• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương bốn

1

Kiểu gia tộc Nga của tôi – một kiểu mà giờ đây đã tuyệt tích – ngoài những đức tính khác, còn có một truyền thống chuộng những sản phẩm mang lại sự thoải mái của nền văn minh Anglo-Saxon. Một bánh xà phòng Pears, mang màu đen kịt khi bị khô, giống hoàng ngọc khi giơ ra ánh sáng giữa những ngón tay ướt, chăm sóc cữ tắm sáng của một ai đó. Cảm giác dễ chịu với trọng lượng giảm dần trong chiếc bồn tắm gấp lại được kiểu Anh khi người ta làm cho vành bên dưới của nó dâng lên và thải thành phần nước bọt bên trong xuống thùng đựng nước bẩn. “Chúng tôi không thể cải thiện kem, nên chúng tôi cải tiến cái tuýp” - trên một tuýp kem đánh răng của Anh đã ghi như vậy. Vào bữa sáng, si-rô vàng được nhập khẩu từ London sẽ xoắn thành một cuốn sóng sánh trong chiếc thìa xoay, từ đó sẽ chảy đủ lượng mật xuống mẩu bánh mì và bơ Nga. Tất cả những món xinh xắn, ngọt ngào được đưa đến không ngớt từ cửa hàng Anh trên Đại lộ Nevski: bánh gatô hoa quả, muối ngửi, bài tây, các tấm tranh ghép, áo khoác kẻ sọc, những quả bóng quần vợt màu trắng như vôi.

Tôi học đọc tiếng Anh trước cả tiếng Nga. Những người bạn Anh đầu tiên của tôi là bốn linh hồn đơn giản trong sách ngữ pháp của tôi – Ben, Dan, Sam và Ned. Đã có cả đống hỗn độn về danh tính và nơi chốn của họ - “Ai là Ben?” “Cậu ấy là Dan.” “Sam nằm trên giường.” .... Mặc dù tất cả đều hơi cứng ngắc và chắp vá (người soạn đã bị cùm tay chân là buộc phải chọn – ít nhất là trong những bài học đầu tiên ấy – các từ không quá ba chữ cái), bằng cách nào đó trí tưởng tượng của tôi đã thu thập đủ dữ liệu cần thiết. Khuôn mặt xanh xao, tay chân to, những đứa trẻ chậm chạp im lìm, tự hào sở hữu một công cụ nhất định nào đấy (“Ben có một cây rìu”), giờ đây họ lướt qua phần rìa xa xôi nhất trong ký ức tôi với dáng vẻ uể oải; và cũng giống như những chữ cái điên rồ trong bảng chữ của nhãn khoa, các chữ trong cuốn sách ngữ pháp lại lừng lững hiện lên trước mắt tôi.

Phòng học chan hòa ánh sáng. Trong một cái bình thủy tinh lấm chấm hơi nước, vài chú sâu bướm phủ đầy gai đang gặm lá tầm ma (và thải ra những viên cứt ấu trùng hình trụ thú vị màu xanh ô liu). Miếng giấy dầu phủ trên chiếc bàn tròn có mùi hồ dán. Cô Clayton thì có mùi của cô Clayton. Kỳ diệu thay, huy hoàng thay, chất cồn màu đỏ máu trong chiếc nhiệt kế bên ngoài đã dâng lên đến 24 độ Réaumur (86 độ Fahrenheit) trong bóng râm. Qua cửa sổ, người ta có thể trông thấy những cô gái nhà tá điền trùm khăn vuông đang bò trên hai tay và đầu gối để làm cỏ trong vườn hay nhẹ nhàng cào lớp cát lốm đốm vệt nắng. (Những tháng ngày hạnh phúc khi họ sẽ phải cọ rửa đường phố và đào hầm cho liên bang vẫn còn xa tận chân trời.) Những chú chim hoàng anh vàng óng trong đám cây xanh phát ra bốn nốt nhạc tuyệt vời của chúng: dee-del-dee-O!

Ned kéo lê qua cửa sổ trong bộ dạng rất giống anh thợ làm vườn Ivan (sau này, vào năm 1918, anh ta sẽ trở thành một thành viên của Xô Viết địa phương). Sang những trang sách sau nhiều từ dài hơn xuất hiện; và ở trang cuối cùng của cuốn sách nâu xỉn, ố mực ấy, một câu chuyện hẳn hoi mở ra các dòng văn cho người lớn của nó (“Một ngày nọ Ted nói với Ann: Hãy cùng…”), chiến thắng và phần thưởng vô biên dành cho vị độc giả nhỏ tuổi. Tôi vui mừng hết sức với ý nghĩ rằng một ngày nào đó mình có thể đạt đến trình độ trôi chảy như vậy. Phép màu ấy vẫn kéo dài, và bất kể khi nào vô tình bắt gặp một cuốn sách ngữ pháp, tôi lập tức mở đến trang cuối để tận hưởng một thoáng bị cấm đoán nhìn vào tương lai người học trò cần mẫn, của miền đất hứa nơi mà cuối cùng những từ ngữ được dùng đúng ý nghĩa đích thực của chúng.

