• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nói đi, ký ức
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 20
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 20
  • Sau

Chương ba

1

Một sứ giả non kinh nghiệm chẳng khác nào một kẻ du hành thời trung cổ, đã mang về từ phương Đông những loài vật ảo tưởng do tác động từ những câu chuyện ngụ ngôn ở cố quốc mà anh ta thu nạp từ bé, thay vì kết quả của một cuộc thám hiểm động vật học trực tiếp. Do đó, trong lần xuất bản đầu tiên chương sách này, khi mô tả gia huy của nhà Nabokov (chỉ từ vài lần vội vàng liếc qua trên mẩu đồ vật nào đó của gia đình từ nhiều năm về trước), bằng cách nào đó tôi đã bóp méo nó thành cảnh an viên của hai chú gấu ngồi bên bàn cờ vĩ đại đặt giữa chúng. Giờ tôi đã tra cứu nó, cái huy hiệu ấy, và thất vọng khi phát hiện ra nó mô phỏng một cặp sư tử - những con quái vật lông nâu và có lẽ là hơi bù xù, nhưng không thực sự giống gấu – đang lè lưỡi với miếng mồi, hai chân chồm lên, đầu ngoái lại, kiêu hãnh trưng bày chiếc khiên của người hiệp sĩ xấu số, vốn chỉ bằng một phần mười sáu bàn cờ vua, với hai tông màu thay thế là xanh dương và đỏ, một hình thập tự đầu tròn màu bạc trên mỗi hình chữ nhật. Bên trên nó người ta trông thấy phần còn lại của một hiệp sĩ: chiếc mũ cứng và phần giáp ngực không ăn được của anh ta, cũng như một cánh tay dũng cảm lòi ra từ quả cầu trang trí hình lá, cũng lại màu đỏ và xanh dương, và vẫn còn vung một cây kiếm ngắn. Za hrabrost’, “vì lòng dũng cảm”, hàng chữ đã viết như vậy.

Theo lời em họ của cha tôi là Vladimir Viktorovich Golubtsov, một người yêu đồ cổ của Nga, người mà tôi đã tham vấn hồi năm 1930, thì ông tổ của gia tộc là Nabok Murza (sinh thời năm 1380), một hoàng thân Tatar đã bị Nga hóa ở Muscovy. Còn anh họ của chính tôi, Sergey Sergeevich Nabokov, một nhà phả hệ nổi tiếng, thì báo với tôi rằng trong thế kỷ XV các vị tổ tiên của chúng tôi đã sở hữu đất đai trong lãnh địa Moskva. Anh chỉ cho tôi một tài liệu (được Yushkov xuất bản trong Những hoạt động của thế kỷ XIII-XVII, Moskva, năm 1899) liên quan đến một vụ tranh chấp ở nông thôn vào năm 1494, dưới triều Ivan Đệ Tam, giữa điền chủ Kulyakin với những người hàng xóm của mình, Filat, Evdokim và Vlas, các con trai của Luka Nabokov. Trong những thế kỷ sau đó nhà Nabokov đã là quan lại trong triều đình và quân đội. Cụ cố của tôi, Tướng quân Aleksandr Ivanovich Nabokov (1749 - 1807), trong triều đại Paul Đệ Nhất, đã từng là chỉ huy trung đoàn đồn trú tại Novgorod dưới tên gọi “Trung đoàn Nabokov” trong các tài liệu chính thức. Con trai út của cụ cố, cụ Nikolay Aleksandrovich Nabokov, là một sĩ quan hải quân trẻ tuổi hồi năm 1817, khi cụ tham dự cùng Nam tước von Wrangel và Bá tước Litke, dưới sự dẫn dắt của thuyền trưởng (mà sau này là Phó đô đốc) Vasiliy Mahaylovich Golovnin, trong cuộc thám hiểm để vẽ bản đồ Nova Zembla (lại chính là nơi này trong biết bao nhiêu nơi chốn), tại đây “Sông Nabokov” đã được đặt theo tên tổ tiên của tôi. Ký ức của người dẫn đầu cuộc thám hiểm ấy đã được lưu lại ở vô số tên địa danh, một trong số chúng là Phá Golovnin, bán đảo Seward, Tây Alaska. Từ nơi đó, một loài bướm, Parnassius phoebus golovinus1, đã được bác sĩ Holland mô tả; nhưng cụ của tôi không có gì để khoe trừ dòng sông nhỏ rất xanh, gần như màu chàm, thậm chí còn là một màu xanh bực dọc, uốn lượn giữa những tảng đá ướt ấy; vì cụ nhanh chóng rời hải quân, n’ayant pas le pied marin2 (như anh họ Sergey Sergeevich của tôi, người đã báo cho tôi biết về cụ, đã nói), và chuyển sang Vệ binh Moskva. Cụ kết hôn với Anna Aleksandrovna Nazimov (em gái của một Người tháng Chạp3). Tôi không hề biết gì về binh nghiệp của cụ; dù nó có thế nào đi nữa, cụ cũng đã không thể cạnh tranh nổi với người anh của mình, Ivan Aleksandrovich Nabokov (1787 - 1852), một trong những người hùng của các cuộc chiến chống Napoleon và trong tuổi xế chiều là chỉ huy Pháo đài Peter và Paul ở St. Petersburg, ở nơi đó (năm 1849), một trong những tù nhân của cụ chính là nhà văn Dostoevski, tác giả của Tuy hai mà một, .v.v., vị tướng nhân hậu đã đem sách cho ông ta mượn. Tuy nhiên, điểm thú vị hơn nhiều đó là cụ ông đã kết hôn với Ekaterina Puschin, em gái của Ivan Pushchin, bạn học đồng thời là bạn thân của Pushkin. Hãy cẩn thận, hỡi những nhà in: hai chữ “chin” và một “kin.”

1 Loài bướm màu trắng, còn gọi là Phoebus Apollo.

2 Không có chân đi biển.

3 Những người lính Nga tham gia cuộc biểu tình tháng Mười hai năm 1825 phản đối Nicholas I lên ngôi.

Cháu của cụ Ivan và con trai của cụ Nikolay là ông nội tôi, Dmitri Nabokov (1827 - 1904), Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong tám năm, dưới hai triều đại Sa hoàng. Ông cưới bà Maria (24 tháng Chín năm 1859), ái nữ mười bảy tuổi của Nam tước Ferdinand Nicolaus Viktor von Korff (1805 - 1869), một vị tướng quân người Đức trong quân đội Nga hoàng.

Trong những gia đình lịch sử lâu đời, vài nét nhất định trên khuôn mặt sẽ tái xuất hiện như những chỉ dấu và dấu ấn của người sáng tạo. Mũi nhà Nabokov (chẳng hạn như mũi ông tôi) đúng kiểu người Nga với cánh mũi tròn mềm, chóp mũi cao và hếch lên nhẹ khi nhìn nghiêng; mũi nhà Korff (ví dụ mũi của tôi) mang dáng dấp đẹp đẽ kiểu Đức với sống mũi cao, phần chóp mũi dày thịt, lệch nhẹ và có độ khoằm đặc trưng. Người nhà Nabokov kiêu kỳ hay ngạc nhiên nhướng đôi chân mày chỉ rậm lông ở đầu gần nhau, do đó càng thưa dần về phía thái dương; lông mày của nhà Korff có độ vòng cung đẹp hơn, nhưng ngược lại lại mỏng hơn. Ngoài những điều ấy, nhà Nabokov, trong khi lùi xa dần qua phòng trưng bày tranh của thời gian vào bóng tối, chẳng mấy chốc cũng gia nhập với những người nhà Rukavishnikov nhạt nhoà mà tôi chỉ biết qua mỗi mẹ tôi và anh trai bà, bác Vasiliy, chỉ là những mẫu so sánh quá nhỏ cho mục đích hiện tại của tôi. Mặt khác, tôi lại nhìn thấy rất rõ những người phụ nữ mang dòng dõi Korff, những cô gái như huệ tây và hoa hồng xinh đẹp, pommettes1 cao hồng hào của họ, cặp mắt xanh nhạt và cái nốt nhỏ đẹp đẽ ở một bên má, một điểm nhấn giống như nốt ruồi mà cả bà nội, cha tôi và ba trên bốn người anh chị em của ông, một số trong hai mươi lăm anh chị em họ của tôi, em gái tôi và con trai tôi, Dmitri, đều được thừa hưởng ở những mức độ khác nhau, gần như những bản sao khác nhau của cùng một tác phẩm vậy.

1 Gò má.

Cụ cố người Đức của tôi, Nam tước Ferdinand von Korff, người đã kết hôn cùng cụ Nina Aleksandrovna Shishkov 1819 - 1895, sinh tại Konigsberg năm 1805, và sau quãng đời binh nghiệp thành công, cụ mất năm 1869 tại quê nhà Volgan của vợ gần Saratov. Cụ là cháu trai của Wilhelm Carl, Nam tước von Korff 1739 - 1899 và Eleonore Margarethe, Nữ Nam tước von der Osten-Sacken 1731 - 1886, và là con trai của Nicolaus von Korff (mất năm 1812), một thiếu tá trong quân đội Phổ, và vợ là Antoinette Theodora Graun (mất năm 1859), cháu gái của Carl Heinrich Graun, nhạc sĩ.

