1
Tôi thường để ý thấy sau khi tôi đã ban tặng cho các nhân vật trong tiểu thuyết của mình một thứ quý giá nào đó từ quá khứ của tôi, nó sẽ héo mòn dần trong thế giới giả tưởng nơi tôi đã đột ngột đặt nó vào. Dù nó vẫn còn luẩn quẩn trong tâm trí tôi, hơi ấm cá nhân của nó, vẻ hấp dẫn hoài cổ của nó đã biến mất, và trong hiện tại, nó trở nên đồng điệu hơn với tiểu thuyết của tôi so với bản thân tôi ngày trước, nơi mà tôi đã tưởng là nó được an toàn khỏi sự xâm phạm của người nghệ sĩ. Các tòa nhà đã sụp đổ trong ký ức tôi một cách âm thầm lặng lẽ y như trong các bộ phim câm thuở trước, và bức chân dung bà gia sư già người Pháp của tôi, vốn đã được tôi cho một cậu bé trong truyện của tôi mượn, thì phai nhạt đi rất nhanh, khi giờ đây nó đã bị chìm nghỉm trong những mô tả về một tuổi thơ hoàn toàn không dính dáng gì đến tuổi thơ tôi, người đàn ông trong tôi phản kháng lại tiểu thuyết gia, và đây là những nỗ lực trong tuyệt vọng của tôi để cứu lấy những gì còn lại của Mademoiselle tội nghiệp.
Vốn là một người phụ nữ cao lớn, rất thô cứng, Mademoiselle lăn vào cuộc sống của chúng tôi vào tháng Mười hai năm 1905, khi tôi lên sáu còn em trai tôi lên năm. Cô ấy như thế này. Tôi thấy rõ mồn một mái tóc đen dày dặn, được chải ngược lên cao và đã điểm sợi xám của cô; ba hàng nếp nhăn ở giữa trán; cặp lông mày chỉa ra; cặp mắt sắc lạnh đằng sau chiếc kính kẹp mũi viền đen; vệt ria mép; làn da lốm đốm tàn nhang mà trong những phút cáu giận thì còn có thêm một màu hồng ở khu vực cái cằm thứ ba, cũng là cằm nhiều mỡ nhất, trải rộng một cách vương giả trên đống bèo nhún của hai vai áo phồng. Và khi cô ngồi xuống, hay đúng hơn là giải quyết nhiệm vụ ngồi xuống, lớp mỡ ở cằm dưới rung rinh, phần mông phì nhiêu với ba chiếc khuy ở cạnh bên, cẩn trọng hạ xuống; rồi, vào giây cuối cùng, cô chấp nhận dâng toàn bộ trọng lượng của mình cho chiếc ghế liễu gai, nó òa lên một tràng cót két chỉ từ nỗi sợ thuần tuý.
Chúng tôi đã ra nước ngoài khoảng một năm. Sau khi dành mùa hè năm 1904 ở Beaulieu và Abbazia, và vài tháng ở Wiesbaden, chúng tôi rời nước Nga và đầu xuân 1905. Tôi không nhớ nổi là tháng mấy. Một manh mối ở đây là khi ở Wiesbaden, tôi đã được dẫn đến nhà thờ Nga của họ - lần đầu tiên tôi tới một nhà thờ ở bất kỳ nơi đâu – và đó có thể là vào mùa tuần chay (trong lúc hành lễ tôi đã hỏi mẹ là mục sư và người trợ tế đang nói về chuyện gì; mẹ thì thào trả lời bằng tiếng Anh rằng họ đang nói tất cả chúng ta nên yêu thương lẫn nhau, nhưng tôi lại hiểu ý mẹ thành hai con người phi thường trong những bộ áo choàng có mũ chóp nhọn bóng loáng kia đang bảo nhau rằng họ sẽ mãi mãi là bạn tốt của nhau). Từ Frankfurt chúng tôi tới Berlin trong cơn bão tuyết, và buổi sáng hôm sau bắt chuyến tàu Nord-Express đã chạy tới từ Paris. Mười hai giờ sau đó nó tới được biên giới nước Nga. Trên nền phong cảnh mùa đông, nghi thức đổi khoang và đầu tàu đã mang theo một ý nghĩa lạ lùng mới. Một cảm giác háo hức của rodina, “quê mẹ”, lần đầu tiên đã hòa quyện một cách hệ thống với màn tuyết rơi lách tách dày dặn, những dấu chân lún sâu băng ngang nó, đám lửa đỏ của chồng than chạy máy, những thanh củi bạch dương được chất cao, bên dưới lớp tuyết vận chuyển được riêng chúng, trên khoang chở than màu đỏ. Tôi còn chưa được sáu tuổi, nhưng cái năm ra nước ngoài ấy, một năm của những quyết định khó khăn và niềm hy vọng tự do ấy, đã mở ra các cuộc thảo luận của người lớn cho một cậu bé Nga. Cậu không thể không bị ảnh hưởng theo cách nào đó bởi nỗi nhớ nhà của mẹ cậu và lòng yêu nước của cha cậu. Kết quả là, lần trở về nước Nga đặc biệt ấy, cuộc hồi hương có ý thức đầu tiên của tôi, với tôi bây giờ, sau sáu mươi năm, là một cuộc tập dượt – không phải là của màn vinh quy bái tổ hoành tráng vốn sẽ không bao giờ xảy ra, mà là của giấc mơ bất tận về nó trong những năm dài biệt xứ.
Mùa hè năm 1905 ở Vyra còn chưa có gì liên quan đến sâu bọ cánh vảy. Thầy giáo làng đưa chúng đi những chuyến dạo chơi để học hành (“Thứ các em đang nghe được là tiếng mài hái”; “Thửa ruộng bên kia sẽ được nghỉ ngơi trong mùa tiếp theo”; “Ồ, chỉ là một chú chim nhỏ - không có tên gì đặc biệt cả”; “Nếu ông tá điền kia bị say, thì đó chỉ là vì ông ta nghèo khổ”). Mùa thu phủ thảm lá màu sặc sỡ lên công viên, và cô Robinson cho chúng tôi xem một cách trang trí xinh đẹp – mà cậu con trai của ông Đại sứ, một nhân vật quen thuộc trong thế giới nhỏ bé của cô, đã hết sức yêu thích vào mùa thu trước đó – đó là nhặt nhạnh trên mặt đất và sắp xếp trên một tờ giấy to những chiếc lá phong đủ để tạo ra gần như một dải màu hoàn chỉnh (trừ mỗi màu xanh lam – một sự thất vọng lớn!), từ xanh lục ngả sang vàng chanh, vàng chanh sang cam và cứ thể tới tận các sắc đỏ hay tím, nâu tía, rồi lại đỏ và quay lại màu vàng và màu xanh (màu ấy đã bắt đầu khá khó tìm chỉ trừ phần mép lá dũng cảm cuối cùng). Cơn gió lạnh đầu tiên đã chạm tới những cây cúc tây mà chúng tôi vẫn chưa chuyển về thành phố.
Mùa đông năm 1905 - 1906 ấy, khi Mademoiselle từ Thụy Sỹ đến, là mùa đông duy nhất trong ký ức của tôi trải qua tại vùng thôn quê. Đó là năm của các cuộc phản kháng, bạo loạn và tàn sát vì lí do chính trị, và tôi đoán là cha đã muốn giữ cho gia đình ông cách xa khỏi thành phố, ở nơi quê nhà bình yên của chúng tôi, nơi mà danh tiếng của ông sẽ giảm bớt nguy cơ của tình trạng náo động, và ông đã đoán đúng. Đó cũng là một mùa đông đặc biệt khắc nghiệt, mang đến cả đống tuyết y như Mademoiselle đã tiên liệu sẽ gặp phải khi đến cực Bắc của vùng đất của Sa hoàng hẻo lánh này. Khi cô bước chân xuống nhà ga Siverski nhỏ bé, từ đó cô vẫn phải đi thêm cả chục cây số nữa bằng xe trượt mới tới Vyra, tôi đã không có mặt để chào đón cô; nhưng giờ đây tôi đang làm như vậy khi cố mường tượng điều mà cô đã trông thấy và cảm thấy ở chặng cuối cuộc hành trình lý thú và sai thời điểm của mình. Tôi biết từ vựng tiếng Nga của cô chỉ gồm có nhõn một từ ngắn, và nhiều năm về sau này cô cũng vẫn mang về Thụy Sỹ có đúng từ ấy. Từ này, theo cách phát âm của cô có thể tạm phiên âm là “giddy-eh’ (thực ra nó là âm gde với chữ e như trong “yet”), có nghĩa là “ở đâu?” Và đó là một từ rất đắt. Phát ra từ miệng cô như một giọng kêu khàn đặc của chú chim lạc lối, nó tích tụ được nhiều sức mạnh cật vấn đến mức đủ cho mọi nhu cầu của cô. “Giddy-eh? Giddy-eh?” cô sẽ kêu lên, không chỉ để tìm xem mình đang ở đâu, mà còn để thể hiện nỗi thống khổ tột cùng: thực tế cô chỉ là một người lạ mặt, một khách đắm tàu, không tiền, ốm đau, đang trên đường tìm kiếm một vùng đất lành nơi rốt cuộc người ta cũng hiểu được cô.