2

Soomerki – từ tiếng Nga đáng yêu dành cho buổi hoàng hôn – mùa hè. Thời gian: một thời điểm mù mờ nào đó trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ không được yêu mến này. Địa điểm: vĩ độ 59 độ Bắc từ xích đạo của bạn, kinh độ 100 độ Đông từ bàn tay cầm bút của tôi. Ban ngày kéo dài nhiều tiếng mới nhạt bớt, và mọi thứ - từ bầu trời, những ngọn hoa cao vút, mặt nước tĩnh lặng – sẽ được lưu giữ trong trạng thái tĩnh tại của buổi chiều hôm bất tận, trạng thái ấy càng sâu thẳm thêm thay vì bị phá bĩnh bởi một tiếng ùm bò buồn bã từ đồng cỏ xa xa, hay bởi càng nhiều tiếng kêu da diết của chú chim đang chao cánh nào đó ở dưới hạ nguồn con sông, nơi đó lũ trẻ nhà Rukavishnikov đã đặt tên cho dải đầm lầy rộng lớn đầy rêu dớn trắng đẫm hơi sương xanh lam là châu Mỹ, do vẻ kỳ bí và hẻo lánh của nó.

Trong phòng khách của điền trang, trước khi đi ngủ, tôi thường được mẹ đọc sách bằng tiếng Anh cho nghe. Khi bà đọc đến một đoạn cực kỳ kịch tính, trong đó nam chính sắp gặp phải một sự lạ lùng nào đó có thể nguy hiểm đến tính mạng, giọng mẹ sẽ chậm lại, từng lời nhả ra một cách khoa trương, và trước khi lật trang, bà sẽ đặt bàn tay mình lên đó, cùng với chiếc nhẫn kim cương và hồng ngọc quen thuộc (giả như tôi đã là một ông đồng biết xem quả cầu pha lê giỏi hơn, hẳn tôi sẽ trông thấy từ các mặt cắt trong vắt ấy một căn phòng, con người, đèn đuốc, cây cối trong cơn mưa – toàn bộ quãng thời gian sống đời xa xứ mà chiếc nhẫn sẽ chi trả cho chúng tôi).

Có những câu chuyện về các chàng hiệp sĩ mang những vết thương khủng khiếp nhưng lại vô trùng một cách kỳ lạ được những thiếu nữ trong hang tắm táp cho. Từ trên mép đá gió thổi ào ào, một thiếu nữ thời trung cổ cùng mái tóc tung bay và một chàng trai trong chiếc quần ống bó cùng nhìn xuống Quần đảo Ân huệ hình tròn. Trong truyện “Bị hiểu lầm”, số phận của Humphrey từng mang lại một cục nghẹn trong cổ họng hơn bất kỳ điều gì trong truyện của Dickens hay Daudet (những người câu cục nghẹn vĩ đại), trong khi đó một câu chuyện ngụ ngôn trơ tráo, “Bên kia những dãy núi màu xanh”, thì kể về hai cặp khách lữ hành nhỏ bé – Clover và Cowslip phe người tốt, Buttercup và Daisy phe xấu – lại chứa đầy những chi tiết thú vị đến nỗi làm người ta quên đi cả “thông điệp” của nó.

Còn phải kể đến những cuốn sách tranh to lớn, phẳng dẹt và bóng loáng nữa. Tôi đặc biệt thích anh chàng đen như than Golliwogg mặc áo khoác xanh, quần đỏ và dàn hậu cung ít ỏi gồm năm con búp bê gỗ của cậu ta. Bằng phương cách bất hợp pháp là cắt áo choàng từ cờ Mỹ (Peg lấy phần cờ kẻ sọc bảo bọc, Sarah Jane chọn phần cờ ngôi sao xinh đẹp) hai trong số búp bê ấy đã có vẻ nữ tính mềm mại nhất định, một khi những khớp nối vô tính của chúng đã được che phủ. Cặp sinh đôi (Meg và Weg) và Người lùn vẫn còn trần trụi hoàn toàn, bởi vậy mà chúng phi giới tính.

Chúng ta bắt gặp chúng giữa đêm, lẻn ra khỏi cửa để ném những quả bóng tuyết vào nhau cho đến khi tiếng chuông của một chiếc đồng hồ nào ở xa xôi (“Nhưng Hark!” là lời tựa của đoạn văn có vần) trả chúng về với hộp đồ chơi của mình bên trong phòng trẻ. Một chú hề lò xo nhảy ra, làm Sarah đáng yêu của tôi sợ hãi, và tôi cực kỳ ghét bức ảnh ấy bởi nó nhắc nhở tôi về những bữa tiệc của trẻ con, trong đó một cô bé duyên dáng này hoặc cô nọ, người vừa mới làm tôi thích mê, vô tình bị kẹt một ngón tay hay xước đầu gối, rồi sau đó bỗng biến thành một chú quỷ lùn mặt mày tím tái, mồm miệng nhăn nhó và gào lên. Một lần khác họ cùng du hành trên xe đạp và bị bọn ăn thịt người bắt; những khách lữ hành không chút nghi ngại của chúng ta đã tìm cách giải tỏa cơn khát bên ao nước rợp bóng dầu cọ thì tiếng trống nổi lên. Ngó qua vai quá khứ, một lần nữa tôi ngưỡng mộ bức tranh chủ chốt ấy: Golliwogg vẫn còn đang quỳ trên hai đầu gối cạnh cái ao nhưng không còn uống nước nữa; tóc cậu ta dựng đứng cả lên và màu đen thường thấy trên mặt cậu đã chuyển thành một màu xám tro kỳ quái. Tôi còn có cả một cuốn sách về ô tô (Sarah Jane, luôn là nhân vật yêu thích của tôi, quấn một chiếc khăn voan dài màu xanh lục), với kết cục thường thấy – những cái nạng và những cái đầu quấn băng.