Mẹ của cụ bà Antoinette, Elisabeth, nhũ danh Fisher (sinh năm 1760), là con gái của Regina nhũ danh Hartung (1732 - 1805), con gái của Johann Heinrich Hartung (1699 - 1765), là chủ của một nhà xuất bản nổi tiếng ở Konigsberg. Kỵ Elisabeth là một mỹ nhân lừng danh. Sau khi ly dị người chồng đầu tiên của mình, Justizrat1 Graun, con trai một nhạc sĩ, vào năm 1795, kỵ đã cưới một nhà thơ kém tên tuổi là Christian August von Stagemann, và là “người bạn lớn mang dáng dấp người mẹ”, như nguồn tư liệu tiếng Đức của tôi đã ghi chép, của một nhà văn nổi tiếng hơn nhiều là Heinrich von Kleist (1777 - 1811). Ở tuổi ba mươi ba, ông này đã đem lòng yêu cuồng nhiệt cô con gái mười hai tuổi của kỵ là Hedwig Marie (sau này là von Oifers). Người ta kể rằng ông này đã ghé thăm gia đình để nói lời tiễn biệt trước khi du hành đến Wannsee – để thực hiện lời hứa tự sát đôi đầy nhiệt huyết với một tiểu thư ốm yếu – nhưng đã không được mời vào, bởi hôm đó trong nhà Stagemann đang là ngày giặt giũ. Số lượng và mức độ đa dạng trong mối liên hệ của tổ tiên tôi với thế giới chữ nghĩa thực sự rất đáng kể.

1 Thẩm phán.

Carl Heinrich Graun, cụ của cụ Ferdinand von Korff của tôi, sinh năm 1701 tại Wahrenbruck, Saxony. Cha của cụ, August Graun (sinh năm 1670), một vị quan thu thuế (‘Königlicher Polnischer und Kurfürstlicher Sächsischer Akziseneinnehmer1’- người bỏ phiếu trong vòng nghi vấn ở đây có thể là người cùng tên với cụ, August II, Vua của Ba Lan) tới từ một dòng dõi cha xứ lâu đời. Cụ tổ của cụ, Wolfgang Graun, hồi năm 1575 là một nghệ sĩ dương cầm ở Plauen (gần Wahrenbruck), nơi có một bức tượng của hậu duệ cụ, người nhạc sĩ, đang làm đẹp cho khu vườn công cộng. Carl Heinrich Graun mất ở tuổi năm mươi tám, năm 1759, ở Berlin, nơi mà mười bảy năm trước đó một rạp hát opera mới đã được khai trương với vở Caesar và Cleopatra của cụ. Cụ là một trong những nhạc sĩ kiệt xuất nhất trong thời đại của mình, và thậm chí là người vĩ đại nhất, căn cứ theo những nhà chép sử địa phương đã bị cảm động bởi nỗi tiếc thương tới từ nhà bảo trợ hoàng gia của cụ. Người ta đã vẽ cụ Graun (sau khi mất) trong dáng đứng có phần xa cách, với hai cánh tay khoanh lại, trong bức họa của Menzel về Frederick vĩ đại đang trình diễn bản nhạc của Graun bằng sáo trúc; những bản sao của bức tranh này không ngừng bám đuổi tôi ở khắp các nhà trọ tại Đức mà tôi lưu lại trong suốt thời kỳ tha hương của mình. Tôi nghe nói rằng ở Cung điện Sans-Souci ở Potsdam có một bức tranh thời hiện đại tái dựng lại Graun và vợ cụ, cụ bà Dorothea Rehkopp, đang ngồi bên cùng một chiếc đàn clavico. Bách khoa toàn thư về âm nhạc vẫn thường tái dựng lại bức chân dung của cụ ở nhà hát Berlin, trong đó trông cụ rất giống nhạc sĩ Nikolay Dmitrievich Nabokov, anh họ tôi. Một chút tiếng vọng vui vẻ, giá trị tương đương với 250 đô la, của tất cả những buổi hòa nhạc dưới trần nhà họa tranh của quá khứ vàng son ấy đã nhẹ nhàng tới tay tôi tại thành Berlin đang quỳ rạp dưới chân Hitler năm 1936, khi gia sản của dòng họ Graun, về cơ bản là một bộ sưu tập những hộp đựng thuốc lá và vài món lặt vặt quý giá khác, mà giá trị của chúng sau khi trải qua nhiều biến hóa ở ngân hàng quốc gia nước Phổ đã bị teo nhỏ lại chỉ còn khoảng 43.000 reichsmarks (quãng độ 10.000 đô la), và món tiền này được chia cho các hậu duệ của người nhạc sĩ vĩ đại, nhà von Korff, nhà von Wissmann và nhà Nabokov (nhánh thứ tư, các đời Bá tước Asinari di San Marzano đã kiệt).

1 Người thu thuế của Hoàng gia Ba Lan và Người bỏ phiếu cho Saxon. Người bỏ phiếu ở đây là một vị Hoàng thân người Đức được quyền bỏ phiếu chọn Thánh chế La Mã.

Hai nữ Nam tước von Korff đã để lại dấu vết của mình trong hồ sơ cảnh sát thành Paris. Một người, tên khai sinh là Anna-Christina Stegelman, con gái của một quản lý nhà băng người Thụy Điển, là góa phụ của Nam tước Fromhold Christian von Korff, đại tá trong quân đội Nga, cụ trẻ của bà nội tôi. Anna-Christina cũng là người em họ hay người yêu dấu, hay cả hai, của một người lính khác, chính là Bá tước Axel von Fersen lừng danh; và bà chính là người đã cho mượn cả giấy thông hành lẫn cỗ xe ngựa mới toanh đặt làm riêng của mình (một món đồ xa xỉ trên cặp bánh xe cao màu đỏ thắm, bọc nhung Utrecht trắng, với những tấm rèm xanh đậm và mọi phụ kiện mà hồi đó là hiện đại, chẳng hạn như một chiếc vase de voyage1) cho gia đình hoàng gia trên đường họ bỏ chạy tới Varennes, với Nữ hoàng đóng giả làm bà, còn Hoàng đế thì làm gia sư của hai đứa trẻ. Câu chuyện kia của cảnh sát là một màn giả trang kém kịch tính hơn nhiều.

1 Vali đi du lịch.

Với tuần lễ Carnival đang tiến đến gần ở Paris, hồi hơn một thế kỷ trước, Bá tước de Morny đã mời tới buổi vũ hội hào nhoáng tại tư dinh của mình “une noble dame que la Russie a prêtée ce hiver à la France1” (trích nguyên văn lời nhà báo Henrys trong mục Gazette du Palais trên tờ Illustration, 1859, trang 251). Người này chính là Nina, nữ Nam tước von Korff mà tôi vừa nhắc đến ở trên; cô con gái cả trong năm đứa con gái của cụ, Maria (1842 - 1926), đã được định sẽ kết hôn vào tháng Chín cùng năm đó, năm 1859, với Dmitri Nikolaevich Nabokov (1827 - 1904), một người bạn của gia đình, và cũng có mặt ở Paris cùng thời gian này. Để chuẩn bị cho buổi dạ hội, quý bà Nina đã đặt cho Maria và Olga những phục trang của các cô gái bán hoa, với giá hai trăm hai mươi franc mỗi bộ. Chi phí của chúng theo lời phóng viên mách lẻo của Illustration, tương đương với phí tổn cho sáu trăm bốn mươi ba ngày “de nourriture, de loyer et d’entretien du père Crépin2”, nghe ra thì có vẻ kỳ lạ. Khi hai bộ trang phục đã sẵn sàng, phu nhân de Korff thấy chúng “trop décollotés3” và không chịu nhận. Người thợ may váy cử huissier (chấp hành viên tòa án) của mình tới, việc này gây ra một vụ ồn ào không hay ho gì, và cụ cố nội tốt đẹp của tôi (cụ rất xinh đẹp, đam mê và, tôi rất tiếc phải nói, là kém tiết chế trong đạo đức cá nhân hơn nhiều so với vẻ bề ngoài trông từ thái độ của cụ với kẻ dưới) đã kiện thợ may váy đòi thiệt hại.

1 Một vị quý phu nhân mà nước Nga đã cho nước Pháp mượn.

2 Ăn uống, thuê nhà và giày dép.

3 Quá rộng.

Cụ khăng khăng rằng demoiselles de magasin1 đã mang tới những chiếc váy đã “des péronelles2”, và để trả lời cho phản đối của cụ rằng những chiếc váy này được cắt cổ quá trễ so với những phụ nữ đứng đắn, bọn họ đã “se sont permis de’exposer des théories esglitaires du plus mauvais gout3”. Cụ nói rằng đã quá muộn để đặt thêm một bộ váy xa xỉ nào nữa, và rằng các con gái cụ đã không đến được vũ hội; cụ buộc tội viên hussier và người hầu đã nằm ườn trên ghế mềm trong khi để các tiểu thư chọn ghế cứng; cụ cũng phàn nàn một cách giận dữ và cay đắng, rằng tay hussier đích thực đã dọa dẫm bỏ tù quý ông Dmitri Nabokoff, “Conseiller d’Estat, homme sage et plein de mesure4” chỉ vì quý ông nói trên đã định ném viên hussier qua cửa sổ. Dù lý lẽ không có bao nhiêu nhưng người thợ may đã thua kiện. Bà ta phải lấy lại hai chiếc váy, trả lại tiền, và còn phải trả thêm một ngàn franc cho viên chức tòa án; mặt khác, hóa đơn năm 1791 được gửi đến chỗ Christina từ người đóng xe ngựa của bà, một món tiền khoảng năm ngàn chín trăm bốn mươi bốn livres, đã không hề được thanh toán đồng nào.