Tôi có thể hình dung ra cô, nhờ thế thân, lúc cô đứng ở giữa sân ga, nơi cô chỉ vừa mới đặt chân xuống, và bóng ma thế thân của tôi đưa ra một cánh tay giúp đỡ trong vô vọng mà cô không thể trông thấy. (“Thế là tôi đã ở đó, bị tất cả mọi người bỏ rơi, comme la Comtesse Karénine1,” sau này cô đã phàn nàn, rất hùng hồn dù không hoàn toàn chính xác.) Cánh cửa phòng chờ mở ra với một tiếng rít rùng mình kiểu rất riêng có của những đêm đặc biệt lạnh giá; một đám mây khí nóng ào ra, to gần như làn hơi từ một động cơ xì khói; và lúc này người đánh xe Zahar của chúng tôi đã tiếp quản – đó là một người đàn ông vạm vỡ trong bộ áo da cừu với mặt da quay ra bên ngoài, hai chiếc găng tay to tướng của anh ta trồi lên từ cái túi vải đỏ thắm mà anh ta đã nhét chúng vào trong. Tôi nghe tiếng tuyết lạo xạo dưới đôi ủng nỉ trong lúc anh bận rộn với đám hành lý, bộ yên cương kêu leng keng và rồi đến chiếc mũi của chính mình. Anh ta làm dịu nó bằng một lần bóp và lắc khéo léo của ngón trỏ và ngón cái trong lúc đi vòng lại quanh xe trượt. Một cách chậm rãi, với vẻ mặt hồ nghi nghiêm nghị, “Madmazelya”, như người trợ giúp đã gọi cô, trèo vào trong, túm chặt lấy anh đánh xe trong nỗi sợ chết khiếp nhỡ đâu chiếc xe trượt lướt đi trước khi thân hình cao to của cô kịp ngồi gọn ghẽ bên trong. Rốt cuộc, cô cũng ngồi được xuống với một tiếng gầm gừ và nhét hai nắm tay vào bao tay vải nhung lông mỏng tang. Nghe tiếng bập miệng ướt át từ bờ môi của người lái xe, cặp ngựa đen, Zoyka và Zinka, kéo căng góc phần tư của chúng, giậm vó, lại kéo căng lần nữa; rồi Mademoiselle bị giật người lại phía sau khi chiếc xe trượt nặng nề vặn mình khỏi thế giới của sắt thép, lông thú, da thịt để lao vào vùng trung gian không có lực ma sát, nơi nó lướt dọc con đường phi thực mà nó gần như không chạm vào.
1 Giống như nữ Bá tước Karénine
Trong một khoảnh khắc, nhờ vào ánh đèn đột ngột từ cột đèn duy nhất ở cuối quảng trường nhà ga, một cái bóng bị thổi phồng lên thành ghê tởm, cũng đang cầm bao tay, chạy đua bên cạnh chiếc xe trượt, trèo lên một cồn tuyết và biến mất, bỏ lại Mademoiselle bị nuốt chửng trong cái mà sau này cô hùng hồn kể lại là “le steppe1”. Ở đó, trong bóng tối bất tận, ánh sáng hấp háy, thay đổi từ các ngôi làng xa xăm với cô dường như là cặp mắt vàng khè của lũ sói. Cô bị lạnh, đông cứng cả người, đóng băng “tới tận cùng não bộ” – bởi cô vẫn thường dùng cách nói cường điệu nhất mỗi khi không tuân theo những châm ngôn tầm thường nhất. Chốc chốc cô lại ngước ra sau để đảm bảo chiếc xe trượt thứ hai, chở rương hòm và hộp mũ của cô, vẫn theo sau – luôn luôn giữ cùng một khoảng cách, giống như cặp thuyền ma bầu bạn với nhau trên những mặt nước ở Cực Bắc mà các nhà thám hiểm vẫn mô tả. Và xin hãy đừng để tôi bỏ qua mặt trăng – vì chắc chắn là ở đó sẽ có một vầng trăng, như chiếc đĩa tròn xoe và sáng trong không tưởng kết hợp quá đẹp với cảnh băng giá đầy sức sống của nước Nga. Và nó đây rồi, vừa ló dạng sau một cụm mây lốm đốm, nhuộm màu ngũ sắc mờ nhạt; và trong lúc bay lên cao hơn, nó rải ánh sáng xuống đường trượt bị bỏ lại trên con đường, nơi từng cụm tuyết lấp lánh càng được nhấn mạnh thêm bằng một cái bóng sưng vù.
1 Thảo nguyên
Rất đẹp, rất cô độc. Nhưng tôi đang làm gì trong vùng đất mơ mộng trong không gian ba chiều này? Làm sao tôi tới được đây? Bằng cách nào đó, hai chiếc xe trượt đã lướt đi mất, bỏ lại đằng sau một tên gián điệp không giấy tờ đang đứng mãi trên con đường màu xanh-trắng trong đôi ủng tuyết New England và chiếc áo choàng chống bão của ông ta. Tiếng rung trong tai tôi không còn là những cái chuông bỏ xa dần của chúng nữa, mà chỉ còn là tiếng máu trong huyết quản tôi đang cồn cào. Tất cả đều tĩnh tại, như bị phù phép, bị vầng trăng mê hoặc, như chiếc gương chiếu hậu của trí tưởng tượng. Mặc dù vậy, tuyết là có thật, và khi tôi cúi xuống để nhặt lên đầy một bàn tay, sáu mươi năm vỡ vụn thành những bụi tuyết lấp lánh giữa các ngón tay tôi.
2
Một chiếc đèn dầu lớn có chân đế bằng thạch cao tuyết hoa rẽ vào bóng tối chập choạng. Nó nhẹ nhàng trôi và đi xuống; bàn tay của ký ức, lúc này nằm trong cặp găng trắng của người hầu nam, đặt nó ở trung tâm của chiếc bàn tròn. Ánh lửa được điều chỉnh tỉ mỉ, và một tấm chụp đèn bằng lụa phồng màu hồng phấn, với vải lồng bên trong là cảnh các môn thể thao mùa đông theo phong cách rococo1, đội lên trên ngọn đèn đã được chỉnh sáng (như lớp vải bông mềm trên vành tai Casimir), làm lộ ra: một phòng khách ấm áp, sáng sủa, thanh lịch (kiểu “Đế quốc Nga”) trong ngôi nhà không lọt tiếng tuyết rơi – nơi sẽ sớm được đặt biệt danh là le château2 - do ông nội của mẹ tôi xây nên. Vì sợ lửa, cụ đã làm các bậc cầu thang bằng sắt, để sau này khi ngôi nhà thực sự bị cháy rụi đến tận móng, vào một năm nào đó, những bậc thang sắt uốn này, cùng bầu trời tỏa sáng qua những lỗ cắt ở mặt đứng của nó, vẫn còn trụ vững, cô độc nhưng bất khuất.
1 Rococo: một Phong cách nghệ thuật và thiết kế nội thất của Pháp thế kỷ 18
2 Lâu đài
Làm ơn thêm chút chi tiết vào phòng khách ấy. Những đường gờ trắng sáng bóng của đồ đạc, những bông hồng thêu trên lớp vải bọc đệm của nó. Chiếc dương cầm màu trắng. Chiếc gương hình ô van. Được treo trên những sợi dây cáp căng, đỉnh gương trong trẻo của nó thuôn xuống, cố gắng giữ lấy món đồ gỗ đang rơi và một mảng sàn sáng màu không ngừng trượt ra khỏi tầm tay nó. Những miếng thủy tinh trên ngọn chúc đài. Chúng phát ra tiếng lanh canh tinh tế (đồ đạc đang được di chuyển trong phòng trên gác, nơi cô Mademoiselle sẽ trú ngụ). Những chiếc bút chì màu. Phổ màu chi tiết của chúng được quảng cáo trên hộp, nhưng những chiếc bút bên trong không bao giờ là đại diện hoàn chỉnh. Chúng tôi ngồi bên một chiếc bàn tròn, em trai tôi và tôi, và cô Robinson, người thỉnh thoảng vẫn xem đồng hồ của mình: đường sá chắc kinh khủng lắm với từng ấy tuyết; và dù sao đi nữa, rất nhiều khó khăn về mặt nghiệp vụ đang ngóng đợi người Pháp lạ lẫm sắp thay thế cô.