Và phải – những chiếc khí cầu. Vô vàn mét vải lụa màu vàng để tạo nên nó, thêm một quả bóng tí hon được dành riêng cho Chú Lùn may mắn sử dụng. Ở độ cao xa xôi mà con tàu khí cầu đã đạt tới, các phi hành gia túm tụm lại với nhau tìm hơi ấm trong khi anh chàng cô đơn bé nhỏ đã lạc mất kia – kẻ vẫn còn là đối tượng ghen tị của tôi bất chấp cảnh ngộ bất hạnh của chàng – đã trôi dạt vào một vùng đất của giá băng cùng những vì sao – một mình.

3

Tiếp theo tôi trông thấy mẹ đang dẫn mình về phòng ngủ qua một hành lang khổng lồ, nơi những bậc cầu thang ở chính giữa cứ dẫn lên cao mãi, và không có gì ngoài những tấm kính kiểu trong nhà kính trồng cây ngăn giữa bậc nghỉ bên trên với bầu trời đêm màu xanh lục nhạt. Cậu bé ấy sẽ lùi lại và lê bước rồi trượt một chút trên sàn đá phẳng lì của hành lang, khiến cho bàn tay dịu dàng đang đặt ở hõm lưng cậu đẩy thân hình miễn cưỡng của cậu dấn tới bằng những lần chạm âu yếm. Khi đã đến bậc cầu thang, thói quen của tôi là leo lên ấy bằng cách uốn éo chui dưới tay vịn giữa cột trụ với lan can của bậc đầu tiên. Mỗi mùa hè trôi qua, quy trình lách mình càng trở nên khó khăn hơn; ngày nay thì ngay cả bóng ma của tôi cũng sẽ bị kẹt lại.

Một phần nữa trong nghi thức sẽ là bước lên trong lúc nhắm mắt. “Bậc này, bậc này, bậc này”, giọng của mẹ vang lên trong lúc dẫn lối cho tôi – và quả nhiên, bề mặt của bậc tiếp theo sẽ nhận được bàn chân đầy tự tin của đứa trẻ bị bịt mắt; tất cả những gì ta cần làm chỉ là nhấc chân lên cao hơn một chút so với bình thường, để tránh vấp ngón chân cái vào mép cầu thang. Hành trình đi lên chậm rãi, có phần như mộng du trong bóng tối tự mang lại này, có những vui thú hiển nhiên. Thích nhất trong số đó là việc không biết khi nào thì bước cuối cùng sẽ đến. Ở đỉnh cầu thang, bàn chân của ta sẽ tự động nhấc lên trước tiếng gọi phỉnh phờ “Bậc này”, và rồi với một chút hoảng hốt thích thú và giật thột của cơ bắp, nó sẽ hạ xuống bậc thang trong tưởng tượng, nhưng khi ấy chỉ bắt gặp hư vô co giãn bất tận của nó mà thôi.

Thật đáng kinh ngạc trước những phương pháp câu giờ khi đến giờ ngủ của tôi. Tất nhiên, toàn bộ sự kiện đi lên cầu thang hồi ấy, bây giờ đã hé lộ giá trị chiêm nghiệm nhất định. Tuy nhiên, thực sự tôi chỉ chơi đùa với thời gian bằng cách nới từng giây từng phút tới giới hạn cao nhất. Việc ấy vẫn còn tiếp diễn mãi đến khi mẹ tôi xoay tôi lại để cô Clayton hay bảo mẫu cởi quần áo cho.

Có năm phòng tắm trong dinh thự thôn quê của chúng tôi, và một tập hợp lộn xộn những bồn rửa mặt đáng kính (một trong số ấy tôi thường lần mò đi tìm hốc tối của nó mỗi khi nào tôi khóc, để cảm nhận cú chạm chữa lành của dòng nước trên khuôn mặt sưng vù mà tôi quá hổ thẹn không dám trưng ra khi tôi bước chân lên bàn đạp gỉ sét). Các cữ tắm như thường lệ diễn ra vào buổi tối. Cho các lễ rửa ráy buổi sáng, người ta dùng những cái bồn hình tròn bằng cao su kiểu Anh. Bồn tắm của tôi có đường kính khoảng một mét hai, thành bồn cao tới đầu gối. Trên tấm lưng chấm bọt của đứa trẻ đang ngồi xổm, một bình nước được người hầu mặc tạp dề cẩn thận giội xuống. Nhiệt độ nước khác nhau tùy thuộc hướng dẫn thủy liệu pháp của các cố vấn khác nhau. Tôi có khoảng thời gian rất đen tối của tuổi chớm dậy thì, khi vị gia sư lúc đó của chúng tôi vô tình lại là sinh viên y khoa, kê đơn tắm nước đá. Mặt khác, nhiệt độ nước tắm buổi tối của một người lại luôn được duy trì dễ chịu ở mức 28 độ Réaumur (95 độ Fahrenheit) khi được đo bằng chiếc nhiệt kế lớn tốt bụng có lớp vỏ gỗ (với một cái dây buộc ẩm ướt trên tay cầm) cho phép nó chia sẻ niềm vui sướng của những chú cá vàng và thiên nga bé nhỏ bằng celluloid.