1 Cô gái bán hàng

2 Trâng tráo một cách hỗn xược

3 Dám tung tẩy những ý tưởng dân chủ với tri thức kém cỏi nhất.

4 Một chàng trai hòa nhã

Dmitri Nabokov (hai chữ đuôi ff chỉ là một cái mốt nhất thời của Lục địa già), Bộ trưởng Bộ Tư pháp từ 1878 đến 1885, đã làm những gì ông có thể để bảo vệ, nếu không muốn nói là củng cố, những cải cách tự do của thập kỷ sáu mươi (chẳng hạn như những phiên tòa có bồi thẩm đoàn) chống lại những cuộc tấn công ác liệt của phe chống đối. “Ông đã hành động”, một nhà viết tiểu sử (theo Bách khoa toàn thư của Brockhaus, bản tiếng Nga xuất bản lần thứ hai) nói, “rất giống như thuyền trưởng của một con tàu trong cơn bão dông, người sẵn sàng ném một phần hàng hóa qua boong tàu để cứu phần còn lại.” Tôi để ý thấy cách ví von trong lời giới thiệu ấy vô tình mang âm hưởng của chủ đề tưởng niệm chính – nỗ lực sớm nhất của ông nội tôi để ném luật pháp ra ngoài cửa sổ.

Vào lúc ông về hưu, Alexander Đệ Tam đã đề nghị ông chọn hoặc tước hiệu hoặc một khoản tiền, chắc là rất lớn – tôi không biết tước vị bá tước thì đáng giá bao nhiêu ở Nga, nhưng trái với niềm hy vọng bủn xỉn của Nga hoàng, ông nội tôi (cũng như chú Ivan của ông, người cũng được Nicholas Đệ Nhất đề nghị tương tự) đã nhắm vào một phần thưởng chắc chắn hơn. (“Encore un comte raté1”, Sergey Sergeevich đã nhận xét khô khốc.) Sau đó ông hầu như sống ở nước ngoài. Trong những năm đầu của thế kỷ này, tâm trí ông đã bị lu mờ, nhưng ông vẫn bám vào một niềm tin rằng chừng nào ông còn ở lại vùng Địa Trung Hải thì mọi chuyện sẽ ổn. Các bác sĩ có ý kiến ngược lại và nghĩ ông có thể sống lâu hơn trong khí hậu ở một khu nghỉ dưỡng nào đó trên núi hoặc ở miền Bắc nước Nga. Có một câu chuyện tuyệt hay mà tôi vẫn chưa thể xâu chuỗi được tử tế, về cuộc đào thoát của ông khỏi những người chăm sóc ở đâu đó trên đất Ý. Tại đó ông đã đi lang thang, từ mặt các con mình trước những người xa lạ cười cợt, với vẻ kịch liệt như của Vua Lear, cho đến lúc ông bị một cảnh sát Ý nghiêm túc bắt lại ở một miền đất đầy đá. Trong suốt mùa đông năm 1903, mẹ tôi không ngừng túc trực bên ông ở Nice, bà là người duy nhất mà ông lão chịu đựng nổi trong những giờ phút u mê của mình. Em trai tôi và tôi, lên ba và lên bốn, cũng ở đó cùng với cô gia sư người Anh của chúng tôi; tôi nhớ những tấm ô cửa sổ kêu loạch xoạch trước cơn gió nhẹ và cái rát bỏng tuyệt vời gây ra từ một giọt sáp đóng dấu thư nóng chảy trên ngón tay mình. Dùng lửa của một ngọn nến (đã bị ánh sáng mặt trời lẻn vào thềm đá nơi tôi đang quỳ làm nhạt bớt màu), tôi đắm mình vào việc chuyển đổi những thanh sáp nhỏ giọt ấy thành những đốm dinh dính, mùi thơm tuyệt vời, mang màu đỏ tươi hay xanh dương hoặc vàng đồng. Giây tiếp theo tôi kêu gào thảm thiết trên sàn nhà còn mẹ tôi thì vội vã tới giải cứu, và đâu đó gần đấy ông nội tôi đang ngồi trên xe đẩy và dùng gậy chống đập mạnh vào những lá cờ lừng danh. Mẹ đã có khoảng thời gian khó khăn với ông. Ông dùng ngôn ngữ không thích hợp. Ông liên tục nhầm người chăm sóc đang đẩy xe cho mình dọc Promenade des Anglais với Bá tước Loris-Melikov, một đồng nghiệp (đã mất từ lâu) của ông trong Nội các chính phủ hồi những năm tám mươi. “Qui est cette femme – chassez-la1!”, ông sẽ kêu lên với mẹ tôi như thế trong lúc chỉ một ngón tay run rẩy vào Nữ hoàng Bỉ hay Hà Lan gì đó vừa dừng bước để hỏi thăm sức khỏe của ông. Tôi mơ hồ nhớ lại mình chạy tới chỗ xe đẩy để cho ông xem một viên sỏi xinh đẹp, ông cẩn thận ngắm nghía nó rồi chậm rãi bỏ tọt vào miệng. Tôi ước gì mình đã tò mò hơn cái hồi mẹ tôi thường xuyên nhớ lại những sự kiện này, nhiều năm sau đó.

1 Lại một tính toán sai lầm nữa.

1 Người đàn bà này là ai, đuổi bà ta đi.

Càng lúc ông nội càng có nhiều giai đoạn rơi vào trạng thái vô thức; trong một lần như vậy ông đã được chuyển về căn hộ nhỏ của ông trên Cầu cảng Palace ở St. Petersburg. Trong lúc ông dần khôi phục lại được ý thức, mẹ tôi liền trang trí lại phòng ngủ của ông thành một phòng giống nơi ông từng có ở Nice. Vài món đồ gỗ tương tự đã được tìm thấy còn một số đồ khác thì được vội vã đưa từ Nice về bằng một người chuyên trung chuyển đặc biệt, và tất cả những loài hoa mà tiềm thức nhạt nhòa của ông từng quen thuộc đều được thu gom, đúng chủng loại và số lượng, và một phần nhỏ của bức tường trong nhà mà có thể thoáng trông thấy từ cửa sổ đã được sơn màu trắng sáng, để mỗi lần được quay về với trạng thái tỉnh táo tương đối thì ông lại thấy mình đang an toàn trong một Riviera ảo ảnh đã được dàn dựng nhân tạo bởi bàn tay mẹ tôi; và ở đó, ngày 28 tháng Ba năm 1904, tròn mười tám năm, chính xác đến từng ngày, trước ngày mất của cha tôi, ông đã qua đời một cách yên bình.

Ông bỏ lại bốn người con trai và năm người con gái. Người con cả là Dmitri được thừa kế lãnh địa Nabokov ở Sa quốc Ba Lan hồi đó; người vợ đầu của bác là Lidia Eduardovna Falz-Fein, vợ kế là Marie Redlich; tiếp theo đến cha tôi; rồi đến Sergey, thống đốc Mitau, người đã kết hôn cùng Daria Nikolaevna Tuchkov, chắt của Nguyên soái Kutuzov, Hoàng thân Smolensk. Người con út Konstantin suốt đời độc thân. Các chị em gái: Natalia, vợ của Ivan de Peterson, Lãnh sự Nga tại The Hague; Vera, vợ của Ivan Pihachev, vận động viên và chủ đất; Nina, người đã li dị Nam tước Rausch von Traubenberg, thống đốc quân đội của Warsaw, để cưới Đô đốc Nikolay Kolomeytsev, người hùng trong cuộc chiến với Nhật Bản; Elizaveta, kết hôn với Henri, Hoàng thân Sayn-Wittgenstein-Berleburg, và sau khi ông chết, cô kết hôn cùng Roman Leikmann, cựu gia sư của các con trai mình; và Nadezhda, vợ của Dmitri Vonlyarlyarski, người mà sau này cô đã ly dị.

Chú Konstantin làm việc trong ngành ngoại giao và ở vào giai đoạn cuối sự nghiệp của mình ở London, ông đã tiến hành một cuộc đấu tranh cay đắng và không thành công với Sablin về việc ai trong hai người sẽ là lãnh đạo nhiệm vụ của Nga. Cuộc đời chú không đặc biệt kịch tính, nhưng chú cũng đã có vài lần thoát ngoạn mục khỏi số phận không được êm ái như vụ nhập viện ở London, nguyên do cái chết của chú năm 1929. Một lần, ở Moskva, ngày 17 tháng Hai năm 1905, khi một người bạn cũ, Đại công tước Sergey chỉ vừa mời chú đi chung xe với ông, nửa phút trước vụ nổ, và chú từ chối, nói lời cảm ơn nhưng chú thà đi bộ còn hơn, và chiếc xe lăn bánh tới bi kịch thảm khốc của nó với một trái bom khủng bố; và lần thứ hai, bảy năm sau đó, khi chú bị nhỡ một cuộc hẹn khác, lần này là với tảng băng trôi, bằng cách vô tình trả lại vé tàu Titanic. Chúng tôi gặp gỡ chú khá nhiều ở London. Cuộc gặp của chúng tôi ở nhà ga Victoria năm 1919 là một bức tranh sống động trong tâm trí tôi: cha tôi sải bước tới chỗ người em trai khắc kỷ của mình với vòng tay mở rộng cho một cái ôm; còn chú, vừa lùi vừa nhắc đi nhắc lại: “Mi v Anglii, mi v Anglii1.” Căn hộ nhỏ quyến rũ của chú chất đầy đồ lưu niệm từ Ấn Độ chẳng hạn như ảnh chụp các sĩ quan Anh trẻ trung. Chú là tác giả của cuốn The Ordeal of a Diplomat2 (1921), có thể được tìm thấy dễ dàng tại các thư viện công cộng lớn, và một bản tiếng Anh của vở kịch Boris Godunov của Pushkin. Chú cũng được chụp ảnh chân dung, cả chòm râu dê và mọi thứ (cùng với Bá tước Witte, hai đại biểu người Nhật và Theodore Rosevelt nhân từ), trong một bức ảnh treo tường về buổi lễ ký kết Hiệp ước Portsmouth ở cánh trái của sảnh chính Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ - một nơi vô cùng thích hợp để tìm thấy họ của tôi bằng những ký tự Sla-vơ mạ vàng, đúng như lần đầu tiên tôi trông thấy khi đi ngang qua đó – với một đồng nghiệp nghiên cứu bướm của mình, ông ấy đã bảo “Ừ đấy, ừ đấy” để trả lời cho tiếng hô hào hứng khi bắt gặp của tôi.