Giờ những chiếc bút chì màu đã vào việc. Chiếc xanh lục, chỉ bằng một cú xoay cổ tay, có thể bị sai khiến để tạo ra một cái cây lộn xộn, hay xoáy nước do một chú cá sấu lặn xuống nước để lại. Chiếc màu xanh lam vẽ một đường đơn giản ngang qua trang giấy – vậy là đường chân trời của mọi đại dương đã ở đó. Một chiếc bút cùn vô danh không ngừng chen vào đường đi của ta. Chiếc màu nâu lúc nào cũng bị gãy, cả màu đỏ cũng vậy, nhưng đôi lúc, ngay sau khi nó bị gãy ra, ta vẫn có thể bắt nó phục vụ bằng cách giữ sao cho đầu chì nhọn còn tựa vào được một mảnh gỗ thòi ra ngoài, dù không chắc chắn cho lắm. Cậu chàng màu tím nhỏ bé, màu tôi đặc biệt yêu thích, đã bị gọt xuống còn ngắn đến nỗi gần như không cầm nổi. Chỉ mỗi chiếc màu trắng, kẻ bạch tạng cao lêu đêu trong đám bút chì ấy, là còn giữ được chiều dài ban đầu của nó, hay ít nhất là vẫn thế cho đến khi tôi phát hiện ra rằng, thay vì chỉ là một kẻ giả mạo không để lại dấu vết gì trên trang giấy, nó chính là nhân tố lý tưởng vì tôi có thể tưởng tượng ra bất kể thứ gì tôi muốn trong lúc nguệch ngoạc bằng nó.
Nhưng trời ơi, cả những chiếc bút chì này cũng đã được chia cho các nhân vật trong sách của tôi để những đứa trẻ hư cấu ấy được bận rộn; giờ chúng không hẳn là của riêng tôi nữa rồi. Ở đâu đó, trong căn hộ thuộc một chương sách, hay trong căn phòng thuê của một đoạn văn nào đó, tôi cũng đã đặt chiếc gương nghiêng kia, cái đèn nọ, và những giọt thủy tinh của đèn chùm. Rất ít thứ còn ở lại, rất nhiều điều đã bị phung phí. Tôi đã đem cho Box I (con trai và bạn đời của Loulou, thú cưng của người quản gia), chú chó lạp xưởng lông nâu dễ ngủ gật trên sô pha chưa nhỉ? Không, tôi nghĩ nó vẫn hoàn toàn là của tôi. Cái mõm xám của nó, với một cái mụn cóc ở bên một nếp nhăn nơi khóe miệng, được vùi vào chỗ khuỳnh của khuỷu chân sau, chốc chốc một cái thở dài lại làm phình chỗ xương sườn của nó. Nó đã quá già và giấc ngủ của nó nhanh chóng được lấp đầy bằng các giấc mơ (về những đôi dép gặm được và vài mùi hương ngửi lần gần nhất), đến mức nó còn không trở mình trước những tiếng chuông nhẹ rung từ bên ngoài. Rồi đến tiếng gió của cánh cửa mở ra cùng những tiếng lanh canh trong tiền sảnh. Rốt cuộc nó đã đến; tôi đã hy vọng là không.
3
Một chú chó khác, đứa con dịu dàng trong một dòng giống dữ dằn, một chú Great Dane không được phép vào trong nhà, đã dự phần vui vẻ trong một chuyến phiêu lưu mấy ngày sau đó, nếu không phải chính xác là ngay ngày hôm sau. Sự việc vô tình xảy ra là em trai tôi và tôi lại được phó mặc hoàn toàn quyền phụ trách cho kẻ mới đến này. Như lúc này tôi ngẫm lại thì mẹ tôi chắc đã đi vắng, cùng người hầu gái và Trainy lúc còn bé, tới St. Petersburg (cách nhà khoảng tám mươi cây số) nơi cha tôi đang dính dáng mật thiết với các sự kiện chính trị tàn khốc của mùa đông năm đó. Mẹ đang bụng mang dạ chửa và rất lo lắng. Cô Robinson, thay vì ở lại để dạy xen kẽ cùng Mademoiselle, thì đã ra đi – quay về với gia đình vị đại sứ nọ, chúng tôi đã nghe cô nói nhiều về họ y như họ sẽ nghe về chúng tôi từ cô. Để chứng minh rằng đây không hề là cách đối xử với lũ chúng tôi, tôi lập tức tiến hành dự án lặp lại màn biểu diễn thú vị năm ngoái, lúc chúng tôi thoát khỏi cô Hunt tội nghiệp ở Wiesbaden. Lần này vùng nông thôn khắp xung quanh đều phủ đầy tuyết, và rất khó để tưởng tượng xem chính xác mục đích của chuyến đi mà tôi đã lên kế hoạch là gì. Chúng tôi vừa trở về từ lần đi bộ buổi chiều đầu tiên cùng Mademoiselle, và lòng tôi đầy giận dữ lẫn chán nản. Chỉ cần chút ít khích lệ là tôi đã làm Sergey khù khờ chia sẻ nỗi tức giận ấy với mình. Người ta khó mà chịu đựng nổi khi phải bắt kịp một thứ ngôn ngữ xa lạ (tất cả những gì chúng tôi biết trong tiếng Pháp chỉ là vài cụm từ dùng trong nhà), và hơn thế lại còn bị hủy hết những thói quen yêu thích. Bonne promenade1 mà cô hứa với chúng tôi hóa ra lại là cuốc đi bộ chán ngắt gần nhà, nơi tuyết đã được dọn sạch và lớp đất đóng băng đã rắc cát. Cô cho chúng tôi mặc những thứ chưa từng mặc, kể cả vào những ngày lạnh giá nhất – đôi ghệt kinh khủng và mũ trùm làm cản trở mọi cử động của chúng tôi. Cô ngăn cản chúng tôi lúc tôi xui Sergey khám phá đống tuyết mềm mượt từng là những luống hoa hồi mùa hè. Cô đã không cho chúng tôi đi bộ bên dưới giàn cột băng khổng lồ trông như ống đàn organ mắc dưới mái hiên và sáng rực rỡ trong ánh mặt trời xuống thấp. Và cô còn từ chối một trong những thú tiêu khiển yêu thích của tôi (do cô Robinson nghĩ ra) vì lý do ignoble2– nằm sấp trên một xe trượt nhỏ bọc nhung với phần mũi buộc dây thừng và một bàn tay đi găng da kéo tôi dọc theo lối đi phủ tuyết, bên dưới những cái cây trắng xóa, còn Sergey thì không nằm mà ngồi trên chiếc xe trượt thứ hai, bọc vải nhung đỏ, gắn vào đuôi xe bọc vải nhung xanh của tôi, và gót đôi ủng nỉ ngay trước mặt tôi di chuyển khá nhanh với mũi giày hơi quặp vào trong, lúc thì chân bên này, lúc thì chân bên kia bị trượt trên một mảng băng mới. (Bàn tay và bàn chân này là của Dmitri, người thợ làm vườn già nhất và lùn nhất của chúng tôi, còn đường trượt chính là đại lộ cây sồi, nơi dường như đã trở thành mạch máu chính trong thời ấu thơ của tôi.)
1 Chuyến đi bộ thú vị
2 Ghê tởm
Tôi bày cho em trai mình một kế hoạch tinh nghịch và thuyết phục nó chấp nhận. Ngay khi trở về từ cuộc đi bộ ấy, chúng tôi bỏ lại Mademoiselle đang thở phì phò trên bậc thềm của tiền sảnh và lao vào trong nhà, tạo cho cô ấn tượng là chúng tôi sắp sửa giam mình trong một căn phòng tách biệt nào đấy. Thực ra, chúng tôi chạy tiếp đến khi tới được đầu bên kia căn nhà, rồi đi xuyên một hành lang để lẻn vào trong vườn lần nữa. Chú Great Dane vừa nhắc tới ở trên đang dở việc sục sạo điều chỉnh vị trí cạnh một đống tuyết gần đó, nhưng trong lúc đang cân nhắc xem phải nhấc chân sau nào lên, nó để ý thấy chúng tôi và lập tức nhập vào nhóm chạy trốn vui nhộn.