Buồng xí được ngăn cách với các phòng tắm, và cái cổ nhất trong số chúng khá rộng rãi nhưng hơi u ám với lớp ván ốp đẹp và một sợi thừng bằng nhung đỏ có núm tua rua, mỗi khi bị kéo, nó sẽ tạo ra tiếng ùng ục đã được điều chỉnh, bí mật chặn bớt khá hay ho. Từ góc đó của ngôi nhà, ta có thể trông thấy Sao Hôm và nghe tiếng chim sơn ca, sau này, cũng chính từ nơi đó, tôi thường ngồi sáng tác những vần thơ thuở thiếu thời, dành tặng cho những mỹ nhân không nắm bắt được, và trong tấm gương được chiếu sáng lờ mờ, tôi từng ủ ê nghiên cứu sự trỗi dậy bất chợt của một tòa lâu đài lạ lẫm trong đất nước Tây Ban Nha chưa được biết đến. Tuy nhiên, hồi còn bé tôi chỉ được giao một nhiệm vụ khiêm tốn hơn nhiều, ngồi chơi trong khoảng thụt vào rất hẹp kẹp giữa chiếc giỏ liễu gai và cánh cửa dẫn ra phòng tắm của phòng trẻ. Tôi thích để he hé cánh cửa này; thông qua nó, tôi mơ màng ngắm làn hơi nước lấp lánh bốc bên trên bồn tắm bằng gỗ gụ, ngắm hạm đội tuyệt vời của thiên nga và những chiếc tàu nhỏ, ngắm chính tôi với cây đàn hạc trên một trong những chiếc tàu, ngắm chú thiêu thân giận dữ lao vào lớp kính phản chiếu của ngọn đèn dầu, ngắm cánh cửa sổ kính màu bên trên với hình ảnh hai anh lính dùng kích tạo từ những mảng chữ nhật màu của nó. Gập người xuống từ chỗ ngồi ấm áp của mình, tôi thích tựa điểm giữa hai lông mày, chính xác hơn là đỉnh giữa trán, vào gờ cửa trơn láng dễ chịu rồi lăn đầu mình một chút, để cho cánh cửa khẽ cử động trong lúc đường gờ của nó vẫn còn nguyên tiếp xúc với trán tôi. Một giai điệu êm ái sẽ thẩm thấu vào cơ thể tôi. Những tiếng gọi trước đó “Bậc này, bậc này, bậc này” sẽ được thay thế bằng tiếng nước nhỏ giọt. Và trong lúc kết hợp hữu hiệu hình ảnh có nhịp điệu với âm thanh, tôi sẽ gỡ rối được những hoa văn mê cung trên vải trải sàn, và tìm ra những khuôn mặt ở chỗ kẽ nứt hay một điểm đen cho phép mắt người tìm ra một point de repère1 nào đó. Tôi cầu xin các bậc cha mẹ: đừng bao giờ, đừng bao giờ nói “Nhanh lên” với một đứa trẻ.

1 Điểm mốc

Đoạn cuối cùng trong hành trình làm hoa tiêu mơ hồ của tôi sẽ tới khi tôi đến được hòn đảo là chiếc giường. Từ hiên nhà hoặc phòng khách, nơi cuộc sống vẫn tiếp diễn mà không có tôi, mẹ tôi sẽ lên trên gác để lầm rầm trao những nụ hôn chúc ngủ ngon ấm áp của bà. Khóa bên trong những bức rèm cửa, ngọn nến đang cháy sáng, Chúa Jesus nhân ái, tĩnh lặng và yên bình, một em bé gì gì đó, đứa trẻ quỳ bên trên chiếc gối mà chẳng mấy chốc sẽ ấp ôm mái đầu còn đang ngâm nga của nó. Những lời cầu nguyện bằng tiếng Anh và bức tượng nhỏ của một vị thánh rám nắng của Công giáo La Mã tạo nên sự kết hợp ngây thơ mà giờ đây tôi nhìn lại với niềm vui sướng; và bên trong bức tượng, cao hơn nữa trên tường, nơi cái bóng của thứ gì đó (phải chăng là bức màn che giữa giường và cửa?) dập dờn trong ánh nến ấm áp, một bức tranh thủy mặc trong khung vẽ con đường bụi bặm uốn lượn qua một trong những cánh rừng sồi rậm rạp âm u của châu Âu, nơi loài bìm bìm là thức cây bụi duy nhất, và âm thanh duy nhất là tiếng nhịp tim của ai đó. Trong một câu chuyện cổ tích bằng tiếng Anh mà mẹ từng kể với tôi, một cậu bé bước ra khỏi giường vào trong một bức tranh và cưỡi chú ngựa yêu thích của mình dọc con đường được vẽ giữa hai hàng cây im lặng. Trong lúc tôi quỳ trên gối giữa trạng thái vừa buồn ngủ, vừa thoải mái, hạnh phúc, ngồi ghé một nửa lên bắp chân mình và nhanh chóng đọc hết lời cầu nguyện, tôi tưởng tượng ra động tác trèo vào bên trong bức tranh treo ở đầu giường tôi và lao mình vào khu rừng bị phù phép ấy – mà rồi sau này đến lúc tôi quả thực đã ghé thăm.

4

Một nhóm đông đến đáng ngạc nhiên các cô nhũ mẫu và gia sư người Anh bước ra gặp tôi khi tôi quay về thời quá khứ của mình, trong ấy cô thì vặn vẹo hai bàn tay, các cô khác mỉm cười với tôi.