1 Chúng ta đang ở Anh quốc.

2 Tạm dịch: Nỗi khổ của một nhà ngoại giao

2

Xét theo biểu đồ, ba bất động sản của dòng họ ở Oredezh, cách St. Petersburg tám mươi kilômét về phía Nam, có lẽ sẽ được biểu trưng như ba vòng tròn nối với nhau trên một đoạn xích dài mười sáu kilômét trải từ Tây sang Đông vắt ngang quốc lộ Luga, với trang viên Vyra của mẹ tôi ở giữa, Rozhestveno của anh trai bà ở bên phải và Batovo của bà ngoại tôi ở bên trái, đoạn xích chính là những cây cầu bắc ngang sông Oredezh (viết đúng là Oredezh), dòng sông tắm cả hai bờ Vyra trong quá trình uốn lượn, chia nhánh và chạy vòng của nó.

Hai bất động sản khác xa hơn trong khu vực đều có liên quan đến Batovo: Druzhnoselie của bác tôi, Hoàng thân Wittgenstein, nằm cách nhà ga xe lửa Siverski vài cây số, cách chỗ chúng tôi hơn chín kilômét về hướng Đông Bắc; còn Mityushino của bác Pihachev thì đâu đó cách chỗ chúng tôi tám mươi kilômét, xuôi về phương Nam trên đường đến Luga: tôi chưa từng đến đó lần nào, nhưng lại thường xuyên lái xe quãng đường mười sáu cây số tới Wittgensteins, và một lần (tháng Tám năm 1911) còn đến thăm họ ở trang viên tuyệt vời khác của họ, Kamenka, trong thành phố Podolsk, Tây Nam nước Nga.

Trang viên Batovo đi vào lịch sử năm 1805 khi nó trở thành tài sản của Anastasia Matveevna Rileev, họ thời con gái là Esson. Con trai bà, Kondratiy Fyodorovich Rileev (1795 - 1826), một nhà thơ không mấy tên tuổi, nhà báo và là một Người tháng Chạp nổi danh, đã dành hầu như mọi mùa hè của mình trong vùng đất này, đọc những bài điếu văn cho dòng Oredezh và hát về lâu đài của Hoàng thân Aleksey, viên ngọc quý bên bờ sông. Như tôi đã giải thích cặn kẽ trong những ghi chú của mình cho Onegin, cả truyền thuyết lẫn những suy luận hợp lý, một sự kết hợp hiếm có nhưng mạnh mẽ, dường như đều kể lại rằng cuộc đấu súng rất ít người biết đến của Rileev và Puskin đã diễn ra ở công viên của Batovo, khoảng giữa ngày 6 đến ngày 9 tháng Năm (lịch cũ) năm 1820. Pushkin cùng hai người bạn của ông là Nam tước Anton Delvig và Pavel Yakovlev, những người đã đi cùng ông một đoạn ngắn trong quãng đầu tiên của cuộc hành trình dài từ St. Petersburg tới Ekaterinoslav, đã lặng lẽ rẽ khỏi đường quốc lộ Luga, ở mạn Rozhestveno, băng qua cây cầu (những tiếng vó ngựa thình thịch chuyển thành tiếng móng gõ một khoảng ngắn), và đi theo con đường đầy vết bánh xe cũ hướng về phía Tây tới Batovo. Ở đó, ngay trước tòa dinh thự, Rileev đang háo hức chờ đợi họ. Anh ta chỉ vừa tiễn người vợ đang mang thai tháng cuối cùng tới dinh thự của nàng ở Voronezh, và đang mong ngóng cho cuộc đấu súng qua nhanh – và, nhờ ý Chúa, mà được đoàn tụ với nàng ở đó. Tôi có thể cảm nhận rõ trên da mình và trong lỗ mũi mình vẻ thô mộc tinh tế của miền quê phương Bắc trong một ngày xuân, thứ đã chào đón Pushkin và hai bạn đấu dự bị của ông khi họ chui ra khỏi cỗ xe ngựa và thả bước trên đại lộ trồng cây đoan đằng sau cánh cửa vòm của Batovo, vẫn còn chìm trong bóng tối trinh nguyên. Tôi trông thấy quá rõ ba chàng trai trẻ (tổng số tuổi của họ khi ấy chỉ bằng tuổi tôi bây giờ) đi theo vị chủ nhà và hai người khách không quen biết khác, vào trong công viên. Ngày hôm đó, những nụ viôlét nhỏ bé nhàu nhĩ lộ ra qua tấm thảm lá mục của năm cũ, và những nụ màu cam vừa nhú đã chễm chệ trên cành bồ công anh run rẩy. Trong một khoảnh khắc có thể định mệnh đã lưỡng lự giữa việc ngăn cản một kẻ phản kháng anh hùng lao mình tới giá treo cổ, và tước đoạt của nước Nga tác phẩm Eugene Onegin; nhưng rồi nó đã không làm cả hai.

Vài thập kỷ sau buổi hành quyết Rileev trên thành lũy của pháo đài Peter-và-Paul năm 1826, Batovo đã được mẹ của bà nội tôi giành lại từ chính quyền, bà là Nina Aleksandrovna Shishkov, sau này là nữ Nam tước von Korff, ông ngoại tôi đã mua lại nó từ bà vào quãng năm 1855. Hai thế hệ nhà Nabokov do gia sư và bảo mẫu nuôi nấng đều biết một đường mòn xuyên rừng đằng sau Batovo với cái tên, “Le Chemin du Pendu”, lối đi yêu thích của kẻ bị treo cổ, cái tên người đời vẫn gọi Rileev: thô thật nhưng cũng hoa mỹ và kỳ diệu hơn hẳn (các quý ông ngày đó không thường xuyên bị treo cổ) so với Người tháng Chạp hay Kẻ nổi loạn. Tôi có thể dễ dàng tưởng tượng ra chàng trai trẻ Rileev trong thảm xanh dày dặn của những cánh rừng của chúng tôi, vừa đi bộ vừa đọc một cuốn sách, một hình thức đi thăng bằng lãng mạn theo phong cách của thời đại anh ta, cũng dễ dàng như tôi có thể mường tượng người trung úy không biết sợ đang tranh đấu với chế độ chuyên quyền trên Quảng trường Senate u tịch cùng các đồng chí và đội quân bối rối của mình; nhưng cái tên của cuộc dạo chơi dài, “kiểu người lớn” mà lũ trẻ ngoan vẫn hòng khao khát từ nhỏ đến qua cả thời trẻ trai ấy trong tâm trí chúng tôi không hề có liên hệ gì với số phận của vị chủ nhân bất hạnh của Batovo: anh họ tôi, Sergey Nabokov, người đã được sinh ra tại Batovo trong la Chambre du Revenant1, tưởng tượng ra một con ma bình thường, còn tôi thì chỉ ngờ ngợ ước đoán với gia sư hay bảo mẫu của mình rằng có một người lạ bí ẩn nào đó đã được tìm thấy trong lúc vẫn còn treo tòng teng từ trên cái cây dương mà một con ngài hiếm gặp tới sinh sản. Chuyện Rileev chỉ đơn giản là “Kẻ bị treo cổ” (poveshenniy hay visel’nik) với những tá điền ở đó không phải là điều gì bất thường; nhưng trong những gia đình quý tộc, rõ ràng có một điều cấm kỵ kỳ quái ngăn cản các bậc phụ huynh điểm mặt chỉ tên con ma ấy, cứ như việc định danh cho nó có thể đem lại điều bẩn thỉu làm vẩn đục vẻ mơ hồ hào nhoáng của cụm từ vốn dùng để mô tả cuốc đi bộ đẹp như tranh ở một miền quê được yêu thích. Tuy nhiên, tôi lấy làm lạ khi nhận ra ngay cả cha tôi, người có quá nhiều thông tin về những Người tháng Chạp và mang lòng cảm thông sâu sắc dành cho họ hơn các họ hàng của ông rất nhiều, cũng chưa từng một lần nào nhắc nhở tới Kondratiy Rileev, theo như tôi còn nhớ, trong những buổi dạo chơi hay đạp xe vòng quanh của chúng tôi. Anh họ tôi đã khiến tôi chú ý tới một thực tế là Tướng quân Rileev, con trai của nhà thơ, là bạn thân của Sa hoàng Alexander Đệ Nhị và của ông nội tôi, D. N. Nabokov, và on ne parle pas de corde dans la maison du pendu1.