Ba chúng tôi men theo một lối mòn khá dễ đi, và sau khi đã lội qua chỗ tuyết còn dày hơn nữa, tới được con đường dẫn vào làng. Trong lúc ấy mặt trời đã lặn. Bóng tối bất ngờ phủ chụp xuống một cách kỳ lạ. Em trai tôi tuyên bố nó bị lạnh và bị mệt, nhưng tôi cứ giục nó đi tiếp và cuối cùng cho nó cưỡi chú chó (thành viên duy nhất của đoàn vẫn còn đang thích thú với bản thân). Chúng tôi đã đi được hơn ba cây số, ánh trăng lấp lánh tuyệt diệu, còn em trai tôi, vẫn trong lúc im lặng tuyệt đối, đã bắt đầu thi thoảng ngã từ trên lưng chó xuống thì Dmitri bắt kịp chúng tôi với chiếc đèn lồng và dẫn chúng tôi về nhà. “Giddy-eh, giddy-eh?” Mademoiselle điên cuồng hét lên từ trên hiên. Tôi đẩy người đi qua cô mà không nói một lời. Em trai tôi òa khóc và đầu hàng. Chú chó Great Dane tên Turka thì quay lại với những hoạt động đã bị chen ngang trước đó của nó liên quan đến những ụ tuyết hữu ích và chứa đầy thông tin quanh nhà.
4
Hồi thơ ấu, chúng tôi biết rất nhiều về các bàn tay bởi chúng sống và lơ lửng ở đúng tầm vóc của chúng tôi. Tay Mademoiselle rất khó chịu do độ bóng nhẫy bên trên lớp da căng lốm đốm những vệt tụ máu màu nâu. Trước thời của cô, không có người lạ nào từng vuốt ve mặt tôi. Còn cô thì ngay khi mới đến đã làm tôi ngạc nhiên tột độ bằng cách vỗ nhẹ vào má tôi như một biểu hiện âu yếm tự phát. Mọi kiểu cách của cô đều quay lại với tôi khi tôi nghĩ tới hai bàn tay cô. Trò bóc vỏ thay vì gọt bút chì của cô, trong khi giữ đầu bút về phía bộ ngực vĩ đại nhưng khô cằn bọc trong lớp len xanh lục. Cái cách cô chọc ngón tay út vào tai rồi rung lắc nó thật nhanh. Nghi thức quan sát được mỗi lần cô đưa tôi một cuốn vở tập viết mới tinh. Lúc nào cô cũng khẽ hổn hển một chút, miệng khẽ mở và phả ra một tràng những tiếng phì phò ngắn của người bệnh hen, rồi cô mở cuốn tập viết ra để tạo một đường lề vở trong đó; nghĩa là cô sẽ dùng ngón tay trỏ gập một đường thẳng rất sắc ở mép trang, ấn, thả, làm phẳng nó ra bằng cườm tay, sau đó thì cuốn vở sẽ được gập cong trở lại và đặt trước mặt tôi, sẵn sàng để sử dụng. Tiếp theo là một chiếc bút mới; cô sẽ nhấm ướt cái đầu bút bóng loáng bằng cặp môi lẩm bẩm trước khi chấm nó vào hộp mực thần thánh. Rồi, vui sướng trong từng nét gạch của mọi chữ cái rõ ràng (đặc biệt vui vì cuốn tập viết trước đã kết thúc một cách tuyệt đối vụng về), tôi hết sức cẩn thận chép từ Dictée1 trong lúc Mademoiselle lùng sục trong bộ sưu tập các bài kiểm tra đánh vần của cô một đoạn văn thật khó.
1 Chính tả
5
Trong lúc ấy, cảnh trí đã thay đổi. Cái cây được phủ sương muối và ụn tuyết cao với cái hố ngả vàng của nó đã được người phụ trách sân khấu câm lặng dọn đi. Buổi chiều hè lại sống động với những đám mây dốc đứng ưỡn bờ ngực xanh da trời. Những cái bóng có mắt di chuyển trên những con đường trong vườn. Lúc này, bài vở đã xong, và Mademoiselle đang đọc cho chúng tôi nghe từ trên hiên nhà, nơi những tấm nệm và ghế bện rơm tỏa ra một mùi hăng nồng và ngọt như bánh quy trong cái nóng. Trên những bệ cửa sổ trắng, trên cái ghế dài dọc cửa sổ phủ vải trúc bâu đã bạc màu, ánh mặt trời vỡ ra thành những viên đá quý có hình hình học sau khi chiếu qua những ô kính màu hình thoi và hình vuông. Đây chính là thời điểm tốt đẹp nhất của cô Mademoiselle.
Cô đã đọc cho chúng tôi nghe biết bao tập sách trên hàng hiên ấy! Giọng đọc nhẹ nhàng của cô cứ luyến láy mãi, không bao giờ yếu đi, không vướng chút chần chừ hay ngập ngừng nào, một chiếc máy đọc hoàn toàn độc lập với khí quản bệnh tật của cô. Chúng tôi đã được nghe cả các cuốn: Les Malheurs de Sophie1, Le Tour du Monde en Quatre Vingts Jours2, Le Petit Chose3, Les Misérables4, Le Comte de Monte Cristo5, và rất nhiều cuốn khác nữa. Cô ngồi đó, cất giọng đọc từ bên trong tù ngục của cơ thể mình. Ngoài môi, một trong mấy chiếc cằm của cô, cái nhỏ nhất nhưng lại là cái cằm đích thực, là phần duy nhất cử động trong cả cơ thể to lớn như Phật Tổ. Mắt kính viền đen phản chiếu sự vĩnh hằng. Thi thoảng một chú ruồi sẽ đậu lên vầng trán cương nghị của cô, và ba nếp nhăn nơi đó sẽ lập tức cùng nhướng cả lên như ba tuyển thủ vượt ba chướng ngại vật. Nhưng không có bất kỳ thay đổi gì trong biểu cảm trên khuôn mặt cô – khuôn mặt mà tôi rất thường xuyên cố gắng mô tả lại trong cuốn sổ phác thảo của mình, bởi vẻ bất động và cấu trúc đối xứng đơn giản của nó hấp dẫn chiếc bút chì vụng trộm của tôi hơn nhiều lần so một bình hoa hay con vịt giả trên chiếc bàn trước mặt, những thứ đáng ra tôi phải vẽ.
1 Tạm dịch: Những vận rủi của Sophie
2 Tám mươi ngày vòng quanh thế giới
3 Thằng nhóc con
4 Những người khốn khổ
5 Bá tước Monte Cristo
Chẳng bao lâu sau, sự chú ý của tôi càng lang thang đi xa hơn nữa, và có lẽ ấy chính là lúc nhịp điệu thuần khiết hiếm thấy trong giọng cô mới đạt được mục đích thực sự của nó. Tôi ngước nhìn một cái cây và cành lá rung rinh mượn âm điệu ấy. Egor đang trồng mấy cây hoa mẫu đơn vào chậu. Một chú chim chìa vôi bước tới, dừng phắt lại như thể chợt nhớ ra điều gì – rồi bước tiếp, diễn lại chính cái tên của nó. Không biết từ đâu ra, một chú bướm Comma tới đậu lên ngưỡng cửa, đắm mình trong ánh nắng với cặp cánh nâu đỏ xòe rộng, rồi đột ngột cụp chúng lại, chỉ để lộ những bụi phấn tí hon bám trên thân trong, và rồi chú ta bỏ đi cũng bất ngờ như lúc đến. Nhưng nguồn ham thích bất biến nhất trong tất cả những buổi đọc sách ấy lại tới từ những mảng kính màu xếp theo hoa văn sê-quin được gắn trong hai khung cửa sơn trắng ở hai đầu hàng hiên. Khu vườn khi trông qua lớp kính phép thuật này càng trở nên kỳ lạ và tách biệt hơn. Nếu một người trông qua lớp kính xanh lam, cát sẽ biến thành màu than xỉ trong khi những cái cây đen sì bơi lội trên nền trời nhiệt đới. Kính màu vàng tạo ra một thế giới hổ phách được hòa thêm một liều ánh nắng cực mạnh. Màu đỏ khiến tán lá nhỏ giọt hồng ngọc đậm trên nền đường màu hồng. Màu xanh lục nhuộm cỏ cây trong một bồn xanh sậm màu hơn nữa. Và sau khi đã trải qua tất thảy sự giàu có ấy, ai đó quay lại với một mảnh kính hình vuông nhỏ bình thường, vô vị, chỉ có một con muỗi hay chú nhện chân dài chán ngán trên đó, việc ấy chẳng khác nào uống một ngụm nước khi ta không khát, và khi ai đó trông thấy một chiếc ghế trắng thực dụng bên dưới những tán cây quen thuộc. Thế nhưng trong tất cả những cánh cửa sổ thì đây lại chính là khung cửa mà nhiều năm sau đó nỗi hoài niệm ngày cũ tha thiết muốn nhìn qua.