Trong số đó có cô Rachel mà chủ yếu tôi nhớ được là vì món bánh quy Huntley và Palmer (những viên đá hạnh nhân xinh đẹp trên nắp chiếc hộp thiếc bọc giấy màu xanh lam, những chiếc bánh quy giòn vô vị ở đáy hộp) mà cô lén lút chia sẻ với tôi sau khi tôi đã được đánh răng sạch sẽ. Còn có cô Clayton, khi tôi ngồi thừ ra trên ghế, cô sẽ chọc vào giữa sống lưng tôi rồi vừa cười vừa ưỡn hai vai ra để cho tôi thấy điều mà cô muốn ở tôi: cô kể cho tôi nghe về một đứa cháu trai cỡ bằng tuổi tôi (lên bốn) từng nuôi sâu bướm, nhưng những con mà cô bắt cho tôi trong một cái hộp thủy tinh hở có cọng tầm ma thì đều bỏ đi vào một buổi sáng nọ, và người làm vườn bảo rằng chúng đã đi treo cổ rồi. Rồi cô Norcott đáng yêu, tóc đen với cặp mắt màu lam ngọc, người đã đánh mất một chiếc găng tay trẻ em màu trắng ở Nice hay Beaulieu, nơi tôi đi tìm trong vô vọng trên bãi biển đầy đá cuội, giữa những viên sỏi đủ màu và những mảnh màu xanh xám từ các chai thủy tinh đã bị biển làm biến chất. Cô Norcott đáng yêu đã bị yêu cầu phải ra đi ngay lập tức trong một đêm ở Abbazia. Cô đã ôm tôi trong ánh sáng chạng vạng của phòng trẻ, choàng chiếc áo mưa nhạt màu và khóc rưng rức như cây liễu rủ ở Babylon. Ngày hôm đó không ai dỗ được tôi, bất chấp món sô cô la nóng mà bà vú em già nhà Petersons đã đặc biệt làm cho tôi và cả món bánh mỳ và bơ đặc biệt, trên bề mặt trơn nhẵn của nó, hòng khéo léo thu hút sự chú ý của tôi, bà dì tôi là Nata đã vẽ một bông cúc, rồi đến một con mèo và một cô người cá bé nhỏ trong câu chuyện tôi vừa mới đọc cùng với cô Norcott, lại còn khóc bên trên nó nữa, thế là tôi lại bắt đầu khóc. Rồi đến cô Hunt nhỏ nhắn cận thị, khoảng thời gian ngắn ngủi cô ở cùng chúng tôi tại Wiesbaden đột ngột kết thúc vào cái ngày mà em trai tôi và tôi – ở tuổi lên bốn và lên năm – đã vụt thoát được tầm giám sát bồn chồn của cô bằng cách trốn lên một chiếc tàu hơi nước, nó đã mang chúng tôi đi được một quãng kha khá trên sông Rhine trước khi chúng tôi bị bắt lại. Tiếp theo là cô Robinson mũi ửng hồng. Rồi lại là cô Clayton. Có một người kinh khủng khác đã đọc cho tôi nghe câu chuyện The Mighty Atom1 của Marie Corelli. Và còn nhiều cô khác nữa. Ở một thời điểm nhất định, bọn họ đều đã mờ nhạt trong đời tôi. Các cô người Pháp và người Nga thế chỗ; và khoảng thời gian ít ỏi được nói tiếng Anh còn lại thì phải dành hết cho các buổi học thất thường với hai quý ông, thầy Burness và thầy Cummings, cả hai đều không ở cùng chúng tôi. Trong tâm trí tôi, họ gắn liền với những mùa đông ở St. Petersburg, nơi chúng tôi có một ngôi nhà trên phố Morskaya.

1 Tạm dịch: Nguyên tử vĩ đại

Thầy Burness là một người Scotland to lớn với khuôn mặt hồng hào, mắt xanh lam nhạt và mái tóc rủ màu rơm. Thầy dành các buổi sáng dạy ở một trường ngôn ngữ rồi nhồi thêm vào các buổi chiều những bài học riêng mà khoảng thời gian một ngày khó có thể chứa nổi. Khi phải đi lại giống như thầy, từ phần này tới phần kia của thành phố mà lại phụ thuộc vào bước chân trì trệ của những chú ngựa izvozchik (xe thuê) buồn chán để tới chỗ học sinh của mình, thì may mắn lắm thầy mới chỉ muộn khoảng mười lăm phút cho mỗi buổi học hai tiếng (bất kể nó ở đâu), nhưng thầy lại có mặt lúc hơn năm giờ cho buổi học lúc bốn giờ. Sự căng thẳng khi vừa phải chờ đợi thầy và vừa hy vọng rằng, chỉ một lần này thôi, tính lì lợm phi thường của thầy có thể phải chùn bước trước bức tường xám xịt của một cơn bão tuyết đặc biệt lớn nào đó chính là thứ cảm giác mà người ta tin là mình sẽ không bao giờ phải gặp lại trong cuộc đời trưởng thành (nhưng tình huống ấy chính tôi đã phải trải qua trong những trường hợp bất khả, khi mà đến lượt tôi là người đi dạy, và khi tôi phải chờ đợi một cậu học trò mặt lạnh tanh nào đó trong căn phòng đầy đủ đồ đạc của tôi ở Berlin, cậu ta sẽ luôn xuất hiện bất chấp mọi trở lực mà tôi thầm chồng chất lên trong đầu cho cậu).