1 Căn phòng của ma

1 Chúng ta không đề cập đến dây thừng trong nhà người treo cổ.

Từ Batovo, con đường nhấp nhô cũ (mà chúng ta đã đi theo cùng với Pushkin và giờ quành trở lại) chạy về phía Đông thêm vài cây số nữa tới Rozhestveno. Ngay trước cây cầu chính, một người có thể rẽ sang hướng Bắc vào vùng quê rộng mở dẫn tới Vyra của chúng tôi và hai công viên của nó ở hai bên đường, hoặc tiếp tục đi về phía Đông, xuống một ngọn đồi dốc, ngang qua một nghĩa trang cũ mọc đầy bụi mâm xôi và tim lang rồi băng qua một cây cầu hướng đến ngôi nhà có cột trắng của bác tôi nằm biệt lập trên đỉnh đồi.

Trang viên Rozhestveno, cùng với một ngôi làng lớn trùng tên, những vùng đất bao xung quanh, và một tòa dinh thự lớn nằm cao bên trên dòng sông Oredezh, trên đường quốc lộ Luga (hay Warsaw), trong quận Tsarskoe Selo (mà giờ là Pushkin), cách St. Petersburg (giờ là Leningrad) khoảng tám mươi cây số về phía Nam, đã được biết đến từ trước thế kỷ XVIII như là thủ phủ của Kurovitz, trong quận Koporsk cũ. Hồi năm 1715 nó là tài sản của Hoàng thân Aleksey, đứa con trai bất hạnh của Peter Đệ Nhất, kẻ chuyên bắt nạt. Một phần chiếc escalier dérobé2 hay cái gì đó khác mà tôi không nhớ nổi nữa vẫn còn được bảo tồn trong phần di tích của tòa nhà. Tôi đã từng chạm vào lan can của nó và đã trông thấy (hay bước trên) một cái khác, đã bị lãng quên. Từ lâu đài ấy, dọc đường quốc lộ dẫn tới Ba Lan và Áo, vị hoàng thân đã trốn thoát nhưng chỉ để bị điệp viên của Sa hoàng, Bá tước Pyotr Andreevich Tolstoy, cựu đại sứ ở Constantinople (cũng là nơi ông ta đã đem về cho chủ nhân mình người da đen bé nhỏ mà chắt trai sau này chính là Pushkin) dụ về từ thành phố Naples ở phương Nam xa xôi, quay lại ngôi nhà tra tấn của cha mình. Tôi tin rằng sau này Rozhestveno đã thuộc về một nhân vật yêu thích của Alexander Đệ Nhất, và dinh thự này được khôi phục lại một phần khi ông ngoại tôi mua vùng đất này khoảng năm 1880, cho con trai cả Vladimir của ông, người đã mất năm mười sáu tuổi vài năm sau đó. Người em trai Vasiliy được thừa kế nó năm 1901 và đã trải qua mười mùa hè trong số mười lăm mùa còn lại của cuộc đời ông ở đây. Tôi đặc biệt ghi nhớ vẻ mát lạnh và âm vang của nơi này, những viên đá lát đen trắng trong tiền sảnh, mười chú mèo sứ trên một cái kệ, một cái quách và một cây dương cầm, những cửa sổ trên mái và hành lang tầng trên, bóng tối nhiều màu của những căn phòng bí ẩn, hoa cẩm chướng và thập tự giá ở khắp nơi.

2 Cầu thang ẩn

3

Hồi còn thanh niên, Carl Heinrich Graun có giọng nam cao khá hay. Một buổi tối nọ, khi phải hát trong vở opera do Schurmann viết nhạc với tư cách là người phụ trách nhạc lễ của Brunswick, ông đã căm ghét vài đoạn trong đó đến mức thay thế chúng bằng ý tưởng của riêng mình. Ở đây tôi cảm nhận được sự kinh ngạc của đám con chiên vui sướng; tuy nhiên tôi lại thích hai vị tổ tiên khác của mình hơn, đó là nhà thám hiểm trẻ mà tôi đã nhắc tới và nhà bệnh học vĩ đại, ông ngoại của mẹ tôi, Nikolay Illarionovich Kozlov (1814 - 1889), chủ tịch đầu tiên của Học viện Y học Hoàng gia Nga, và là tác giả của những bài viết như “Về sự phát triển của ý tưởng của bệnh tật” hay “Về sự chít hẹp của lỗ tĩnh mạch cảnh ở người điên”. Nhân tiện nói đến việc này, tôi cũng xin nhắc tới những bài nghiên cứu khoa học của chính mình, và đặc biệt là ba bài yêu thích của tôi, “Các ghi chép về Plebejinae Trung và Nam Mỹ” (Psyche, tập 52, C.1-2 và 3-4, 1945), “Một loài mới thuộc Cyclargus Nabokov” (The Entomologist1, tháng Mười hai, 1948), và “Những thành viên Bắc Mỹ của Chi Lycaeides Hubner”, sau năm đó tôi thấy mình không còn đủ khả năng về thể chất để kết hợp cả nghiên cứu khoa học với các bài giảng, văn chương, và Lolita (bởi nàng đang trong quá trình được khai sinh – một cuộc sinh nở đau đớn, một đứa con khó khăn).

1 Nhà côn trùng học

Huy hiệu của nhà Rukavishnikov khiêm nhường hơn, nhưng cũng khác thường hơn nhà Nabokov. Huy hiệu trên khiên của họ là một phiên bản cách điệu của domna (loại lò luyện kim sơ khai), chắc chắn là để ám chỉ việc đun chảy quặng Urali mà những vị tổ tiên ưa phiêu lưu của tôi đã khám phá ra. Tôi muốn các bạn chú ý rằng những người nhà Rukavishnikov này – những người tiên phong ở Siberi, những kẻ tìm vàng và kỹ sư khai mỏ – không hề có liên quan gì, như một vài người viết tiểu sử đã giả định một cách cẩu thả, tới các nhà buôn không hề kém giàu sang hơn ở Moskva có cùng tên. Họ Rukavishnikov nhà chúng tôi (kể từ thế kỷ XVIII) thuộc về tầng lớp địa chủ nhỏ ở tỉnh Kazan. Các hầm mỏ của họ đặt ở Alopaevsk gần Nizhni-Tagilsk, tỉnh Perm, bên phía thuộc Siberia của dãy Urals. Cha tôi đã hai lần du hành đến đó trên tuyến tàu tốc hành Siberia cũ, một con tàu xinh đẹp thuộc gia đình Nord-Express mà tôi đã dự định sẽ sớm trải nghiệm, mặc dù là chuyến đi nghiên cứu về bướm chứ không phải khai khoáng, nhưng cuộc cách mạng đã cắt ngang dự án ấy.

Mẹ tôi, Elena Ivanovna (sinh ngày 29 tháng Tám năm 1876 – mất ngày 2 tháng Năm năm 1939), là con gái của ông Ivan Vasilievich Rukavishnikov (1841 - 1901), chủ đất, vị thẩm phán tòa hòa giải, nhà nhân đạo, con trai của một triệu phú công nghiệp và bà Olga Nikolaevna (1845 - 1901), con gái của bác sĩ Kozlov. Cả cha và mẹ của mẹ tôi đều chết vì bệnh ung thư trong cùng một năm, ông ngoại mất tháng Ba còn bà mất tháng Sáu. Trong số bảy anh chị em của bà, năm người đã chết từ thuở lọt lòng, và trong hai người anh trai của mẹ, bác Vladimir mất năm mười sáu tuổi ở Davos, từ hồi những năm 1880, còn bác Vasiliy mất ở Paris, năm 1916. Ông Ivan Rukavishnikov là người nóng tính khủng khiếp, và mẹ tôi rất sợ ông. Trong tuổi thơ của tôi, tất cả những gì tôi biết về ông chỉ là những bức chân dung (bộ râu, chuỗi vòng đeo của quan tòa quanh cổ ông) và những vật tế cho sở thích chính của ông là vịt giả và đầu nai sừng tấm. Một đôi gấu đặc biệt to lớn mà ông đã bắn chết đứng sừng sững với hai chi trước giương móng vuốt đáng sợ bên trong rào sắt ở tiền sảnh dinh thự thôn quê của chúng tôi. Mỗi mùa hè, tôi đều đo chiều cao của mình xem với được đến đâu cặp móng vuốt thú vị này – đầu tiên là cẳng tay bên dưới, rồi đến cẳng tay bên trên. Bụng của chúng cứng chắc đến phát chán, một khi những ngón tay bạn (đã quen sờ vào những chú chó còn sống hay thú bông) đã bị chìm xuống lớp lông nâu thô cứng của chúng. Thi thoảng chúng thường bị mang ra một góc vườn để người ta đập bụi và hong khô, và vị tiểu thư tội nghiệp đang tiến lại gần từ hướng công viên sẽ phát ra một tiếng kêu thảng thốt khi thoáng thấy một trong hai con quái vật tàn bạo đang chờ bà trong bóng râm dập dờn của đám cây. Cha tôi không quan tâm gì đến trò săn bắn, về mặt này thì hoàn toàn khác biệt với em trai ông Sergey, một người hâm mộ thể thao nhiệt thành và kể từ năm 1908 đã là vị quan quản lý đội Săn bắn cho Nga hoàng.