Mademoiselle không bao giờ khám phá ra giọng đọc đều đều của cô hiệu nghiệm đến mức nào. “Ôi,” cô thở dài, “comme on s’aimait – chẳng phải chúng ta đã rất mến nhau sao! Những ngày xưa tươi đẹp ấy ở château1! Con búp bê bằng sáp đã chết mà chúng ta chôn dưới một cây sồi [Không – một chú Golliwogg nhồi len]. Còn cả cái lần em và Sergey chạy biến đi và bỏ mặc tôi vấp váp và hú hét tận sâu trong rừng nữa! [Phóng đại]. Ah, la fessée que je vous ai flanquée – Trời ạ, tôi đã quật cho các em một trận ra trò làm sao! [Đúng là cô đã cố tát tôi một lần, nhưng nỗ lực ấy không bao giờ được lặp lại]. Votre tante, la Princesse1, người mà em đã đấm bằng nắm tay nhỏ xíu của mình chỉ vì bà ấy đã thô lỗ với tôi! [Không nhớ chút nào]. Và cái cách em thì thầm với tôi về các vấn đề trẻ con của mình! [Chưa bao giờ!] Cả cái hốc trong phòng tôi mà em rất thích chui vào vì thấy ấm áp và an toàn biết bao!”
1 Lâu đài
1 Dì của bạn, Công chúa
Phòng của Mademoiselle cả ở điền trang lẫn dinh thự trong thành phố đều là một nơi chốn kỳ quái với tôi – một kiểu nhà kính dung dưỡng loại cây lá dày thấm đẫm thứ mùi nặng nề, khắm khú. Dù nó nằm ngay cạnh phòng chúng tôi hồi chúng tôi còn nhỏ, nhưng dường như nó không hề thuộc về ngôi nhà thơm tho dễ chịu của chúng tôi. Trong đám hơi sương buồn nôn ấy, thứ mùi màu nâu của lớp vỏ táo bị phân hủy bốc ra nồng nặc, lẫn với những mùi hôi từ len dạ khác. Chiếc đèn bàn cháy lập lòe, và các vật kỳ lạ sáng lên trên bàn viết: một chiếc hộp sơn mài có cắm que cam thảo, những phần màu đen của thứ cô sẽ dùng con dao nhíp của mình hớt lấy và cho tan chảy trên lưỡi; một tấm bưu thiếp có hình cái hồ và một tòa lâu đài có những tấm rèm xà cừ cho cửa sổ; một quả bóng xốp làm từ vô vàn những cuộn giấy bạc được vo viên thật chặt lại, lớp giấy gói những thanh sô cô la mà cô thường ăn mỗi đêm; những bức ảnh chụp một đứa cháu trai đã mất, ảnh của bà mẹ cậu bé, người đã ký dưới bức ảnh tên Mater Dolorosa, và của một quý ông de Marante nào đó, kẻ đã bị gia đình mình ép buộc phải cưới một quả phụ giàu có.
Ngự trên giá đỡ trông xuống cái bàn là bức ảnh một cô gái tóc nâu trẻ trung, mảnh mai trong chiếc khung cầu kỳ, mặc bộ váy áo vừa khít với cặp mắt dũng cảm và mái tóc dày dặn. “Một bím tóc dày như cánh tay tôi và vươn dài tới tận mắt cá chân!” là lời nhận xét đầy kịch tính của cô Mademoiselle. Vì đây từng là chính cô – nhưng cặp mắt tôi chỉ vô vọng khi cố tìm ra hình ảnh sinh vật duyên dáng, bị bao bọc trong thân thể quen thuộc kia. Những khám phá của tôi và em trai chỉ càng làm tăng trở ngại cho nhiệm vụ ấy; và những người lớn chỉ trông thấy một cô Mademoiselle áo quần dày dặn ban ngày, càng chưa bao giờ trông thấy điều mà lũ trẻ chúng tôi từng thấy. Ấy là mỗi khi cô bị dựng dậy từ trong giấc ngủ bởi tiếng gào thét vì ác mộng của một trong hai anh em chúng tôi, áo quần xộc xệch, nến trong tay, một thoáng vải ren xuyên thấu trên chiếc váy ngủ màu đỏ máu vốn không thể che hết thể hình to lớn của cô, một phiên bản xấu xí của Jézabel trong vở kịch ngớ ngẩn của Racine rầm rập lao vào phòng chúng tôi trên đôi chân trần.
Suốt đời mình tôi đã là một người rất khó ngủ. Những người đi xe lửa, chỉ đặt báo sang bên cạnh, khoanh hai cánh tay ngốc nghếch của họ và lập tức có hành vi xúc phạm quen thuộc là bắt đầu ngáy o o, luôn làm tôi thấy kinh ngạc chẳng khác nào một thằng nhóc vô pháp vô thiên có thể thoải mái đại tiện trong lúc người tắm bồn mải chuyện vẫn đang hiện diện, hay là kẻ tham dự vào những cuộc biểu tình khổng lồ, hoặc gia nhập một liên đoàn chỉ để bị hòa tan trong đó. Ngủ nghê là thứ hội đoàn ngớ ngẩn nhất trên thế giới, với hội phí cao nhất và những nghi thức tàn bạo nhất. Đó là một sự tra tấn về tinh thần mà với tôi là hạ thấp giá trị bản thân. Sự căng thẳng và kiệt sức của nghiệp sáng tác thường ép buộc tôi, than ôi, phải nuốt một viên thuốc mạnh để cho phép mình một hoặc hai tiếng mơ ác mộng kinh khủng, hoặc thậm chí là để chấp nhận một chút giải tỏa khôi hài từ giấc ngủ ban ngày, cái cách mà một tay chơi lúc về già có thể phải lê bước tới cái chết êm ái gần nhất; nhưng tôi đơn giản là không thể làm quen được với sự bội phản mỗi đêm với cả lý lẽ, nhân tính và trí tuệ. Bất kể có mệt mỏi đến mức nào, nỗi đau khi phải chia lìa với nhận thức với tôi là điều đáng ghét không sao tả xiết. Tôi có thù với Somnus, tên đao phủ mang mặt nạ đen đã gắn chặt tôi với tấm thớt ấy; và nếu trong quá trình nhiều năm sau này, với cách tiếp cận của một sự phân rã triệt để hơn nhưng còn tức cười hơn thế, mà tôi thú thực là giờ đây nó đã làm giảm đi rất nhiều những nỗi sợ thường thấy của tôi với giấc ngủ, và tôi đã trở nên quen thuộc với nỗi khổ ban đêm của mình đến mức gần như là vênh váo trong lúc chiếc rìu xưa nhấc lên khỏi cái hộp đại hồ cầm viền nhung to lớn của nó, lúc đầu tôi không có được sự thoải mái hay phòng vệ như thế: tôi không có gì cả - chỉ trừ một ngọn đèn chiếu lệ từ cái chân đèn hứa hẹn tươi sáng trong phòng ngủ của Mademoiselle. Nhờ chỉ thị của vị bác sĩ gia đình nhà chúng tôi (Xin chào ông, bác sĩ Sokolov!) mà cửa phòng cô vẫn để hé mở. Vệt sáng nhẹ thẳng đứng của nó (mà những giọt lệ của đứa trẻ có thể chuyển thành những tia sáng cảm thông rực rỡ) là thứ mà tôi có thể bám víu lấy, vì trong bóng tối tuyệt đối, đầu tôi sẽ bập bềnh và tâm trí tan chảy ra trong một cảnh vật lộn với cái chết giả.
Đêm thứ Bảy thường là, và đáng lẽ phải là, một viễn cảnh đáng vui mừng, bởi đó là đêm mà cô Mademoiselle, một người thuộc về kiểu vệ sinh cá nhân xưa cũ và coi toquades anglaises1 của chúng tôi chỉ là nguồn gốc của những cơn cảm lạnh, chiều chuộng bản thân trong thú vui xa xỉ hiểm nguy bằng buổi tắm táp hàng tuần. Vì vậy cô sẽ gia ân thêm thời gian cho nguồn sáng mong manh của tôi. Nhưng rồi một nỗi khổ khó thấy hơn lại bắt đầu.