Chính khoảng tối đang tụ lại bên ngoài dường như là một phụ phẩm của những nỗ lực mà thầy Burness bỏ ra để tới được nhà chúng tôi. Chẳng mấy chốc người hầu nam sẽ tới để thả những tấm rèm xanh dày dặn xuống và kéo những tấm mành hoa che cửa sổ. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng học dần dần mang theo nhịp điệu đáng sợ, cằn nhằn. Chỗ đũng quần soóc thít chặt ở hạ bộ và lớp vải cọ sát của đôi tất sọc đen đang bám lấy phần thịt mềm trong khoeo chân tôi sẽ hòa vào áp lực mơ hồ của một nhu cầu khiêm nhường mà tôi vẫn tiếp tục trì hoãn sự giải tỏa. Gần một giờ sẽ trôi qua mà vẫn không thấy bóng dáng thầy Burness đâu. Em trai tôi sẽ vào phòng nó và tập một chút trên đàn dương cầm rồi chơi đi chơi lại những giai điệu mà tôi căm ghét – phần chỉ dẫn tới những bông hoa giả trong Faust (….dites-lui qu’elle est belle1…) hoặc tiếng kêu khóc của Vladimir Lenski (…Koo-dah, koo-dah, koo-dah vi udalilis’2). Tôi sẽ bỏ đi khỏi tầng trên, chỗ ở của bọn trẻ con chúng tôi, và từ từ trượt theo hàng lan can xuống tầng hai, nơi có phòng của cha mẹ tôi. Thường cứ vào giờ đó là họ đã ra ngoài, và trong bóng tối đang tụ lại, nơi này tác động tới những giác quan non trẻ của tôi theo kiểu của thuyết mục đích một cách kỳ lạ, cứ như sự tích tụ của những thứ thân thuộc trong bóng tối này đang làm hết sức mình hòng tạo nên một hình ảnh xác định và bất biến rốt cuộc đã đọng lại trong tâm trí tôi sau khi được phơi bày nhiều lần.

1 Nói với cô ấy rằng cô ấy xinh đẹp

2 Bạn đã bỏ đi

Vẻ u ám mang sắc nâu đỏ của một buổi hoàng hôn vùng cực Bắc giữa mùa đông đã lẻn vào các căn phòng và đang đậm dần thành một màu đen đè nén. Một góc nhọn ánh đồng, một bề mặt kính hay mặt gỗ gụ được đánh bóng ở chỗ này chỗ kia trong bóng tối, phản chiếu những tia sáng ngẫu nhiên từ trên phố, nơi những bóng đèn hình tròn trên cột đèn cao dọc đường phân cách ở giữa của nó đã bắt đầu tỏa ánh sáng vàng vọt như mặt trăng. Những cái bóng mỏng manh như sao sa đang lướt trên trần nhà. Giữa cảnh tĩnh mịch này, âm thanh khô khốc của một cánh hoa cúc rơi trên mặt bàn cẩm thạch lay động cả các đầu dây thần kinh của một người.

Khuê phòng của mẹ tôi có một cửa sổ chìa nhìn ra con phố Morskaya theo hướng quảng trường Maria. Ấn môi vào lớp vải dày che cánh cửa, tôi sẽ dần dần cảm nhận được hơi lạnh của lớp kính qua tấm vải. Từ khung cửa sổ này, vài năm sau đó, chính là nơi tôi đã dõi theo những trận giao chiến khác nhau khi cuộc cách mạng nổ ra và lần đầu tiên trông thấy người bị giết, anh ta đang được đưa đi trên cáng, và một người lính đi đôi giày chất lượng kém đang cố lột chiếc ủng từ một cẳng chân lủng lẳng của anh ta, bất chấp những cú đẩy và đấm của hai người đang khiêng cáng – tất cả diễn ra trong lúc họ vẫn đang chạy băng băng. Nhưng vào những ngày có buổi học với thầy Burness, chẳng có gì để trông ngóng ngoại trừ con phố tối om, im tịt và dãy đèn lơ lửng nối tiếp trên cao của nó, vòng quanh những ngọn đèn này, các bông hoa tuyết bay qua bay lại với một dáng điệu uyển chuyển, gần như một cử động cố tình làm chậm, cứ như để cho người ta thấy cách thực hiện mánh lới của nó và việc ấy đơn giản đến mức nào. Từ một góc nhìn khác, ai đó có thể thấy một màn tuyết rơi dày hơn trong ánh sáng đèn đốt bằng ga sáng hơn, mang lửa tím, rồi cái buồng chìa ra ngoài nơi tôi đang đứng đây dường như cứ trôi chậm lên cao mãi, như một quả bóng bay. Cuối cùng một trong những chiếc xe trượt ma mị đang trượt dọc theo con phố cũng dừng phắt lại, dáng người vội vã kềnh càng của thầy Burness trong chiếc mũ shapka bằng lông cáo sẽ lao đến cửa nhà chúng tôi.

Từ phòng học, nơi tôi đã quay vào trước thầy, tôi sẽ nghe thấy những tiếng bước chân hùng hồn vang lên ngày càng gần hơn, và bất kể ngày hôm ấy có lạnh đến đâu đi nữa, khuôn mặt tốt bụng, khỏe khoắn của thầy cũng sẽ đổ mồ hôi nhễ nhại lúc thầy bước vào. Tôi nhớ lại năng lượng đáng kể mà thầy dùng khi ấn chiếc bút bị dây mực trong lúc viết xuống các bài tập để chuẩn bị cho ngày hôm sau, trong bàn tay tròn nhất trong các loại tay tròn. Thông thường cuối mỗi buổi học, thầy sẽ yêu cầu chúng tôi chép ra một bài thơ năm chữ, mục đích của bài học này là để cái từ “nhấn mạnh” trong ấy được mỗi người chúng tôi tự động viết lại mỗi lần thầy Burness siết mạnh vào bàn tay thầy đang cầm trong nắm tay hộ pháp của mình lúc đọc lên dòng thơ ấy:

Có cô thiếu nữ Nga

Người (siết) mỗi khi ta ôm lấy

Cô (siết) và cô (siết)…

Đến lúc ấy thì cơn đau đã quá mức chịu đựng đến nỗi chúng tôi không thể viết được thêm tí nào.