Một trong những ký ức tuổi thơ hạnh phúc hơn của mẹ tôi chính là một chuyến du lịch hè cùng dì ruột của bà Praskovia tới Crimea, nơi ông nội bà có một điền trang gần Feodosia. Bà dì và mẹ đã đi dạo cùng cụ ông và một quý ông lớn tuổi khác, danh họa về biển Ayvazovski. Mẹ còn nhớ họa sĩ đã nói (như ông ta từng nói không biết bao lần) rằng năm 1836, trong một buổi triển lãm tranh ở St. Petersburg, ông ta đã gặp Pushkin, “một ông già nhỏ thó xấu xí cùng người vợ cao lớn và xinh đẹp”. Đó là chuyện từ hơn nửa thế kỷ trước đó, khi Ayvazoski còn là một sinh viên mĩ thuật, và chỉ chưa đầy một năm trước khi Pushkin qua đời. Mẹ cũng vẫn còn nhớ một thoáng màu thiên nhiên đã để lại dấu ấn từ bảng màu của chính nó – vệt trắng do chim để lại trên đỉnh chiếc mũ xám của ông họa sĩ. Bà dì Praskovia đang đi bộ bên cạnh là em gái của mẹ bà, người đã kết hôn cùng nhà nghiên cứu bệnh giang mai được tưởng thưởng là V.M. Tarnovski (1839 - 1906), và bản thân bà dì cũng là một bác sĩ, tác giả các sách nghiên cứu về tâm thần học, nhân loại học và an sinh xã hội. Một buổi tối nọ ở dinh thự của Ayvazovski gần Feodosia, trong bữa tối, bà dì Praskovia đã gặp bác sĩ hai mươi tám tuổi Anton Chekhov, mà vì lý do gì đó bà đã xúc phạm đến anh ta trong một cuộc thảo luận về y khoa. Bà là một vị phu nhân rất học thức, rất tử tế và cực kỳ lịch thiệp, và thật khó để tưởng tượng chính xác bằng cách nào bà lại khiêu khích một cơn cuồng nộ như Chekhov thể hiện ra trong một lá thư của anh ta gửi ngày 3 tháng Tám năm 1888 cho chị gái mình. Bà dì Praskovia, hay Pasha như cách chúng tôi gọi bà, thường đến thăm chúng tôi ở Vyra. Bà có một cách chào chúng tôi rất quyến rũ, trong lúc bà lướt vào phòng trẻ với giọng sang sảng “Bonjour, les enfants1!”. Bà mất năm 1910. Mẹ tôi đã ở bên giường bà, và những lời cuối của bà dì Pasha là: “Thật thú vị. Giờ thì ta đã hiểu. Mọi thứ chỉ là nước, vsyo – voda.”

1 Chào các cháu!

Anh trai của mẹ tôi, Vasiliy, làm trong ngành ngoại giao, tuy nhiên bác lại coi nhẹ công việc này hơn chú Konstantin của tôi rất nhiều. Với bác Vasiliy Ivanovich, đó không phải là một sự nghiệp, mà cùng lắm chỉ là một sự sắp đặt khéo léo của cuộc đời. Những người bạn Pháp và Ý của bác, bởi không thể phát âm được họ của bác bằng tiếng Nga dài thòng, đã rút gọn nó thành “Ruka” (trọng âm rơi vào âm tiết cuối), và cái tên ấy hợp với bác hơn nhiều so với tên Cơ đốc. Bác Ruka xuất hiện trong tuổi thơ tôi thuộc về thế giới của đồ chơi, những cuốn sách tranh sặc sỡ, và những cây anh đào nặng trĩu thứ quả màu đen bóng lưỡng: bác dựng nhà kính cho cả một vườn quả ở góc điền trang của mình, nơi được ngăn cách với chỗ chúng tôi bởi dòng sông uốn lượn. Trong suốt mùa hè, gần như ngày nào vào tầm giờ ăn trưa người ta cũng thấy cỗ xe ngựa của bác đang băng qua cây cầu rồi tăng tốc về phía nhà chúng tôi dọc hàng rào cây thông non. Khi tôi lên tám hay chín, lần nào cũng thế, bác sẽ bế tôi ngồi lên đùi mình sau bữa trưa và nựng nịu tôi bằng những tiếng ngâm nga khe khẽ cùng biệt danh đáng yêu (trong lúc hai người hầu nam trẻ đang dọn cái bàn ở phòng ăn trống), và tôi cảm thấy xấu hổ vì bác mình trước sự hiện diện của gia nhân, và nhẹ cả lòng mỗi khi cha gọi bác từ ngoài hiên: “Basile, on vous attend1.” Có lần khi tôi tới gặp bác ở nhà ga (chắc lúc ấy tôi đã mười một, mười hai tuổi) và nhìn bác đi xuống từ khoang tàu nằm quốc tế rất dài, bác chỉ nhìn lướt qua tôi một cái rồi nói: “Cháu đã trở thành một chàng trai nông cạn và tầm thường biết bao (jaune et laid), thằng bé tội nghiệp của ta.” Vào ngày đặt tên thánh năm tôi mười lăm tuổi, bác đã gọi tôi sang một bên và thông báo với tôi bằng thứ tiếng Pháp chắc nịch, chính xác và có phần cổ hủ rằng bác sẽ lập tôi làm người thừa kế của mình. “Còn giờ thì con có thể đi.” Bác nói thêm, “l’audience est finie. Je n’ai plus rien à vous dire1.”

1 Basil, chúng em đang đợi anh.

1 Buổi lễ đã kết thúc, ta không có gì để nói thêm với con.

Tôi nhớ đến bác như một người đàn ông bé nhỏ, gầy gò với nước da xám xịt, cặp mắt xám-xanh lục lấm chấm nâu đỏ, một bộ ria thẫm màu rậm rạp, và một cục yết hầu gồ lên lồ lộ bên trên chiếc nhẫn ngọc mắt mèo và vàng làm cái chặn cho cà vạt của bác. Bác cũng mang ngọc mắt mèo trên tay và trong cặp măng-xéc. Một sợi xích bằng vàng nhỏ đeo trên cổ tay phủ lông tơ mỏng của bác, và thường ở trong khuyết áo của bộ vest mùa hè màu xám-bồ câu, xám-lông chuột hay xám-bạc luôn có một nụ hoa cẩm chướng. Tôi thường chỉ gặp bác vào mùa hè. Sau một thời gian ngắn ở lại Rozhestveno bác sẽ quay lại Pháp hay Ý, tới lâu đài của bác (được gọi là Perpigna) gần Pau, hay dinh thự (được gọi là Tamarindo) gần Rome, hay Ai Cập yêu thương của bác, từ đó bác sẽ gửi cho tôi các tấm bưu thiếp (những cây cọ dầu và hình phản chiếu của chúng, những buổi hoàng hôn, các pharaoh2 đặt tay lên đầu gối) với chữ viết ngoằn ngoèo của bác bên trên. Rồi, tháng Sáu lại đến, khi hoa cheryomuha thơm ngát (loài anh đào vàng của lục địa già hay chỉ đơn giản là “tim lang” như tôi đã làm lễ rửa tội cho nó trong tác phẩm dịch “Onegin”) đang nở rộ, cờ hiệu riêng của bác sẽ nghễu nghện trên cơ ngơi Rozhestveno xinh đẹp. Bác đã du hành cùng nửa tá rương khổng lồ, hối lộ Nord-Express để họ dừng ở điểm riêng tại nhà ga nhà quê nhỏ bé của chúng tôi, và với lời hứa sẽ có món quà tuyệt vời, trên cặp chân đi giày trắng cao gót nhỏ nhắn nhún nhảy, bằng cách bí ẩn nào đó, bác sẽ dẫn tôi tới cái cây gần nhất và nhẹ nhàng hái rồi đưa ra một chiếc lá, rồi nói, “Pour mon neveu, la chose la plus belle au monde – une feuille verte.1”

2 Pharaoh: là Tước hiệu chỉ các vị vua Ai Cập cổ đại từ Vương triều thứ nhất cho đến khi bị Đế quốc La Mã thôn tính năm 30 TCN.

1 Tặng cháu trai tôi, món quà đẹp đẽ nhất trên đời – một chiếc lá xanh.

Hay từ nước Mỹ, bác sẽ trịnh trọng mang về cho tôi tập truyện Foxy Grandpa và Buster Brown – một thằng bé bị lãng quên trong bộ vest màu đỏ: nếu ai đó nhìn kĩ, họ có thể trông thấy màu ấy thực ra chỉ là một tập hợp những cái chấm đỏ dày đặc. Mỗi chương lại kết thúc bằng một trận đòn ra trò cho Buster từ bàn tay của bà Má eo con kiến nhưng khỏe mạnh của nó, người dùng đến cả dép, lược chải đầu, cái ô dễ gãy, bất kỳ cái gì – thậm chí cả dùi cui của một ông cảnh sát ưa giúp đỡ – để tống bụi từ mông quần Buster ra. Vì tôi chưa từng bị đánh trước đó, những bức vẽ ấy làm gợn lên trong tôi ấn tượng về một kiểu tra tấn ngoại lai kỳ lạ không khác là mấy với cảnh chôn sống một thằng nhóc mắt tròn xoe bị ngập cát đến tận cằm trên sa mạc nóng rẫy chẳng hạn, giống như cảnh được trình bày trong trang bìa cuốn sách của Mayne Reid.