1 Thói mê đắm kiểu Anh
Lúc đó chúng tôi đã chuyển đến dinh thự trong thành phố, một khối kiến trúc kiểu Ý bằng đá gra-nít của Phần Lan, do ông ngoại tôi xây khoảng năm 1885, với những bức bích họa trên trần tầng ba và cửa sổ lồi ở tầng hai, trong thành phố St. Petersburg (ngày nay là Leningrad), số 47 phố Morskaya (giờ là Hertzen). Trẻ con ngụ ở tầng ba. Năm 1908, cái năm nói đến ở đây, tôi vẫn đang dùng chung phòng trẻ với em trai. Phòng tắm được phân cho cô Mademoiselle nằm ở cuối hành lang hình dích dắc cách phòng ngủ của tôi tầm hai mươi nhịp tim, và khi bị giằng xé giữa nỗi sợ cô quay từ phòng tắm về phòng ngủ sáng đèn cạnh phòng chúng tôi sớm và niềm ghen tị trước tiếng khò đều đặn khe khẽ của em trai tôi đằng sau tấm màn nhật chắn giữa hai đứa, tôi thực sự chưa bao giờ có thể tận dụng khoảng thời gian thêm thắt này hữu dụng bằng cách lặng im chìm vào giấc ngủ trong lúc một khe sáng giữa bóng tối vẫn còn giữ một phần trong tôi tỉnh táo giữa sự vô tri. Rồi cũng đến lúc những bước chân kiên quyết kia tiến lại, nặng nề bước dọc lối đi và làm cho vật thể bằng thủy tinh mong manh nào đó, vốn đã bí mật chia sẻ buổi thức đêm cùng tôi, rung lên buồn khổ trên giá của nó.
Giờ thì cô đã vào phòng mình. Một sự thay đổi lớn nơi cường độ ánh sáng cho tôi biết rằng cây nến trên bàn đầu giường của cô đã nhận công việc của cụm đèn trần vừa tắt ngóm, sau khi nó đã tăng thêm đến hai bậc ánh sáng tự nhiên, rồi phi tự nhiên chỉ bằng vài lần bật công tắc. Nguồn sáng của tôi vẫn còn ở đó, nhưng nó già cả, yếu ớt và lập lòe mỗi lần Mademoiselle làm chiếc giường kêu cọt kẹt bằng cách cựa mình. Vì tôi vẫn nghe tiếng cô. Bấy giờ là tiếng sột soạt của giấy bạc mang tên “Suchard”; rồi lại đến tiếng rẹt-rẹt-rẹt của con dao cắt hoa quả cắt vào các trang giấy của cuốn tạp chí La Revue dé Deux Mondes. Khoảng thời gian suy tàn đã bắt đầu: cô đang đọc Bourget. Không có từ nào của ông ta cứu sống ông được. Tận thế đã gần kề. Tôi đang khổ sở cực kì, cố gắng trong tuyệt vọng để khơi gợi giấc ngủ, cứ vài giây lại mở mắt để kiểm tra ánh sáng đang nhạt dần, và tưởng tượng ra thiên đường là nơi mà một người hàng xóm mất ngủ sẽ đọc cuốn sách dài bất tận bên ánh sáng của một ngọn nến vĩnh cửu.
Điều không thể tránh khỏi đã đến: chiếc hộp đựng kính đóng lại với một tiếng sập, cuốn tạp chí đặt lại trên mặt đá của chiếc tủ đầu giường, cặp môi mím chặt của Mademoiselle thổi phì phì; nỗ lực ban đầu thất bại, ngọn lửa chao đảo cuộn mình lại và né tránh; rồi đến lần tấn công thứ hai, và ánh sáng gục hẳn. Trong bóng tối thăm thẳm ấy, tôi mất luôn sức chịu đựng, chiếc giường như đang chầm chậm trôi dạt, nỗi hoảng loạn làm tôi phải ngồi bật dậy và nhìn chằm chằm; rốt cuộc cặp mắt đã điều chỉnh với bóng tối của tôi cũng nhận ra, giữa đám vật thể bơi trong nội nhãn, một hình ảnh mờ mịt quý giá vẫn trôi trong cơn mê vô định, cho đến khi chúng sực nhớ ra, ổn định lại và trở thành những nếp gập trong bóng tối của tấm màn che cửa sổ mà đằng sau chúng, những ngọn đèn đường vẫn đang sáng tỏ ở chốn xa xăm.
Những rắc rối của ban đêm mới hoàn toàn lạ lẫm làm sao nếu so với những buổi sáng náo nhiệt của St. Petersburg, khi mùa xuân mãnh liệt và dịu dàng, ẩm thấp và lấp lánh của vùng Cực Bắc đã tống khứ lớp băng vỡ xuống dòng Neva xanh màu đại dương! Nó làm cho các mái nhà tỏa sáng. Nó nhuộm bùn trên các con phố thành một màu xanh ánh tím đậm đà mà tôi chưa bao giờ bắt gặp ở bất kỳ nơi nào khác kể từ hồi đó. Trong những tháng ngày huy hoàng on allait se promener en équipage1 ấy - cách nói của Lục địa già thịnh hành trong thời điểm đang nhắc đến. Tôi có thể dễ dàng cảm nhận lại sự thay đổi đầy thích thú từ chiếc polushubok2 độn dày khừ dài đến đầu gối, với lớp cổ áo bằng lông hải ly nóng rẫy, sang chiếc áo choàng ngắn màu xanh hải quân với những núm khuy bằng đồng mang hình mỏ neo. Trên cỗ xe ngựa mui trần, tôi nhập hội với một chồng chăn che đùi cùng những người chiếm phần ghế sau thú vị hơn, Mademoiselle đường bệ, và cậu bé Sergey đắc thắng, mắt lệ nhòa. Tôi và nó vừa mới có một trận cãi nhau ở nhà. Thỉnh thoảng tôi lại đá thằng bé dưới lớp chăn chung, cho đến khi Mademoiselle phải nghiêm khắc bảo tôi dừng lại. Chúng tôi lướt qua những cửa sổ trưng bày của tiệm Febergé, những món đồ quái lạ bằng khoáng vật của họ, những cỗ troyka1 đá quý gắn bên trên trứng đà điểu bằng cẩm thạch, và những thứ tương tự được gia đình Hoàng gia đánh giá cao, nhưng với gia đình chúng tôi, chúng chỉ là biểu trưng của sự lòe loẹt xấu xí. Chuông nhà thờ đang đổ, chú chim hoàng yến đầu tiên bay cao bên trên mái vòm Cung điện, chỉ một tháng nữa là chúng tôi sẽ quay về thôn quê; và trong lúc nhìn lên tôi có thể trông thấy những tấm phù hiệu khổng lồ, phẳng lì, nửa xuyên thấu đang phồng gió, chúng được căng trên những sợi thừng giăng từ mặt nhà bên này sang bên kia, cao bên trên mặt phố. Ba dải màu rộng của nó – đỏ nhạt, xanh lam nhạt và một màu đùng đục – bị ánh mặt trời và bóng đổ của những cụm mây bay tước đoạt bất kỳ mối liên quan sỗ sàng nào, nếu có, với một ngày hội quốc gia, nhưng giờ đây trong thành phố của ký ức, không nghi ngờ gì chuyện tinh thần của cái ngày mùa xuân ấy, lớp bùn mới hiện, sự khởi đầu của những dỗi hờn, chú chim ngoại lai xù lông với một bên mắt vằn đỏ trên mũ của Mademoiselle ấy, đang được tụng ca.
1 Chúng tôi đã đi dạo với tư cách là một phi hành đoàn
2 Áo khoác ngắn
1 Troyka: xe kéo tam mã
6
Cô đã ở với chúng tôi bảy năm, các bài học ngày càng ít dần, trong khi cơn tam bành thì nhiều lên. Tuy nhiên, dường như cô vẫn là một tảng đá vững vàng bất biến khi so sánh với dòng đến và đi của các bảo mẫu người Anh lẫn gia sư người Nga ngang qua điền trang rộng lớn của chúng tôi. Cô bất hòa với tất cả bọn họ. Vào mùa hè, hiếm khi có dưới mười lăm người ngồi ăn cùng nhau, còn khi đến các dịp sinh nhật, con số này tăng lên thành ba mươi hoặc hơn, và câu hỏi đặt ra về vị trí ngồi trở nên đặc biệt nhức nhối với cô Mademoiselle. Vào những ngày như vậy, các bậc cô dì chú bác từ khắp các điền trang lân cận sẽ ghé qua, và vị bác sĩ trong làng sẽ đến cùng cỗ xe có chỗ cho chó của mình, người ta cũng nghe thấy tiếng thầy giáo làng hỉ mũi trong tiền sảnh mát lạnh, nơi ông đi qua hết cái gương này đến gương kia, trong tay là bó hoa huệ xanh mướt, ẩm ướt từ trong thung lũng, hay những bông xa cúc lam xanh màu trời và dễ gãy.
Nếu cô Mademoiselle thấy mình bị đặt chỗ ngồi ở tít tận phía bên kia chiếc bàn khổng lồ, và đặc biệt, nếu cô mất đặc quyền về tay một người họ hàng tội nghiệp nào đó cũng béo gần bằng cô (“Je suis une sylphide à côté d’elle1", Mademoiselle sẽ nói vậy với một cái nhún vai khinh ghét), thì cảm giác bị tổn thương của cô sẽ khiến môi cô nhếch lên thành một nụ cười vốn định để mỉa mai – và khi người hàng xóm ngây thơ kia cười đáp lại, cô sẽ nhanh chóng lắc đầu, như vừa thoát khỏi trạng thái thiền sâu, với câu nhận xét: “Excuze-moi, je souriais à mes tristes pensées2.”
