa về nó đã làm tôi tôn thờ suốt nhiều mùa. Và giây tiếp theo tôi đã ở giữa chúng. Bên trên những bụi việt quất nhỏ vùng đầm lầy trĩu nặng thứ quả màu xanh xỉn màu, mơ màng, trên mắt hồ màu nâu uể oải, trên những đám rêu và bùn, trên những cụm hoa phong lan đầm tỏa hương (chính là nochnaya fialka1 trong thơ ca Nga), một chú Fritillary nhỏ tối mờ mang theo cái tên của một vị thần Na Uy lặng lờ lướt qua. Pretty Cordigera, một loài ngài giống đá quý thì ve vãn trên loài cây thức ăn mọc từ bùn của nó. Tôi đuổi bắt những chú Sulphur viền màu hoa hồng, Satyrs mang màu xám cẩm thạch. Không để tâm gì đến đám muỗi bu đầy hai cánh tay, tôi ngồi thụp xuống với tiếng gừ sung sướng để thổi tắt sinh mệnh của vài chú bọ điểm bạc đang thoi thóp trong nếp gập của tấm lưới. Vượt qua mùi đầm lầy, tôi bắt được thoảng hương thơm từ cánh bướm trên những ngón tay mình, một mùi hương biến thiên với từng loài khác nhau – mùi va ni, hay mùi chanh vàng, hay mùi xạ hương, hay một mùi hương ẩm mốc, ngào ngạt khó định nghĩa. Vẫn chưa thỏa, tôi dấn bước xa hơn. Rốt cuộc tôi cũng trông thấy thứ mà tôi đến đây để tìm kiếm ở cuối đầm. Bờ đất cao ở phía bên kia là thiên đường dành cho đậu lupin, hoa lâu đẩu và son môi. Ly Mariposa nở rộ dưới gốc thông Ponderosa. Ở xa xa, bóng mây lững lờ trôi đắp vệt đốm lên những con dốc xanh nhờ bên trên đường viền thân gỗ và dải xám trắng của dãy Longs Peak.
1 Màu tím ban đêm
Tôi xin thú nhận rằng mình không tin vào thời gian. Tôi thích gập tấm thảm thần kỳ của mình sau khi sử dụng theo cái cách chồng góc này của hoa văn lên góc nọ. Cứ để đám khách ghé thăm vấp ngã. Và niềm vui tột bậc trong sự vô hạn định về thời gian này – trong một khung cảnh được chọn ngẫu nhiên nào đó – là khi tôi đứng giữa những loài bướm hiếm quý và cây thức ăn của chúng. Cực khoái này, và đằng sau cực khoái còn là một thứ gì khác nữa, rất khó để giải thích. Nó giống như tôi được tạm thời hút vào một nơi mà mọi thứ tôi yêu đều đã lao vào. Một cảm giác đồng nhất với mặt trời và đá. Một niềm biết ơn sung sướng với đấng cao xanh nào đó – dù là vị thần định mệnh đối âm hay những bóng ma dịu dàng đang mua vui cho một kẻ phàm nhân may mắn.