4

Dường như bác Ruka đã sống một cuộc đời nhàn tản và xáo trộn kỳ lạ. Sự nghiệp ngoại giao của bác thuộc về một loại mơ hồ nhất. Tuy nhiên bác rất tự hào là một chuyên gia trong việc giải mã các thông điệp mã hóa bằng bất kỳ ngôn ngữ nào trong số năm thứ tiếng mà bác biết. Một ngày nọ chúng tôi thử thách bác, và chỉ trong nháy mắt bác đã chuyển dòng “5.13 24.11 13.16 9.13.5 5.13 24.11” thành những lời mở đầu trong đoạn độc thoại lừng lẫy của Shakespeare.

Trong chiếc áo khoác hồng, bác đã cưỡi ngựa đi săn ở Anh hay Ý; trong áo choàng lông thú, bác thử chạy xe gắn máy từ St. Petersburg tới Pau; mặc một chiếc áo choàng opera, bác suýt thì mất mạng trong một vụ rơi máy bay ở bãi biển gần Bayonne. (Khi tôi hỏi bác viên phi công của chiếc Voisin bị nạn ấy thế nào, bác Ruka đã nghĩ một lát rồi trả lời chắc nịch: “Il sanglotait assis sur un rocher1.”) Bác hát các khúc đưa đò và những bản nhạc thời thượng (“Il se regardent tous deux, en se mangeant des yeux…” “Elle est morte en février, pauvre Colinette!...” “Le soile rayonnait encore, j’ai voulu revoir les grands bois…2” và cả tá bài khác nữa.) Bác cũng tự sáng tác nhạc, kiểu ngọt ngào, êm dịu, và thơ bằng tiếng Pháp, dễ dàng đọc lại như thể thơ iambơ trong tiếng Anh hay tiếng Nga một cách kỳ lạ, và nổi bật bởi việc phớt lờ phần lớn sự êm dịu của âm e câm. Bác còn là một tay chơi bài xì phé cực siêu.

1 Anh ta đang ngồi nức nở trên một tảng đá.

2 "Cả hai nhìn nhau, tan vào mắt nhau…", "Cô ấy ra đi vào tháng Hai, Colinette tội nghiệp!", “Đất vẫn còn rạng rỡ, tôi muốn nhìn thấy những khu rừng vĩ đại một lần nữa"

Vì bị nói lắp và gặp khó khăn khi phát âm các âm môi, bác đã đổi tên cho người đánh xe của mình từ Pyotr thành Lev; và cha tôi (người luôn cư xử với bác hơi khắt khe) đã buộc tội bác là có tâm lý của chủ nô. Ngoài điều này ra, cách nói chuyện của bác là một sự tổng hợp khó chiều của tiếng Pháp, tiếng Anh và tiếng Ý, tất cả những ngôn ngữ bác nói được một cách dễ dàng hơn nhiều so với tiếng mẹ đẻ của mình. Khi nào bác phải vận đến tiếng Nga thì gần như nó luôn bị dùng sai hoặc xuyên tạc một thành ngữ hay kể cả cách nói bình dân phổ cập nào đó, giống như lần bác nói bên bàn ăn với một tiếng thở dài đột ngột (vì lúc nào cũng có điều gì đó không đúng – một cơn viêm mũi dị ứng, một chú công bị chết, một chú chó borzoi bị lạc mất): “Je suis triste et seul comme une bylinka v pole (cô đơn như một “lưỡi cỏ trong cánh đồng").”

Bác khăng khăng cho rằng mình mắc dị tật tim không thể chữa được, mỗi khi lên cơn co thắt bác chỉ có thể nằm ngửa trên sàn nhà để dễ chịu hơn. Không ai coi lời bác nói là nghiêm trọng, và sau khi quả thực bác đã chết vì chứng đau thắt ngực, chỉ một thân một mình giữa Paris hồi cuối năm 1916 ở tuổi bốn mươi lăm, thì mọi người mới kinh ngạc nhớ ra những sự kiện sau bữa tối trong phòng khách ấy – một người hầu chưa biết gì đi vào với tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ, cha tôi liếc nhìn mẹ tôi (với vẻ dò hỏi chán nản), rồi nhìn sang ông anh vợ mình đang nằm duỗi tay chân kiểu đại bàng trên lối đi của người hầu (với vẻ không bằng lòng), và nhìn vào những lung lay hài hước của đồ dùng cà phê đang đặt trên khay, nằm trong bàn tay đi găng của một gia nhân tỏ ra lãnh đạm (với vẻ tò mò).

Để tìm niềm an ủi khỏi những nỗi đau kỳ lạ khác xảy ra trong quãng đời ngắn ngủi của mình, bác tôi – nếu cách hiểu của tôi là đúng – hướng về tôn giáo, đầu tiên là các chi giáo phái của Nga, rồi dần dần là nhà thờ Công giáo La Mã. Bác là một người bị rối loạn thần kinh chức năng về màu sắc mà thông thường sẽ là dấu hiệu của một tài năng thiên bẩm, nhưng trong trường hợp của bác thì không có, bởi vậy bác luôn phải tìm kiếm một hình bóng di động khác nơi mình. Hồi niên thiếu bác bị cha đẻ ghét cay ghét đắng. Ông cụ là một quý ông nông thôn kiểu cũ điển hình (săn gấu, nhà hát riêng, một vài bức tranh của các bậc thầy cũ giá trị trong cả đống rác rưởi khác), tính khí nóng nảy không thể kiềm chế nổi của ông cụ nghe nói còn có lần đe dọa tính mạng của chính đứa con trai. Sau này mẹ kể lại với tôi về tình hình căng thẳng trong gia đình ở Vyra hồi bà còn bé, về những cảnh tượng tàn bạo đã diễn ra trong phòng làm việc của ông Ivan Vasilievich, một căn phòng ở góc u ám trông ra một cái giếng cũ với bánh xe quay rỉ sét nằm dưới năm cây dương Lombardy. Chẳng có ai dùng căn phòng đó trừ tôi. Tôi cất sách vở và bảng bày côn trùng của mình trên những cái giá đen sì của nó, rồi sau đó thuyết phục mẹ cho chuyển vài đồ đạc vào phòng học đầy nắng nhỏ nhắn của tôi bên mé vườn, và ở đó, một buổi sáng kia, tôi đã chất lên cái bàn viết khổng lồ phủ da tối màu của nó mỗi một con dao rọc giấy cong to đùng mà đáng ra phải gọi là mã tấu làm bằng ngà voi màu vàng, được đẽo gọt từ ngà của một con ma-mút.

Khi bác Ruka mất, hồi cuối năm 1916, bác để lại cho tôi số tiền tương đương với vài triệu đô la thời nay và điền trang ở nông thôn của bác với tòa lâu đài cột trắng nằm trên ngọn đồi xanh mướt, dốc đứng và hai ngàn mẫu rừng cây cộng bãi than bùn. Người ta bảo tôi rằng ngôi nhà vẫn còn đứng vững ở đó vào năm 1940, đã bị quốc hữu hóa nhưng tách biệt, trở thành một viện bảo tàng cho bất kỳ khách lữ hành nào tới thăm quan nếu họ đi theo tuyến quốc lộ St. Petersburg – Luga chạy bên dưới xuyên qua làng Rozhestveno và băng qua nhánh sông đó. Nhờ những đảo hoa súng nổi và lớp tảo dệt xanh như vải gấm, dòng Oredezh xinh đẹp mang theo mình bầu không khí hội hè ở đúng điểm đó. Xuôi xuống xa thêm trên con đường uốn lượn của nó, nơi những chú nhạn nâu lao ra khỏi những cái hố của chúng trong bờ sông đỏ dốc xuống, dòng sông đượm nồng hình phản chiếu của những cây linh sam to lớn, lãng mạn (đường viền của Vyra của chúng tôi); và càng đi xuống xa hơn nữa, dòng chảy dữ dội bất tận của cối xay bằng nước mang đến cho người thưởng ngoạn (khi hai khuỷu tay anh ta vẫn còn đặt trên lan can) cảm giác đang lùi xa mãi mãi, như thể đang đứng trên đuôi của chính con tàu thời gian vậy.

5

Đoạn văn sau đây không dành cho độc giả nói chung, mà nhắm đến một tên ngốc cụ thể, kẻ đã nghĩ rằng hắn hiểu tôi bởi từng mất một gia tài sau vụ va chạm nào đó.

Nỗi hoài niệm mà tôi ấp ủ biết bao năm qua là cảm giác mất mát tuổi thơ bị thổi bùng lên, chứ không phải là sự luyến tiếc với những đồng giấy bạc có mệnh giá.

Và cuối cùng: Tôi giữ lại cho mình quyền được khóc thương một hốc sinh thái:

…Dưới bầu trời

Nước Mỹ của tôi

Vẳng tiếng thở dài

Từ một miền quê nước Nga.

Độc giả nói chung xin mời tiếp tục.