1 Tôi còn mảnh mai chán so với bà ấy
2 Xin thứ lỗi, tôi chỉ cười với những suy nghĩ buồn khổ của mình
Và mặc dù thiên nhiên đã không mong chừa lại cho cô bất kỳ điều gì làm người ta siêu nhạy cảm, cô bị lãng tai. Đôi khi ở bàn bọn con trai chúng tôi sẽ đột nhiên bắt gặp hai giọt nước mắt lớn chảy dài trên cặp má mũm mĩm của Mademoiselle. “Đừng để ý đến tôi.” Cô sẽ nói bằng giọng lí nhí, và sẽ tiếp tục ăn đến khi những giọt nước mắt không được gạt đi kia làm cô mờ mắt; rồi, với một tiếng nấc tan nát cõi lòng, cô sẽ đứng dậy và ào chạy ra khỏi phòng. Từng chút một, sự thật sẽ hé lộ. Chẳng hạn, cuộc nói chuyện phiếm đã chuyển sang chủ đề chiếc tàu chiến mà bác tôi chỉ huy, và cô sẽ suy ra từ chuyện này một câu đá xoáy ý nhị vào việc đất nước Thụy Sỹ của cô không có hải quân. Hay một lần khác là vì cô tưởng tượng ra bất kể khi nào tiếng Pháp được dùng đến, trò chơi cũng bao gồm việc cố ý ngăn chặn cô chỉ đạo và thêm thắt cho cuộc hội thoại. Người phụ nữ tội nghiệp, lúc nào cô cũng trong tâm trạng bồn chồn vội vã tóm lấy quyền điều khiển cuộc chuyện trò dễ hiểu ở bàn ăn trước khi nó bị đẩy trở lại với tiếng Nga đến mức không có gì đáng ngạc nhiên khi cô làm hỏng cả tâm trạng của mình.
“Còn Nghị viện của ngài thì sao, thưa ngài, họ cư xử thế nào rồi?” Cô sẽ đột nhiên vồn vã hỏi từ một đầu bàn, thách thức cha tôi, người vừa có một ngày khó nhọc, người không hẳn là sẵn lòng bàn bạc về đại sự quốc gia với một cá nhân không thực nào đó, vừa chẳng biết gì, lại cũng không quan tâm gì đến chúng. Nghĩ rằng ai đó vừa nhắc tới âm nhạc, cô sẽ lẩm bẩm, “Nhưng cả sự im lặng cũng rất đẹp mà. Tại sao ư? Một buổi tối nọ, trong một thung lũng hoang vắng ở dãy Alps, tôi đã thực sự nghe thấy sự im lặng.” Những câu nói hóm hỉnh kiểu này, đặc biệt là khi việc ngày càng điếc nặng khiến cô trả lời những câu hỏi mà không ai đặt ra, dẫn đến một tiếng suỵt gây tổn thương, thay vì khởi tạo một cuộc causerie1 vui vẻ.
1 Chuyện gẫu
Nhưng thực sự tiếng Pháp của cô đáng yêu quá đỗi! Chẳng phải người ta nên lưu ý đến nền văn hóa nông cạn, tính khí nóng nảy và trí tuệ tầm thường của cô, khi mà thứ ngôn ngữ sáng trong như ngọc của cô cuộn chảy và phát sáng, ngây ngô vô tư lự y như những lỗi lặp âm đầu trong bài thơ sùng đạo của Racine ư? Chính thư viện của cha tôi chứ không phải học vấn ít ỏi của cô đã dạy tôi biết trân trọng thơ ca đích thực; tuy nhiên, điều gì đó mạch lạc và trong trẻo nơi giọng cô mới có tác động mạnh mẽ đặc biệt đến tôi, giống như những hạt muối lấp lánh thường được dùng để thanh tẩy máu vậy. Đó là lý do giờ đây tôi buồn biết mấy khi tưởng tượng ra chắc hẳn cô Mademoiselle đã cảm thấy thế nào, trước sự lạc lõng, trước giá trị ít ỏi của giọng oanh vàng ấy khi nó phát ra từ cơ thể bồ tượng của cô. Cô lưu lại với chúng tôi rất lâu, quá lâu, với hy vọng ngoan cố rằng một điều kỳ diệu nào đó sẽ biến đổi cô thành một kiểu phu nhân de Rambouillet nắm trong tay một salon1 ngập đăng ten và lanh chứa chấp các nhà thơ, hoàng tử, Nghị viên dưới câu thần chú thông thái của cô.
Đáng lẽ cô sẽ còn tiếp tục hy vọng như thế nếu không phải vì anh chàng Lenski, vị gia sư trẻ tuổi người Nga, với cặp mắt cận thị loại nhẹ và các quan điểm chính trị cứng rắn. Thầy lãnh nhiệm vụ đào tạo chúng tôi ở nhiều môn học khác nhau và tham gia các trò thể thao cùng chúng tôi. Thầy đã có tới mấy người tiền nhiệm, Mademoiselle không thích ai trong số họ, nhưng riêng thầy, như cô nói, lại là “le comble2”. Dù mến mộ cha tôi, Lenski vẫn không thể chấp nhận hoàn toàn vài khía cạnh trong gia đình chúng tôi, chẳng hạn như những người hầu nam và tiếng Pháp, điều sau này thầy coi là một tục lệ vô dụng của giới quý tộc trong một gia đình theo chủ nghĩa tự do. Mặt khác, Mademoiselle quyết định rằng nếu Lenski trả lời những câu hỏi thẳng thừng của cô chỉ bằng mấy tiếng gầm ghè cụt lủn (mà thầy đã cố Đức hóa chúng trong mong mỏi tìm một thứ ngôn ngữ tốt hơn), đó không phải là bởi thầy không hiểu tiếng Pháp, mà vì thầy muốn sỉ nhục cô trước mặt tất cả mọi người.
1 Phòng tiếp khách của các quý bà
2 Hạng nhất
Tôi có thể nghe và nhìn thấy cách Mademoiselle yêu cầu thầy chuyển cho cô giỏ bánh mỳ bằng tông giọng êm ái nhưng môi trên thì run lên ác ý; và ngược lại, tôi có thể nghe và trông thấy Lenski phi-tiếng-Pháp không hề nhúc nhích lấy một chút và tiếp tục ăn món xúp của mình; rốt cuộc, với một tiếng “Pardon, monsieur1” đanh đá, cô sẽ thò tay ngang qua đĩa của thầy, giật lấy giỏ bánh mì và rụt tay lại với một câu “Merci2!” đầy mỉa mai tới mức đôi tai cụp của thầy sẽ chuyển thành màu phong lữ. “Đồ thô lỗ! Đồ vô lại! Đồ vô thần vô thánh!” Lúc sau cô sẽ khóc lóc trong phòng mình như vậy – phòng cô giờ không còn nằm cạnh phòng chúng tôi nữa, dù vẫn còn ở cùng tầng.
1 Xin phép, thưa ông
2 Cảm ơn
Nếu Lenski vô tình đang rảo bước xuống nhà trong lúc cô vật vã đi lên, với một lần nghỉ vì cơn hen mỗi mười bậc một (vì chiếc thang máy nhỏ chạy bằng thủy lực ở nhà chúng tôi tại St. Petersburg lúc nào cũng từ chối làm việc, một việc khá là xúc phạm), Mademoiselle khăng khăng kể rằng thầy đã cố ý đá vào cô, đẩy cô, vật cô ngã và chúng tôi đã có thể trông thấy thầy giậm chân lên cơ thể ngã sõng soài của cô. Càng lúc cô càng thường xuyên rời khỏi bàn, và món tráng miệng mà cô bỏ lỡ sẽ được lịch sự gửi lên trên theo sau cô. Từ căn phòng tách biệt, cô sẽ viết một lá thư dài mười sáu trang cho mẹ tôi, người sẽ tìm thấy cô đang đóng gói rương hòm một cách kịch tính sau khi vội vã chạy lên gác. Và rồi, một ngày kia, cô đã được phép làm tiếp việc đóng gói của mình.
7
Cô quay về Thụy Sỹ. Đại chiến thứ Nhất xảy ra, rồi đến Cách mạng. Vào đầu những năm hai mươi, khi những cuộc trao đổi của chúng tôi đã lắng hẳn từ lâu, nhờ một bước đi ngẫu nhiên trong quá trình tha hương, tôi có dịp ghé thăm Lausanne với một người bạn đại học, bởi vậy tôi nghĩ có khi mình cũng nên tìm lại cô Mademoiselle, nếu cô ấy vẫn còn sống.