5

Quý ông Cummings bảo thủ, lặng lẽ, râu ria với dáng người hơi còng đã dạy tôi học vẽ năm 1907 hoặc 1908 cũng từng là thầy dạy vẽ của mẹ tôi. Thầy đã tới nước Nga từ đầu những năm 1890 với tư cách là nhà báo nước ngoài và người vẽ minh họa cho tờ Graphic của London. Người ta đồn rằng những bất hạnh trong hôn nhân đã ngáng trở cuộc đời thầy. Phong thái u sầu ngọt ngào đã bù đắp lại cho tài năng xoàng xĩnh của thầy. Thầy luôn mặc một chiếc áo choàng ulster, trừ khi thời tiết phải cực kì dễ chịu, khi ấy thầy sẽ đổi sang một kiểu áo choàng len màu nâu ánh xanh có tên là loden.

Tôi bị thu hút bởi cách thầy dùng một chiếc tẩy đặc biệt mà thầy luôn giữ trong túi áo chẽn, bởi cách thầy cầm tờ giấy phẳng phiu rồi sau đó dùng phần lưng ngón tay phủi sạch những “vụn mủ của nhựa cây” (theo cách mà thầy nói). Bằng cách âm thầm và buồn bã, thầy minh họa cho tôi thấy các định luật phối cảnh bất di bất dịch: những đường sổ dài, thẳng từ chiếc bút chì ngòi nhọn được giữ một cách thanh lịch trên tay thầy tạo ra đường viền của căn phòng từ thinh không (những bức tường trừu tượng, trần nhà và sàn nhà tiếp nối) gặp nhau ở một điểm giả tưởng xa xôi nào đấy với độ chính xác vừa như trêu ngươi, vừa vô vọng. Trêu ngươi, bởi vì nó làm tôi nghĩ đến các đường ray tàu hỏa đồng quy vừa đối xứng, vừa rắc rối trước cặp mắt vằn máu của nhân vật giả tưởng yêu thích của tôi, một người lái tàu cau có; vô vọng, là bởi căn phòng đó vẫn không có đồ đạc gì, và rỗng tuếch, thậm chí còn không có cả một bức tường trung tính mà người ta vẫn thường tìm thấy ở tiền sảnh kém hấp dẫn của một viện bảo tàng.

Phần còn lại trong phòng trưng bày tranh bù đắp lại cho tiền sảnh hoang vắng. Thầy Cummings là bậc thầy của những bức vẽ chủ đề hoàng hôn. Những bức tranh màu nước nhỏ của thầy được các thành viên trong nhà chúng tôi mua ở những thời điểm khác nhau với giá năm hoặc mười rúp một bức có số phận khá thất thường. Chúng bị dịch chuyển nhiều lần, mỗi ngày một tới gần hơn các góc tối tăm và cuối cùng thì hoàn toàn bị những con quái vật bằng sứ trơn bóng hoặc một bức ảnh mới đóng khung nào khác che lấp. Sau khi đã dạy cho tôi học được cách vẽ không chỉ các khối lập phương và hình chóp nón mà còn biết đánh bóng một cách thành thạo bằng các đường xiên mượt mà, hòa trộn trên vài phần nhất định của chúng để rồi khi nhìn lại thành quả có thể quay lưng lại với môn vẽ mãi mãi thì, trước sự ngắm nhìn mê mải của tôi, thầy giáo già tốt bụng đành chấp nhận tự ngồi vẽ các thiên đường êm ả của chính ông, những phiên bản khác nhau của cùng một phong cảnh: một đêm mùa hè với bầu trời màu da cam, cánh đồng cỏ kết thúc ở đường viền đen của một cánh rừng xa xôi, và một dòng sông lấp lánh, phản chiếu bầu trời xanh và uốn lượn đi xa mãi.

Sau này, khoảng năm 1910 tới 1912, một “nhà ấn tượng học” nổi tiếng (cách gọi của thời bấy giờ) tên Yaremich tiếp quản. Thầy là một người không có chút hài hước hay lập trường cụ thể nào, thầy chủ trương một phong cách “táo bạo”, những mảng màu xám xịt, nhưng vệt mực nâu đỏ hay nâu ô liu, bằng các công cụ ấy, tôi phải tái hiện lại trên những tờ giấy khổ lớn màu xám các hình dạng giống người mà chúng tôi đã tạo hình từ sáp nặn platixin, và đặt ở những vị trí “kịch tính” trên lớp vải nền bằng nhung đen với đủ loại nếp gập và hiệu ứng tạo bóng. Đó là một sự kết hợp đáng nản của ít nhất ba loại hình nghệ thuật, tất cả đều chưa đạt tới, và rốt cuộc tôi đã nổi loạn.