6

Tôi gần mười tám tuổi, rồi tôi bước qua tuổi mười tám; chuyện yêu đương và thơ thẩn chiếm gần hết thời gian rảnh rỗi của tôi; những vấn đề về vật chất chẳng làm tôi bận lòng, và dù sao đi nữa nếu xét từ sự giàu có của chúng tôi thì món thừa kế nào cũng không có vẻ quá đáng kể. Thế nhưng, khi nhìn lại sự việc từ bên kia vực thẳm trong suốt, tôi thấy kỳ lạ và có phần khó chịu khi nhớ lại rằng trong suốt cái năm ngắn ngủi tôi được sở hữu khối tài sản riêng ấy, tôi còn quá mải miết với những niềm vui của tuổi trẻ – thứ tuổi trẻ sẽ nhanh chóng đánh mất tính sôi nổi ban đầu thường thấy của nó – để có thể thu được bất kỳ niềm vui đặc biệt nào từ di sản ấy, hay trải nghiệm chút bực tức gì khi cuộc Cách mạng Bolshevik xóa sổ nó chỉ sau một đêm. Những suy ngẫm này khiến tôi có cảm giác vô ơn với bác Ruka; dường như tôi đã gia nhập vào thái độ khinh khỉnh cười cợt của đám đông vẫn thường có với bác, kể cả từ những người thực sự thích bác. Tôi cực kỳ ghê tởm khi phải ép buộc mình nhớ lại những lời nhận xét chế giễu mà Monsieur Noyer, gia sư người Thụy Sỹ của tôi (trừ những lời này ra thì ông ta là một linh hồn tử tế nhất), đã nói về bản nhạc hay nhất của bác tôi, một bài trữ tình, cả phần nhạc và lời đều do bác viết. Một ngày nọ, trên hiên tòa lâu đài Pau của mình, với cánh đồng nho màu hổ phách bên dưới và những rặng núi tím ở xa xa, vào khoảng thời gian bác bị chứng hen suyễn, tim đập nhanh, những cơn run rẩy hành hạ, một sự bóc trần kiểu của Proust với các giác quan, đích thực là một cuộc vật lộn, chịu ảnh hưởng từ các sắc độ mùa thu (mà theo lời của chính bác là “chapelle ardent de feuilles aux tons violents1”), từ những cánh chim bồ câu hằn trên nền trời dịu dàng, bác đã soạn nên bản nhạc trữ tình dành cho đàn một dây ấy (và người duy nhất còn nhớ cả nhạc lẫn phần lời trọn vẹn là em trai tôi, Sergey, đứa trẻ bác hiếm khi để tâm, cũng là một người nói lắp, và giờ cũng đã mất).

“L’air transparent fait monter de la plaine2…”, bác sẽ hát bằng giọng nam cao của mình khi đang ngồi bên chiếc đàn dương cầm màu trắng trong dinh thự thôn quê của chúng tôi – và nếu ngay lúc đó tôi đang vội vã băng qua các lùm cây nhỏ trên đường chạy về nhà ăn trưa (ngay sau khi trông thấy chiếc mũ rơm vui tươi của bác và nửa thân trên vạm vỡ mặc áo nhung đen của anh đánh xe đẹp trai có khuôn mặt nghiêng kiểu người Assyria, với hai cánh tay áo dài đỏ chót, nhanh nhẹn lướt dọc mép hàng rào ngăn cách công viên khỏi lối lái xe) những âm thanh thô mộc:

Un vol de tourterelles strie le ciel tendre,

Les chrysanthèmes se parent pour la Toussaint3

sẽ vẳng đến tai tôi cùng chiếc vợt bướm màu xanh trên con đường mòn rợp bóng lá rung rinh, cuối đường là mảng cát đỏ thẫm và một góc ngôi nhà vừa sơn lại mới tinh của chúng tôi với màu quả thông non, với cánh cửa phòng khách mở rộng mà từ đó tiếng nhạc sẽ len vào.

1 Nhà nguyện rực rỡ của lá cây mang những tông màu dữ dội

2 Không khí trong suốt bốc lên từ đồng bằng.

3 Một đàn chim bồ câu bay lượn trên bầu trời dịu dàng/Những bông hoa cúc tự tô điểm cho Ngày Thánh lễ.

7

Hành động gợi nhớ lại một mảng trong quá khứ là điều gì đó mà dường như tôi đã thực hiện suốt cả đời cùng với niềm vui sướng, và tôi có lý do để tin rằng lòng nhiệt tình gần như ngả sang hướng bệnh lý hoài niệm quá vãng này là một đặc tính di truyền. Trong rừng có một điểm đặc biệt, một cái cầu dành cho người đi bộ băng qua con suối màu nâu, nơi cha tôi sẽ sùng kính dừng bước để nhớ lại một con bướm loại hiếm mà vị gia sư người Đức của ông từng bắt cho ông vào ngày 17 tháng Tám năm 1883. Cảnh tượng ba mươi năm tuổi ấy sẽ được trải nghiệm một lần nữa. Cha cùng các anh em trai của mình đã dừng phắt lại trong niềm vui sướng khôn tả trước hình ảnh chú côn trùng đáng thèm muốn đang đậu trên một khúc cây và đi lên đi xuống, vẻ như đang cảnh giác thở, bốn cái cánh màu anh đào của nó cùng đốm mắt trên mỗi cánh. Trong sự im lặng căng thẳng, không dám tự mình vụt gậy, cha đã đưa cái vợt cho Herr Rogge, người nhận lấy nó trong lúc dán chặt mắt vào con bướm rực rỡ. Ngăn kéo của tôi được kế thừa mẫu vật ấy một phần tư thế kỷ sau đó. Một chi tiết cảm động: những cái cánh của nó đã “bung ra” bởi nó đã bị nhấc khỏi bảng kẹp quá sớm, quá vội vàng.

Trong một biệt thự mà chúng tôi đã thuê cùng gia đình chú Ivan de Peterson vào mùa hè năm 1904 ở bãi biển Adriatic (tên của nó hoặc là “Neptune” hoặc “Apollo” – tôi vẫn còn có thể nhận ra cái tháp màu kem có lỗ châu mai của nó trong những bức ảnh cũ của Abbazia), ở tuổi lên năm, đang đờ đẫn trong chiếc cũi của mình sau bữa trưa, tôi thường nằm úp bụng, cẩn thận, âu yếm, bất lực vẽ bằng ngón tay trỏ của mình trên gối, theo một lối nghệ thuật chi tiết rất khó để hòa hợp được với khoảng thời gian ít ỏi đến phi lý đã trôi qua để hình thành nên một hình ảnh hoài niệm không thể giải thích nổi về “nhà” (nơi tôi chưa từng nhìn lại kể từ tháng Chín năm 1903). Thứ tôi vẽ là con đường đánh xe dẫn lên tận dinh thự ở Vyra của chúng tôi, những bậc thang bằng đá ở bên phải, lưng chiếc ghế băng trạm trổ ở bên trái, hàng cây sồi non bắt đầu ngay sau những bụi kim ngân, và một cái vó ngựa vừa mới rơi xuống, một vật của nhà sưu tập (to hơn và sáng bóng hơn nhiều so với những cái vó rỉ sét mà tôi thường tìm thấy trên bãi biển), sáng lấp lánh trên lớp bụi đỏ quạch của con đường. Hoài niệm của hoài niệm ấy đã xa xôi hơn cả ký ức ban đầu đến sáu mươi năm, nhưng lại không bất thường bằng.

Một lần, năm 1908 hay 1909, bác Ruka bỗng đắm đuối với những cuốn sách trẻ em của Pháp nào đó mà bác vô tình bắt gặp trong nhà chúng tôi; với một tiếng kêu phấn khích, bác tìm được đoạn văn mà khi còn bé bác đã yêu thích, bắt đầu bằng, “Sophie n’était pas iolie1…” và rất nhiều năm sau đó, tiếng kêu của tôi lặp lại của bác, khi tôi khám phá ra, trong một phòng trẻ ngẫu nhiên, vẫn là những tập “Bibliothèque Rose” đó, với những câu chuyện về các cậu bé và cô bé dẫn đầu một phiên bản lý tưởng của vie de château1 như gia đình tôi dẫn đầu ở Nga. Bản thân những câu chuyện ấy (toàn bộ trong sách Les Malheurs de Sophie2, Les Petites Filles Modèles3, Le Vacances4), như tôi nhìn nhận chúng bây giờ, đều là một sự kết hợp kinh khủng của thói kiểu cách và sự thô tục; nhưng trong lúc viết chúng ra, Madam de Ségur, nhũ danh Rostopchin, ủy mị và tự mãn đã Pháp hóa khung cảnh đích thực của nước Nga trong thời thơ ấu của bà ta, vốn diễn ra trước thời thơ ấu của tôi đúng một thế kỷ. Trong trường hợp của chính tôi, khi tôi lại vấp phải những vấn đề của Sophie – việc không có lông mày và yêu món kem đặc của cô bé – tôi không chỉ phải trải qua cùng sự đau khổ và niềm vui như ông bác tôi, mà còn phải chấp nhận một gánh nặng thêm vào – hồi ức tôi có về bác lúc đang sống lại tuổi thơ cùng với sự giúp sức của chính những cuốn sách này. Một lần nữa tôi trông thấy phòng học của mình ở Vyra, những bông hồng xanh trên giấy dán tường, khung cửa sổ mở rộng. Hình phản chiếu của nó lấp đầy khung gương hình ô van bên trên chiếc trường kỷ bọc da mà bác tôi ngồi trong lúc hau háu nhìn ngắm cuốn sách đã tả tơi. Một chút cảm giác an tâm, khỏe khoắn của hơi ấm mùa hè ngập tràn trong ký ức của tôi. Thực tại rực rỡ ấy tạo nên bóng ma của thời hiện tại. Chiếc gương hực lên ánh nắng; một chú ong mật đã vào phòng và lao vào trần nhà. Mọi thứ đều như nó nên phải thế, không có gì phải thay đổi, không ai phải chết bao giờ.

1 Sophie không ngốc nghếch

1 Cuộc sống vương giả

2 Vận rủi của Sophie

3 Những cô gái nhỏ mẫu mực

4 Các kì nghỉ