Cô vẫn còn. Mập mạp hơn bao giờ hết, tóc đã ngả bạc và gần như điếc đặc, cô chào đón tôi với một màn bùng nổ yêu thương ầm ĩ. Thay vào bức ảnh Château de Chillon, giờ thế chỗ nó là một cỗ troyka lòe loẹt. Cô nói về quãng đời ở Nga một cách nồng ấm cứ như nó là quê cha đất tổ đã mất của mình. Quả thực, tôi tìm được ở khu dân cư ấy cả một cộng đồng các cô gia sư Thụy Sỹ luống tuổi. Họ túm tụm lại với nhau trong những cuộc ganh đua hồi tưởng ồn ào, tạo nên một ốc đảo nhỏ trong một môi trường giờ đã trở nên lạ lẫm với họ. Người bạn thân thiết của cô Mademoiselle, Mlle Golay, giờ đã y như xác ướp, bà là cựu gia sư của mẹ tôi, ở tuổi tám mươi lăm, vẫn còn nghiêm trang và yếm thế; bà đã lưu lại với gia đình tôi rất lâu sau khi mẹ tôi kết hôn, và chỉ trở về Thụy Sỹ trước Mademoiselle có vài năm, và hồi cả hai cùng chung sống dưới mái nhà của chúng tôi, bà còn không nói chuyện với Mademoiselle. Người ta lúc nào cũng cảm thấy quá khứ của mình mới thân thương, điều đó phần nào giải thích cho tình yêu chỉ dành khi đã chết của những người phụ nữ đáng thương này với một đất nước xa xôi, và phải nói thật là khá đáng sợ, nơi họ không bao giờ thực sự hiểu và không ai trong số họ thực hạnh phúc khi ở đó.
Vì không chuyện trò được gì do bệnh điếc của cô Mademoiselle, bạn tôi và tôi quyết định hôm sau đưa cho cô thứ thiết bị mà chúng tôi nghĩ cô không mua nổi. Đầu tiên cô vụng về chỉnh nó không đúng, nhưng chẳng bao lâu sau cô đã quay sang tôi với cái nhìn ngạc nhiên nghẹn ngào và vui sướng trong mắt. Cô thề là mình có thể nghe từng từ, từng lời thì thầm của tôi. Cô không thể, vì tôi đã không nói gì do còn nghi ngờ. Nếu có thì tôi đã bảo cô cảm tạ bạn mình, người đã trả tiền cho công cụ ấy. Phải chăng ấy chính là sự im lặng trên dãy Alps mà cô đã từng kể trong quá khứ? Trong quá khứ ấy, cô đã nói dối với chính mình; giờ cô nói dối tôi.
Trước khi ra đi để tới Basle và Berlin, tôi vô tình đi dạo bên một cái hồ trong một đêm tối lạnh lẽo mù sương. Vào một thời điểm nào đó, ngọn đèn đơn độc làm loãng bóng tối đi đôi chút và biến chuyển màn sương thành cơn mưa phùn trông thấy được. “Il pleut tourjours en Suisse1” là một trong những câu nhận xét mà trước đây thường sẽ làm cô Mademoiselle khóc. Bên dưới, một gợn sóng rộng, gần như sóng biển, và thứ gì đó màu trắng mơ hồ thu hút cặp mắt tôi. Khi tôi tiến lại khá gần với mép nước, tôi trông thấy nó là gì – một chú thiên nga già nua, một sinh vật to lớn, hoang dã như chim cưu đang thực hiện những nỗ lực nực cười để đu mình vào một con thuyền đã buông neo. Nó không thể làm thế. Đôi cánh đập nặng nề và bất lực của nó, tiếng trượt trên bề mặt thuyền lắc lư và chòng chành, bóng tối ánh lên màu chàm càng phồng to hơn nơi nó bắt gặp ánh sáng – tất cả trong một giây phút dường như trĩu nặng với ý nghĩa kỳ lạ mà đôi khi, trong những giấc mơ, nó vẫn bị gắn vào một ngón tay kề lên cặp môi câm lặng, rồi ngón tay ấy chỉ vào một thứ gì mà kẻ mơ mộng không có thời gian để phân biệt trước khi giật mình tỉnh giấc. Nhưng mặc dù tôi nhanh chóng quên mất cái đêm ảm đạm ấy, kỳ lạ làm sao, chính đêm đó, hình ảnh hòa trộn đó – cơn rùng mình, chú thiên nga và sự căng phồng – là thứ đầu tiên tôi nghĩ đến khi biết Mademoiselle đã chết vài năm sau đó.
1 Ở Thụy Sỹ lúc nào trời cũng mưa
Cô đã dành cả đời sống trong cảm giác khổ sở; sự khổ sở này là bản chất tự nhiên của cô; bản thân những biến động và những tầng sâu khác nhau của nó đã cho cô ấn tượng mình đang chuyển động và đang sống. Điều làm tôi bận lòng là chỉ cảm giác khốn khổ, chứ không còn gì khác, thì không đủ để tạo nên một linh hồn vĩnh cửu. Cô Mademoiselle khổng lồ và ủ rũ của tôi sống trên đất này thì được, nhưng không thể tồn tại trong vĩnh hằng. Chẳng lẽ tôi đã thực sự triệu hồi cô từ trong tiểu thuyết? Ngay trước khi nhịp điệu mà tôi nghe thấy lạc đi và nhạt mất, tôi bắt gặp mình đang tự hỏi, liệu trong suốt từng ấy năm tôi biết cô, tôi đã không hoàn toàn bỏ lỡ một điều gì nơi cô thuộc về cô một cách đích thực, hơn nhiều so với những nọng cằm hay kiểu cách, hay thậm chí là tiếng Pháp của cô – thứ gì đó có lẽ gần hơn với thoáng hình ảnh cuối cùng của cô, lời nói dối rạng rỡ mà cô đã dùng hòng gửi tới để tôi rời bước với tâm trạng hài lòng với lòng tốt của chính mình, hay với chú thiên nga mà nỗi khổ sở của nó gần gũi với hiện thực nghệ thuật hơn nhiều so với đôi cánh tay nhợt nhạt của vũ công đang rũ xuống; tóm lại, là một thứ mà tôi chỉ có thể trân trọng sau khi những sự vật và thực thể mà tôi yêu thương nhất trong thuở thơ ấu an yên của mình đã biến thành tro bụi hay bị bắn xuyên tim.
Có một phần nối tiếp cho câu chuyện về Mademoiselle. Hồi lần đầu viết nó, tôi đã không biết về vài người sống sót một cách kỳ diệu. Vì vậy, hồi năm 1960, người anh họ ở London của tôi, Peter de Peterson, đã kể cho tôi biết bà vú người Anh của họ, người mà với tôi hồi năm 1904 ở Abbazia đã có vẻ thực già cỗi, đến lúc này đã hơn chín mươi tuổi và sức khỏe vẫn còn tốt; tôi cũng không hề biết bà gia sư của hai cô em út của cha tôi, Mlle Bouvier (sau này là Mme Conrad), đã sống lâu hơn cha tôi gần nửa thế kỷ. Bà tới điền trang của họ năm 1889 và ở đó sáu năm, là người cuối cùng trong cả một chuỗi bảo mẫu. Một món quà lưu niệm nhỏ xinh đẹp được bác Ivan de Peterson, cha của Peter, vẽ năm 1895 cho thấy nhiều sự kiện đời sống khác nhau ở Batovo, minh họa trên lời đề tặng viết tay của cha tôi: A celle qui a toujours su se faire aimer et qui ne saura jamais se faire oublier1; các chữ ký được thêm vào từ bốn chàng trai nhà Nabokov và ba chị em gái của họ, Natalia, Elizaveta và Nadezhda, ngoài ra còn có chồng của Natalia, đứa con trai nhỏ Mitik của họ, hai cô em họ, và Ivan Aleksandrovich Tohotski, gia sư người Nga. Sáu mươi lăm năm sau, tại Geneva, em gái tôi Elena phát hiện ra Mme Conrad, giờ đã bước sang thập kỷ thứ mười của bà. Cụ bà cổ xưa ấy bỏ qua một thế hệ và hồn nhiên lầm lẫn Elena với mẹ chúng tôi, khi xưa mới là cô gái mười tám, người thường lái xe cùng Mlle Golay từ Vyra tới Batovo, trong những khoảng thời gian xa xưa mà ánh sáng lâu dài của chúng đã tìm được vô số cách kỳ diệu để tới được chỗ tôi.
1 Tặng một người phụ nữ luôn biết cách khiến mình được yêu thương và không bao giờ biết cách làm sao để bị quên lãng.