Ông ta được thay thế bằng họa sĩ trứ danh Dobuzhinski, người thích dạy tôi trong tầng chính của nhà chúng tôi, ở một trong những phòng tiếp khách xinh đẹp của nó, nơi mà thầy bước vào theo cách đặc biệt êm ái cứ như sợ làm tôi choàng tỉnh khỏi dòng suy tư thơ thẩn của mình vậy. Thầy bắt tôi miêu tả lại từ trí nhớ, chi tiết hết sức có thể, những vật thể mà chắc chắn tôi đã trông thấy cả ngàn lần mà không mường tượng ra chúng một cách tử tế: một cột đèn đường, một hòm thư, hình trang trí hoa tuy-líp trên tấm kính màu của cửa trước nhà chúng tôi. Thầy cố dạy tôi cách tìm ra mối liên hệ về hình học giữa những cành nhánh mỏng manh của một cái cây trụi lá trên đại lộ, một hệ thống có đi có lại của thị giác, đòi hỏi sự chính xác của phương trình tuyến tính. Điều này tôi đã không thể đạt được hồi nhỏ, nhưng sau này, trong bước quá độ trưởng thành, tôi đã áp dụng nó bằng thái độ biết ơn không chỉ trong việc vẽ cơ quan sinh dục của bướm trong bảy năm tôi lui tới Viện Bảo tàng Động vật học So sánh của trường Harvard, đắm mình trong cái hố sáng trưng của kính hiển vi để ghi lại bằng mực Ấn Độ các cấu trúc này khác, mà có lẽ còn trong những nhu cầu phóng ảnh cụ thể của sáng tác văn học. Tuy nhiên, về mặt tình cảm, tôi vẫn cảm thấy mang nặng ơn nghĩa với những bài học xử lý màu từ trước đó do mẹ tôi và thầy dạy vẽ của mẹ truyền thụ. Thầy Cummings mới nhanh nhẹn làm sao khi ngồi xuống một chiếc ghế đẩu, dùng cả hai tay để tách ra ở sau lưng – thứ gì nhỉ? Có phải thầy mặc một chiếc áo choàng thầy tu? Tôi chỉ trông thấy cử chỉ tay - và tiếp theo là mở cái hộp đựng màu vẽ bằng thiếc đen ra. Tôi yêu cái cách thầy nhanh nhảu chấm đầu bút lông vào nhiều màu cho tới bản hợp âm những tiếng lanh canh vội vã mà các khay men tạo ra, bên trong chúng chứa đựng một cách đẹp đẽ những chấm đỏ và vàng đậm đà nhỏ xuống từ chiếc bút lông; và sau khi đã thu đủ mật, cây bút sẽ không còn lượn lờ và chọc xuống nữa, chỉ cần hai tới ba đường quét từ đầu lông dày của nó, tờ giấy “Vatmanski” sẽ thấm ướt một màn trời màu cam đều đặn, ngang qua nó, trong khi bầu trời ấy vẫn còn ẩm, là một đám mây dài màu tím-đen. “Và đó là tất cả, con yêu ạ.” Thầy sẽ nói. “Tất cả chỉ cần có thể thôi.”

Trong một dịp, tôi nhờ thầy vẽ cho tôi một đoàn tàu tốc hành. Tôi theo dõi bút chì của thầy khéo léo mở ra một cái mũi gạt chướng ngại vật và đèn pha cầu kỳ của một cái đầu máy tàu hỏa, trông như thể nó đã được mua lại từ hãng tàu Trans-Siberia sau khi nó hoàn thành nhiệm vụ ở Mũi Promontory, Utah, trong những năm 1860. Tiếp theo là năm khoang tàu đơn sơ đáng chán. Khi thầy đã vẽ gần xong, thầy cẩn thận tạo bóng cho làn khói mù mịt tỏa ra từ lò hơi to tướng, nghiêng đầu và trao cho tôi bức vẽ, sau một hồi nghiền ngẫm vẻ hài lòng. Tôi cũng cố ra vẻ hài lòng. Thầy đã quên mất khoang chở than.

Một phần tư thế kỷ sau, tôi biết được hai điều: thầy Burness, lúc ấy đã mất, đã rất nổi tiếng ở Edinburg với tư cách là một dịch giả hàn lâm của các bài thơ lãng mạn tiếng Nga từng là bệ thờ cũng như sự tức giận thời trai trẻ của tôi; và người thầy giáo mỹ thuật khiêm nhường của tôi, với số tuổi mà tôi thường đồng hóa với các vị bô lão hay những người hầu già trong nhà, vào khoảng thời gian tôi kết hôn cũng đã cưới một cô gái Estonia trẻ trung. Khi biết được hai sự tiến triển này, tôi đã trải qua một cú sốc kỳ lạ; điều đó giống như cuộc sống đã xâm phạm tới các quyền sáng tạo của tôi bằng cách phát triển vượt lên trên những giới hạn chủ quan mà ký ức tuổi thơ của tôi đã đặt ra một cách kiêu ngạo và tiện lợi đến mức tôi tưởng mình đã ký và đóng dấu cho nó rồi.

“Thế còn thầy Yaremich?” Tôi hỏi M.V Dobuzhinski vào một buổi chiều mùa hè nọ hồi những năm 1940, trong khi chúng tôi cùng đi dạo trong rừng sồi ở Vermont. “Thầy ấy có được nhớ đến không?”

“Thực ra là có.” Mstislav Valerianovich đã trả lời. “Ông ấy đặc biệt tài năng. Tôi không biết ông ấy là kiểu giáo viên nào, nhưng tôi biết em là học sinh vô vọng nhất mà tôi từng có.”